Chân trời ngập trong sắc đỏ của ráng chiều, cũng sắp hoàng
hôn.
Trên triền núi có một khu rừng nhỏ, ngoài bìa rừng là hoàng
thảo[1] lan tràn mặt đất, điểm xuyết chút lá vàng khô rơi rụng, đứng ở nơi này
phóng tầm mắt ra xa, càng thấy ranh giới đất trời.
[1] Hoàng thảo: Còn có tên gọi khác là cỏ Ngải, là một loại
thực vật thân cỏ lâu năm, sinh trưởng chủ yếu ở khu vực châu Á và châu Âu.
Ta và Hoành Văn tìm một nơi để ngồi, coi như ngắm cảnh thiên
nhiên, Hoành Văn ngáp dài: “Quả thực thấy người hơi rệu rã rồi”. Sau đó nhắm mắt
lại, ngã người xuống thảm cỏ. Ta ngồi đó trông bầu trời phía xa xa, chẳng hiểu
vì sao đột nhiên tức cảnh sinh tình, nơi ấy cao xa và diệu vợi như thế, ta lại
có thể sống trên đó thật nhiều năm. Thật là hời cho Tống Dao quá.
Trời vừa tối, Hoành Văn liền hỏi ta tới chỗ nào giết thời
gian bây giờ, ta nói: “Ta muốn tới chỗ Mộ Nhược Ngôn xem một chút”.
Hoành Văn khoan thai hỏi lại: “À… Ngươi muốn tới chỗ Mộ Nhược
Ngôn xem mèo rừng thế nào chứ gì?”.
Ta nói: “Không phải, ta muốn tới thăm Mộ Nhược Ngôn. Chiều
nay nghe Mệnh Cách nói xong, ta cứ cảm thấy trong lòng khó chịu. May mà Mệnh
Cách không nói gì cho ta biết, chứ nếu không có khi ta sẽ chạy tới nói hết cho
hắn nghe mất. Hiện giờ… chẳng có gì để nói… nhưng trong lòng vẫn muốn tới thăm
hắn một lần”.
Hoành Văn thở dài nói: “Được rồi, vậy ngươi cứ đi đi. Ta muốn
thay đổi bộ dạng vào thành Lô Dương đi dạo một chút, không đi cùng ngươi đâu. Hẹn
gặp ở trên nóc quán trọ chúng ta đang ở nhé”.
Cưỡi mây tới thành Lô Dương, Hoành Văn hạ đám mây thấp xuống,
ta không nhịn được nói: “Hoành Văn”.
Dưới ánh sao đêm, Hoành Văn quay người lại nói: “Sao thế?”.
Ta lại chẳng biết giờ nên nói cái gì, lắp ba lắp bắp được một
câu: “Ngươi cứ đi chơi cho thỏa thích đi, ta chờ ngươi trên nóc quán trọ”.
Hoành Văn nở nụ cười, đáp: “Ta biết rồi”.
Bản tiên quân biến ra bộ dạng của một thư sinh, túm lấy hai
ba kẻ qua đường trên phố lớn Lô Dương để hỏi đường. Một khắc sau, cuối cùng
cũng chạm được chân xuống nóc nhà nơi Mộ Nhược Ngôn đang ở.
Đan Thành Lăng dù gì cũng có chút kiêng dè, phủ của hắn ở
thành Bắc, hắn liền an bài cho Mộ Nhược Ngôn ở tại thành Đông. Khu nhà không
tính là lớn, nhưng trồng vô số loại hoa cỏ và cây cảnh, cực kỳ tinh tế. Ta đứng
trên nóc nhà, trông thấy phía sân sau có mấy gian sương phòng còn sáng ánh đèn.
Vừa mới ẩn mình tiến vào trong viện, đột nhiên trông thấy trên hành lang có một
nha hoàn bưng trên tay khay nhỏ, đang tha thướt tiến về hướng này. Nàng bước
vào trong một gian sương phòng, ta không nhịn được cũng bám theo xem thử. Cách
bày biện trong sương phòng cực kỳ tao nhã, ánh nến sáng trưng, trên giường là đệm
gấm chăn thêu được trải chỉnh tề. Mèo rừng nằm ngủ trên chăn, thích ý vô cùng,
mấy cái vuốt nho nhỏ đang mân mê nghịch ống trúc của bản tiên quân.
Nó sống cũng thật thoải mái. Xem ra nơi này có đến tám chín
phần là phòng ngủ của Mộ Nhược Ngôn.
Nha hoàn đặt khay lên bàn, khom người lui ra ngoài, khép cửa
phòng lại.
Ta thong thả bước tới bên bàn xem thử, thứ trong khay dường
như là những miếng điểm tâm nho nhỏ, miếng nào miếng nấy đều được bọc lại vuông
vắn bằng giấy màu, trên giấy còn loang lổ vết dầu ăn, hương thơm ngào ngạt lan
tỏa.
Hoành Văn không ăn nhiều đồ ngọt, hóa ra Thiên Xu lại thích
món này.
Ta lại nhớ tới cái kết cục thê thảm giờ còn chưa được biết
vào mấy ngày sau đang lơ lửng trên đầu Mộ Nhược Ngôn, trong lòng đột nhiên có
chút gì nhen nhúm.
Mèo rừng đang nằm trên giường nhỏm dậy, cái mũi hít hà, sau
đó nghển đầu nghển cổ lên trông chiếc khay đặt trên bàn. Nó nhảy xuống đất, sau
lại thoắt lên trên mặt bàn, cúi đầu ngắm nghía điểm tâm trong khay, ngậm lấy một
miếng đặt xuống trước mặt, sau đó dùng móng cào cào. Có điều mảnh giấy điểm tâm
được gói thật chặt, nó cào mãi vẫn không ra. Mèo rừng nghiêng đầu nhìn miếng điểm
tâm, liếm láp mấy sợi râu, đảo mắt nhìn xung quanh tới tận mấy lần, cuối cùng lại
nhảy xuống mặt đất, trong chớp mắt hóa thành bộ dạng đứa bé trai bảy tám tuổi,
rón ra rón rén đi tới bên bàn, cầm một miếng điểm tâm lên, bóc giấy ra, nhét
vào miệng.
Từ sau tấm bình phong trong phòng, có một người nhanh chóng
bước ra, chính là Mộ Nhược Ngôn.
Bản thân mèo rừng cũng cảm thấy được gì đó, quay đầu nhìn lại
vừa thấy đã sợ tái cả mặt, xoay người định trốn, lại bị Mộ Nhược Ngôn túm chặt
lấy bả vai. Mèo rừng tức thì kêu thảm một tiếng bắt đầu giãy giụa, bàn tay
giương lên liền hung hăng chộp về phía cánh tay Mộ Nhược Ngôn. Bản tiên quân vội
vàng ra tay, âm thầm đẩy vuốt trước của mèo rừng lên một cái, vuốt của mèo rừng
liền khựng lại, sức yếu đi nhiều, tuy vậy vẫn nghe thấy một tiếng “Roẹt” vang
lên, vạt tay áo trên chiếc trường sam nhạt màu Mộ Nhược Ngôn đang mặc bị nó cào
rách vài sợi vải.
Ta lẩm nhẩm niệm phép trói, âm thầm trói hai tay của mèo rừng
lại, mèo rừng không dùng được sức, chỉ có thể liều mạng giãy giụa, lại cúi đầu
định cắn cổ tay Mộ Nhược Ngôn, có điều đều cắn chệch trong đường tơ kẽ tóc.
Mộ Nhược Ngôn dịu giọng nói với mèo rừng: “Đừng sợ, ta sẽ
không làm ngươi bị thương đâu. Ta chỉ có vài câu muốn hỏi ngươi, nếu ngươi
không muốn nói ta cũng sẽ không miễn cưỡng, hỏi xong rồi sẽ thả ngươi đi, thế
có được không?”.
Mèo rừng thấy bản thân không có cơ tránh thoát, liền chớp
đôi con ngươi xanh biếc long lanh những nước, do dự gật đầu, ngoan ngoãn đứng
yên tại chỗ. Mộ Nhược Ngôn từ từ buông bờ vai nó ra, kéo nó tới trước bàn, ngồi
xuống, lấy một miếng điểm tâm trong khay ra, đặt trước mặt nó.
Mèo rừng rúm người lại nhìn Mộ Nhược Ngôn, khịt khịt mũi,
sau đó đột nhiên khóc òa lên: “Ngươi đừng giao ta cho gã xấu xa tên Đan gì gì
đó mà…”.
Mộ Nhược Ngôn đưa ống tay áo lên, lau gương mặt tròn trịa của
nó, thong thả đáp: “Ngươi yên tâm, ta hỏi xong sẽ thả ngươi đi, tuyệt đối không
nói cho ai biết, nếu ta muốn giao ngươi cho kẻ nào, không phải đã sớm giao rồi
sao, hà tất phải chờ tới tận giờ”.
Mèo rừng thút tha thút thít: “Ngươi, ngươi hứa chứ?”.
Mộ Nhược Ngôn: “Ta hứa”.
Bấy giờ mèo rừng mới lau nước mắt nước mũi, sụt sùi mà ngừng
khóc.
Bản tiên quân đứng ở bên bàn trông cũng thấy vài phần bất đắc
dĩ, hồ ly kia cũng coi như trang hán tử khôn khéo thông minh, sao lại dạy dỗ ra
một con tiểu yêu quái ngốc đến cỡ này cơ chứ.
Mộ Nhược Ngôn xoa đầu nó, cầm một miếng điểm tâm lên, bỏ giấy
ra, nhét vào tay nó, thong thả hỏi: “Ngươi… tên là A Minh ư?”.
Hai cái tai trên đầu mèo rừng khẽ động, nó gật đầu.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Cái tên này nghe hay quá, ai đặt cho
ngươi thế?”.
Mèo rừng lí nhí đáp: “Đại vương đặt cho”.
Mộ Nhược Ngôn khẽ cười: “Thật ra ta chỉ muốn hỏi ngươi… cái ống
trúc trên giường kia… từ đâu mà ngươi có?”.
Mèo rừng chậm rãi nói, giọng vẫn bé xíu: “Cái ống trúc đó là
do vị thần tiên họ Tống biến thành lão đạo sĩ mang bên người, ta lấy ra chơi”.
Bản tiên quân nấp ở một bên, bị câu nói này của mèo rừng nện
cho nổ đom đóm mắt, thật muốn đấm ngực giậm chân mà. Màn kịch hao tâm tốn sức mấy
ngày của ta, bị một câu của thằng nhãi này vạch trần hết rồi.
Sắc mặt Mộ Nhược Ngôn khẽ biến, chân mày hơi nhíu lại, có điều
giọng điệu vẫn y như cũ: “Là lão đạo sĩ ở cùng với vị công tử trẻ tuổi kia
sao”.
Mèo rừng ăn được của Mộ Nhược Ngôn một miếng điểm tâm, lá
gan cũng to ra một chút, nói: “Đúng, chính là vị thần tiên ở cùng vị công tử do
Thanh quân trên thiên đình biến thành ấy, đại vương thích vị Thanh quân xinh đẹp
kia, nên không cho ta tới vòi Thanh quân ôm. Lão đạo sĩ do vị thần tiên họ Tống
kia biến thành rất đáng sợ, hắn không thích đại vương đi vòi Thanh quân ôm,
hung dữ với đại vương lắm, nên lúc không biến thành lão đạo sĩ cũng chẳng thèm
chơi với ta, ta bèn lấy ống trúc của hắn ra nghịch”.
Bản tiên quân lúc này ấy à, ngay cả ý định đập đầu vào tường
cũng có rồi đây.
Mộ Nhược Ngôn ngập ngừng nói: “Chẳng lẽ… con hồ ly trắng kia
là đại vương của ngươi sao?”.
Mèo rừng gật đầu.
Mộ Nhược Ngôn nhắm mắt lại, sau đó thong thả nói với mèo rừng:
“Được rồi, không còn gì nữa, cảm ơn ngươi, nếu ngươi muốn đi thì đi nhanh lên”.
Sau đó y lấy một tấm khăn gói điểm tâm lại, đặt lên đầu gối
của mèo rừng, lại xoa đầu nó, “Yên tâm đi, hiện giờ trong viện không có kẻ nào
quá lợi hại, người… họ Đan kia cũng không tới chỗ này, ngươi lặng lẽ lẻn ra,
không ai biết đâu. Nói xem, ngươi còn thích món điểm tâm nào nữa, ta sẽ gọi người
mang tới cho ngươi một ít”.
Hai tay mèo rừng cầm bọc điểm tâm, đôi mắt xanh biếc sáng rực
nhìn Mộ Nhược Ngôn, đột nhiên nói rằng: “Ngươi, ngươi là người tốt. Ta không cần
điểm tâm của ngươi, cái gã họ Đan xấu xa đó cùng với một đạo sĩ mặc áo lam đã bắt
hết ca ca tỷ tỷ của ta đi rồi, ngươi có biết bọn họ bị nhốt ở đâu không?”.
Mộ Nhược Ngôn nghe thế liền ngây người, nói: “Ta… không biết”.
Hai hàng lệ của mèo rừng lại trào ra, trông đến là khờ. Mộ
Nhược Ngôn lại đưa ống tay áo lên lau mặt cho nó, dịu giọng nói: “Thôi thế này,
nếu như ta biết, nhất định sẽ nghĩ cách thả chúng ra”.
Mèo rừng quẹt đầy nước mũi lên tay áo Mộ Nhược Ngôn, nức nở
nói: “Ngươi là người do thần tiên tốt biến thành, không giống như tên họ Đan đó,
là do thần tiên xấu biến thành”.
Bản tiên quân nghe thấy mà ong hết cả đầu, Mộ Nhược Ngôn
nghe mèo rừng nói thế ngẩn người. Nhưng chỉ lát sau y đã bật cười mà nói:
“Ngươi đúng là trẻ con, sao ai cũng gọi là thần tiên thế”.
Mèo rừng mãi mới nín khóc, Mộ Nhược Ngôn mở cửa cho nó, nó
liền ấp úng: “Ngươi có biết đại vương nhà ta với hai vị tiên quân kia sau khi rời
quán trọ đi về hướng nào không?”.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Sau khi bọn họ rời khỏi nha môn thì
không biết đã đi đâu”.
Mèo rừng ôm bọc điểm tâm trong tay, nhìn ra ngoài cửa, sắc mặt
có chút mờ mịt. Mộ Nhược Ngôn liền nói: “Nếu ngươi không biết phải đi đâu tìm đại
vương, chi bằng ở tạm lại đây vài ngày trước đã, đại vương nhà ngươi biết ngươi
bị ta dẫn đi, nhất định sẽ tới tìm”.
Mèo rừng ngẫm một lúc, lại có vài phần do dự, ôm bọc điểm
tâm giương mắt nhìn Mộ Nhược Ngôn, mãi một lúc sau mới sợ hãi gật đầu.
Vậy là nó trở về phòng, ăn thêm vài miếng điểm tâm nữa, biến
trở lại nguyên hình, rồi ườn người trên đầu gối Mộ Nhược Ngôn mà ngủ.
Bản tiên quân không nhịn được đưa tay vuốt trán. Mộ Nhược
Ngôn nhẹ nhàng đặt mèo rừng xuống giường, đẩy cửa bước khỏi phòng. Có lẽ y vẫn
có thói quen đứng một mình trong sân khi đêm xuống, nên không thấy có nha hoàn
tiểu tư nào tới hầu hạ cả. Bản tiên quân theo Nhược Ngôn đi vào trong sân, ẩn
mình cạnh mấy bóng cây lưa thưa trong vườn, thấy y đứng lặng bên gốc chuối tây.
Bản tiên quân suy tính trong chốc lát, liền vòng sang đứng
dưới bóng cây đối diện y. Ta hiện hình, bước ra khỏi tán cây, chắp tay nói: “Mộ
công tử”.
Trong những câu chuyện về thần tiên ma quái, đám cô hồn dã
quỷ thường thường sẽ xuất hiện kiểu này. Hơn nữa, đêm nay lại có gió nhẹ hiu
hiu, bóng trăng ảm đạm, bản tiên quân đột ngột bước ra, nhất thời khiến Mộ Nhược
Ngôn giật mình lùi lại phía sau một bước. Có điều y chỉ liếc mắt nhìn qua, đại
khái cũng biết là cố nhân.
Ta lại chắp tay: “Mộ công tử, tại hạ là Tống Dao”.
Mộ Nhược Ngôn đứng giữa sân, nhìn ta: “Tống Dao… Quảng Vân đạo
nhân… Xin hỏi các hạ rốt cuộc là ai?”.
Ta nói: “Thật ra, ta cũng coi như một kẻ có duyên với Mộ
công tử. Trước đây Mộ công tử đã từng làm sai một chuyện lớn, nên mới phải gặp
nhiều khó khăn trắc trở như vậy, nay quả báo đã tới ngay trước mắt, mong Mộ
công tử ghìm cương trước vực, lúc này thành tâm hối lỗi, có khi vẫn còn con đường
sống để quay đầu”.
Ngọc Đế à, cứ cho là giờ này ngài đang ở trên thiên đình trừng
mắt nhìn ta tiết lộ huyền cơ, nhưng bản tiên quân khuyên can chân thành khẩn
thiết như thế, cũng coi như làm thuận theo ý của ngài rồi còn gì.
Mộ Nhược Ngôn lặng thinh không nói, một lát sau, mới chậm
rãi cất lời: “Nhân quả, nhất định các hạ không thể nói cho ta nghe là nhân quả
thế nào rồi. Có điều, chuyện sai lầm mà các hạ nhắc đến ta cũng đoán được vài
phần. Tính cách con người vốn dĩ ham thích tự do, không ưa trói buộc, chỗ sai
duy nhất, chỉ sợ chính là đi ngược lại cái mà người đời gọi là đạo lý. Đa tạ
các hạ đã có lòng nhắc nhở, chỉ có điều…”
Mộ Nhược Ngôn đưa mắt nhìn ta, miệng nở nụ cười: “Ta rơi vào
tình cảnh hôm nay, nhất định là vì ngày đó không muốn dừng cương trước vực. Nếu
mọi chuyện đã tới nước này, thì hà tất phải quay đầu lại?”.
Ta nhất thời nghẹn họng, không nói được câu nào.
Mộ Nhược Ngôn xoay người lại, thong thả bước về phía sương
phòng. Bản tiên quân đuổi theo y một bước, nói: “Dù cho mấy ngày nữa ngươi nhất
định sẽ chẳng được chết yên lành, dù cho phải chịu nỗi khổ của mấy kiếp luân hồi,
kiếp nào kiếp nấy đều chẳng có kết cục gì tốt đẹp ư??? Chẳng qua chỉ là nhận lỗi
mà thôi, ngươi… hãy suy nghĩ cho thật kĩ”.
Mộ Nhược Ngôn dừng bước, nghiêng người lại, đáp: “Vậy sao,
thì ra cuộc đời của ta vẫn còn có một kết cục”.
Sau đó y lại quay người, bước thẳng vào phòng. Ta đứng
nguyên tại chỗ, ngơ ngác một hồi, sau đó mới cưỡi mây rời khỏi.
Trên nóc quán trọ, gió rất lạnh, trên bầu trời, sao rất
sáng. Bảy ngôi sao của chòm Bắc Đẩu treo mình trên cao, hào quang rực rỡ, người
đứng sau lưng ta cất giọng, tiếng nói biếng nhác mà ẩn chứa ý cười: “Ngươi thăm
Thiên Xu xong, lại về đây trông sao Bắc Đẩu mà ngậm ngùi cảm khái sao?”.
Ta lập tức đứng bật dậy, quay đầu nói: “Hoành Văn”.
Hoành Văn cùng ta sóng vai ngồi trên mái ngói, ta nói: ‘Ta
đã tiết lộ cho Thiên Xu nghe thiên mệnh, mập mờ ám chỉ cho hắn biết kết cục một
hai ngày tới, muốn hắn nhận sai, ghìm cương trước vực, nhưng hắn lại không chịu”.
Hoành Văn nói: “Ta đã đoán trước nếu ngươi tiết lộ huyền cơ
cho hắn nhất định sẽ có kết quả này mà. Tính tình của Thiêm Xu vốn vậy, thà làm
ngọc nát không làm ngói lành, ngày đó ở trên thiên đình, lúc sắp lên Tru Tiên
Đài rồi hắn còn chẳng chịu nhận sai, huống chi bây giờ”
Ta chỉ biết thở dài thườn thượt, sau đó nói lảng sang chuyện
khác, hỏi Hoành Văn hôm nay dạo chơi trong thành thế nào.
Hoành Văn nói: “Cũng chẳng có gì, chỉ có điều hiện giờ Đan
Thành Lăng đã khiến cho dân chúng trong thành hoang mang. Ta đi trên phố, chỉ
nghe thấy toàn tiếng khóc than ai oán. Ngươi biết không, hôm ấy Tuyên Ly đứng
trước công đường nói ra sự thật, để tránh cho chuyện ấy bị truyền ra ngoài, sau
khi hai chúng ta đi rồi Đan Thành Lăng đã giết toàn bộ những kẻ có mặt trên
công đường”.
Ta kinh hãi, “Làm vậy quá tàn nhẫn”.
Hoành Văn thở dài: “Quả thật quá tàn nhẫn, Nam Minh Đế quân
hạ giới một chuyến, độ bạo ngược chỉ tăng chứ không giảm, ngay cả Thiên Xu cũng
phải cùng hắn gánh báo ứng”. Sau đó ngả người ra sau, nằm xuống, thanh âm xa vời
vợi: “Chẳng biết ngày mai rồi sẽ ra sao”.
Ngói lợp trên nóc nhà mấp mô, rất không bằng phẳng, ta liền
nói: “Hoành Văn, ngươi nằm thế chỉ sợ sẽ đau người chết mất thôi. Không bằng
chúng ta tới chỗ nào khác, hay là ngươi cứ dựa vào người ta mà ngủ đi. Ngươi…
ngươi mấy ngày vừa rồi đã được nghỉ ngơi lúc nào đâu…”.
Hoành Văn lập tức ngồi dậy, đôi mắt như hồ nước thăm thẳm
nhìn sâu vào mắt ta, thấp giọng mà cười: “Mấy ngày gần đây, sao ngươi cứ nói ra
những câu làm người ta rùng hết cả mình lên thế hả?”.
Thiếu chút nữa là bản tiên quân không nhịn được mà dốc hết lời
thầm kín trong lòng ra, may mà ta đây vững vàng kiên định, chỉ lấp liếm mấy
câu: “Ngươi… Dùng phép tiên cũng khiến thể lực tiêu hao rất nhiều, huống chi…
Ta…”.
Đôi mắt của Hoành Văn càng lúc càng gần, trầm giọng nói:
“Ngươi làm sao?”.
Ta nuốt nước bọt, sau đó lấy tấm Kính Quan Trần chết giẫm
kia ra để nện cho đầu óc mình tỉnh táo, nói: “Hoành Văn, ta vẫn luôn nghĩ rằng,
ta có thể lên thiên đình làm thần tiên, đúng là món hời từ trên trời rơi xuống”.
Hoành Văn nhướng mày, rụt người về, ngồi thẳng lại: “Tốt đến
thế cơ à?”
Ta nói: “Đúng thế”.
Gió mát thổi qua, vầng trăng sáng chiếu xuống tòa thành đang
ngủ. Bản tiên quân ngồi trên nóc nhà thở dài.
Hoành Văn, ngươi chưa từng tới nhân gian, cho nên chẳng thể
nào hiểu được, nhân gian khó mà cầu được trăm năm, nhưng trên thiên đình lại có
thể được dài lâu vĩnh viễn.
Hoành Văn nằm trên mái ngói đã ngủ mất rồi, bản tiên quân nằm
xuống bên người hắn, chẳng biết tự lúc nào cũng ngủ thiếp đi.
Tới lúc tỉnh lại thì trời đã sáng bảnh, ta thấy mình đang nằm
trên một đám mây, Hoành Văn đứng ở rìa đám mây, trông xuống dưới, nói: “Cuối
cùng ngươi cũng dậy rồi, nhìn xuống dưới kia đi, thành Lô Dương xem chừng sắp
loạn to”.
Ta vội vàng bật dậy, nhìn xuống dưới mặt đất, Hoành Văn hạ
đám mây xuống thấp hơn một chút, chỉ thấy binh lính di chuyển khắp các con đường
trong thành Lô Dương. Kiểm tra từng người đi đường một, dùng dây thừng trói tất
cả những kẻ lạ mặt không phải dân trong thành cùng đám ăn mày lang thang lại,
xâu thành một chuỗi dài, chân đá tay đấm áp giải tới đại lao của nha môn.
Ngày hôm đó, đại quân của Đông Quận Vương và triều đình đã tới
Trường Giang, đánh một trận trời long đất lở với thủy quân Nam Quận trên sông.
Mặt sông lềnh bềnh đầy những xác người, cuộc chiến diễn ra vô cùng thảm khốc.
Từ trước tới nay, Đan Thành Lăng ở Nam Quận đều cậy mình có
công nên tự cao tự đại, bởi vậy mới có người muốn nhân cuộc chiến lần này cắt bớt
mấy cái móng vuốt của hắn đi, Đan Thành Lăng chỉ có vẻn vẹn chín ngàn tinh binh
trong tay, vậy mà Nam Quận Vương lại ra lệnh cho hắn cố thủ Lô Dương.
Thủy quân của Nam Quận không địch nổi hai cánh quân hùng hậu,
gần như bỏ mạng, quân đội của triều đình và Đông Quận lên được bờ đối diện,
hoàng hôn ngày hôm sau đã áp sát dưới thành Lô Dương, chỉnh đốn quân đội, cắm cọc
dựng trại.
Sáng sớm ngày hôm sau, đại quân dàn trận sẵn ngoài thành Lô
Dương, Đan Thành Lăng thống lĩnh năm nghìn binh lính ra khỏi thành nghênh chiến,
Lý Tư Hiền thúc ngựa lao ra khỏi đội ngũ của Đông Quận, cao giọng hét:
“Binh lính cùng dân chúng của Nam Quận nghe đây, Đông Quận
chúng ta lần này dẫn binh tiến đánh Nam Quận, là tới tìm Đan Thành Lăng báo
thù, hoàn toàn không có ý muốn làm hại bách tính. Đan Thành Lăng đã cướp khâm
phạm triều đình Mộ Nhược Ngôn khỏi Đông Quận Vương chúng ta, giết tam đệ của ta
– tam thế tử của Đông Quận Vương Lý Tư Minh. Thù này không báo, nhà họ Lý Đông
Quận chúng ta thề không làm người!!! Nếu các ngươi giao Đan Thành Lăng và Mộ
Nhược Ngôn ra đây, Đông Quận chúng ta sẽ lập tức rút binh, quyết không xâm phạm
Nam Quận lần nào nữa!!!”.
Một vị đại tướng trong quân đội triều đình cũng thúc ngựa mà
ra, hô lớn: “Đan Thành Lăng thân là khâm phạm của triều đình, náu mình ở Nam Quận
đã nhiều năm, bây giờ lại che dấu thêm trọng phạm Mộ Nhược Ngôn. Chúng ta phụng
chỉ của thánh thượng, tới Nam Quận để lùng bắt hai kẻ này, hy vọng các người
mau mau giao hai kẻ đó ra đây, triều đình sẽ có phong thưởng!”.
Đan Thành Lăng ngồi trên lưng ngựa, cất giọng cười vang: “Lũ
tiểu nhân các ngươi tưởng rằng dùng kế ly gián này là có thể làm rối loạn lòng
quân ta sao!!!”. Đao lớn vung một đường, binh sĩ xông lên ào ạt, lao vào quân của
triều đình và Đông Quận, bắt đầu chém giết.
Nam Minh Đế quân hiển nhiên dũng mãnh vô cùng, một ngựa một
đao liền xông vào giữa lòng quân địch, chém người mà như chém chuối. Nhưng năm
ngàn quân của hắn rốt cuộc không địch lại mấy vạn đại quân, cuối cùng chỉ còn lại
ba nghùn binh lính cùng Đan Thành Lăng lui về thành.
Triều đình và Đông Quận cũng không đuổi theo, hạ trại ngay tại
chỗ, sai người đứng dưới thành Lô Dương hét lớn, khuyên dân chúng trong thành
mau giao nộp Đan Thành Lăng và Mộ Nhược Ngôn.
Buổi tối hôm đó, trong thành Lô Dương, hàng sa số bó đuốc
cháy rừng rực tỏa ra từ những vệ đường, vây chặt lấy phủ tướng quân và chỗ ở của
Mộ Nhược Ngôn lại. Ta đứng trên đám mây, nhìn dân chúng dưới kia kêu la căm phẫn:
Mau giết hai tên cẩu tặc!