Khi người dân Shrewsbury phát hiện ra bà Dutton đang hậu thuẫn cho cô cháu gái, ngọn lửa tin đồn từng quét khắp thị trấn đã bị dập tắt trong một thời gian ngắn ngủi đến không ngờ. Bà Dutton đóng góp cho đủ loại quỹ của nhà thờ Thánh John nhiều hơn bất kỳ thành viên nào khác - hỗ trợ thích đáng cho nhà thờ quen thuộc vốn là một truyền thống của nhà Murray. Bà Dutton là chủ nợ của một nửa số thương nhân trong thị trấn; bà nắm trong tay một lá thư quan trọng của Nat Tolliver đủ khiến ông ta phải thao thức nhiều đêm. Bà Dutton có vốn hiểu biết đủ sức gây hoang mang về những bí mật vốn được đào sâu chôn chặt của các dòng họ - thứ hiểu biết bà sẵn sàng nhắc đến chẳng hề kiêng kỵ. Bởi vậy, bà Dutton thuộc kiểu người cần được giữ gìn tâm trạng vui vẻ, và nếu ai đó phạm phải sai lầm mà tưởng rằng vì bà quá khắt khe với cháu bà nên người ta muốn khinh rẻ cháu bà cũng chẳng thành vấn đề, vậy thì họ càng sớm sửa chữa sai lầm này thì càng tốt cho tất cả những ai có liên quan.
Tại quầy hàng của bà Tolliver ở hội chợ từ thiện quy mô lớn kia, Emily bán áo khoác trẻ em, chăn, giày len trẻ em, mũ bon nê; và cô mời chào các quý ông đứng tuổi vào mua bằng nụ cười giờ đây đã trở nên nổi tiếng của cô; tất cả mọi người đều đối xử tử tế với cô, và cô đã lấy lại được tâm trạng vui vẻ, mặc dù trải nghiệm vừa rồi vẫn lưu lại vết sẹo trong lòng. Nhiều năm sau, dân chúng Shrewsbury vẫn nói rằng Emily Starr chưa bao giờ thực lòng tha thứ cho họ cái tội bàn luận về cô; và họ còn nói thêm rằng người nhà Murray chưa từng biết đến chuyện tha thứ, bạn biết rồi đấy. Nhưng đừng có nói đến chuyện tha thứ làm gì. Emily đã phải chịu cảnh khổ sở sống dở chết dở, nên từ đó về sau, chỉ cần nhìn thấy bất kỳ ai từng dính líu tới nỗi khổ sở ấy của mình, cô đều không tránh khỏi cảm giác căm ghét. Một tuần sau đó, khi bà Tolliver mời cô đảm nhiệm vai trò rót trà tại buổi tiếp đón người họ hàng của bà ta, Emily đã lịch sự từ chối mà chẳng thèm nhọc công đưa ra bất kỳ lời biện bạch nào. Và từ trong cái cách cô hếch cằm hay trong cái ánh nhìn bình thản như nhìn kẻ bằng vai phải lứa, có thứ gì đó khiến bà Tolliver cảm nhận một cách sâu sắc rằng trong ánh mắt của một Murray ở trang trại Trăng Non, bà ta vẫn là Polly Riordan của ngõ Riordan và vĩnh viễn không bao giờ thành bất kỳ người nào khác.
Nhưng Andrew được chào đón khá ngọt ngào khi anh ta có phần bẽn lẽn ghé qua vào tối thứ Sáu sau đó. Mặc dù trên thực tế đã được chứng thực là người cùng hội cùng thuyền, nhưng rất có thể anh ta vẫn có phần không dám đoán chắc mình sẽ được nhận sự đón tiếp như thế nào. Tuy nhiên, Emily đối xử với anh ta bằng thái độ hòa nhã trông thấy. Có lẽ cô có mục đích riêng. Một lần nữa, tôi cần nhắc nhở để các vị nhớ rằng tôi là nhà viết tiểu sử của Emily chứ không phải người biện hộ cho cô. Nếu cô trả đũa Andrew bằng một cách thức nào đó mà tôi có lẽ không tán thành, tôi còn làm gì được ngoài việc phàn nàn về nó chứ? Tuy nhiên, tôi lấy làm mừng vì mình có thể tình cờ bình luận rằng theo ý tôi, Emily đã đi quá xa khi nói với Andrew – sau khi anh chàng kể lể về mấy lời khen ngợi mà anh ta nhận được từ viên quản lý – rằng anh chàng chắc chắn là một người tuyệt vời. Tôi thậm chí chẳng thể vì muốn bao biện cho cô mà nói rằng cô đã thốt lên câu này bằng giọng châm biếm. Cô không làm thế: cô nói nó bằng cái giọng điệu ngọt ngào nhất kèm theo hành động ngước mắt lên rồi sau đó cụp mắt xuống, khiến cho đến cả trái tim vốn rất ổn định của Andrew cũng bị lỡ mất một nhịp. Ôi, Emily, Emily!
Mùa xuân năm đó, mọi chuyện của Emily đều khá suôn sẻ. Cô nhận được một vài sự chấp thuận và mấy tấm séc, thêm vào đó, bắt đầu tỏ ra tự đắc vì mình có thể tàm tạm được gọi là nhà văn. Họ hàng của cô bắt đầu hơi nghiêm túc để tâm đến đam mê viết lách của cô. Không thể bác bỏ sự hiện diện của những tấm séc kia được.
“Từ đầu năm đến giờ, Emily đã kiếm được năm mươi đô la nhờ viết lách rồi đấy,” bà Ruth nói với bà Drury. “Tôi bắt đầu cho rằng đứa trẻ này đã tìm ra con đường kiếm sống dễ dàng rồi.”
Con đường dễ dàng! Emilym nghe lỏm được nhận xét này lúc đang đi qua hành lang, chỉ mỉm cười và thở dài. Bà Ruth, hay bất kỳ ai khác, thì biết được gì về bao nỗi thất vọng và bao thất bại của những con người leo lên Đường Alps chứ? Bà biết gì về bao nỗi tuyệt vọng và bao khổ sở vất vả của người nhìn thấy đồ mà không thể với tới được. Bà biết gì về bao đắng cay chua xót của người thai nghén được một câu chuyện tuyệt vời và viết nó thành câu chứ, để rồi phần thưởng cho mọi nỗ lực không ngừng nghỉ ấy chỉ là một bản thảo trống rỗng nhạt nhẽo? Bà biết gì về những cánh cửa tắc nghẽn và những điện thờ bất khả xâm phạm của ban biên tập? Về những mẩu thư từ chối tàn nhẫn và những lời ngợi khen nhạt nhòa đáng sợ? Về những hy vọng bị trì hoãn, về hàng tiếng đồng hồ ngờ vực chán chường và mất lòng tin vào bản thân?
Bà Ruth không biết gì về những điều này, nhưng bà đùng đùng phẫn nộ mỗi khi bản thảo của Emily bị trả lại.
“Khinh suất, ta gọi nó như thế đấy,” bà nói. “Đừng có gửi cho biên tập tòa soạn thêm một dòng nào nữa. Nhớ cho kỹ, cháu là một Murray đấy!”
“Cháu e là ông ấy không biết điều đó đâu ạ,” Emily nghiêm túc nói.
“Vậy tại sao cháu không nói với ông ta?” bà Ruth hỏi.
Vào tháng Năm, Shrewsbury xôn xao một dạo khi Janet Royal từ New York trở về nhà mang theo những bộ quần áo lộng lẫy, danh tiếng chói lòa cùng con chó su của cô. Janet vốn là một cô gái gốc Shrewsbury, nhưng cô chưa từng sống ở quê hương kể từ khi “lên đường tới nước Mỹ” hai mươi năm trước. Cô thông minh, tham vọng và cô đã gặt hái được thành công. Cô là biên tập viên văn học của một tạp chí quốc gia tiếng tăm dành cho phụ nữ, đồng thời là một trong những độc giả đọc bản thảo cho một nhà xuất bản có tên tuổi. Emily đã nín thở khi nghe tin cô Royal đến. Ôi chao, giá như cô có thể chỉ cần nhìn thấy cô ấy thôi; trò chuyện cùng cô ấy; hỏi cô ấy về hàng trăm thứ cô muốn biết! Khi ông Towers nói với cô bằng thái độ không hề khách sáo rằng hãy đi phỏng vấn cô Royal và viết thành bài cho tờ Thời đại, Emily run rẩy cả người, nửa vì hoảng loạn, nửa vì phấn khích. Đây chính là cái cớ của cô. Nhưng liệu cô có thể không... liệu cô có đủ tự tin không? Liệu cô Royal có cho rằng cô là kẻ tự phụ không thể chịu nổi không? Cô có thể hỏi cô Royal những câu hỏi như thế nào về sự nghiệp của cô ấy cùng những ý kiến của cô về chính sách đối ngoại của liên bang Mỹ cũng như thái độ tương hỗ giữa Mỹ và các quốc gia khác? Có lẽ cô chẳng bao giờ có đủ sức mạnh.
“Cả hai chúng tôi đều thờ phụng tại cùng một điện thờ, nhưng cô ấy là nữ tư tế cao cấp trong khi tôi chỉ là một nữ tu hèn mọn nhất,” Emily viết trong nhật ký. Sau đó cô thảo cho cô Royal một bức thư thấm đẫm tinh thần tôn sùng, và viết đi viết lại hàng chục lần, xin phép được phỏng vấn cô ấy. Sau khi gửi bức thư đi rồi, cô thao thức suốt cả đêm vì chợt nghĩ đến chuyện, lẽ ra cô không nên kết thúc bức thư bằng “Chân thành” mà nên đổi bằng “Trân trọng”. Cách nói “chân thành” có vẻ mang sắc thái của một mối quan hệ vốn không tồn tại. Cô Royal thể nào cũng cho rằng cô đang tỏ ra tự phụ cho xem.
Nhưng cô Royal đã gửi lại một bức thư duyên dáng; Emily đã nhận được nó vào hôm nay.
“Ashburn, thứ Hai.
“Cô Starr thân mến:
“Tất nhiên cô có thể đến gặp tôi và tôi sẽ kể cho cô nghe mọi điều tôi biết cho Jimmy Towers (Cầu Chúa mang lại sự bình an cho tâm hồn ông ấy, và chẳng phải ông ấy là anh bồ đầu tiên của tôi đó sao!) và mọi chuyện cô muốn biết cho chính bản thân. Tôi nghĩ, một nửa lý do khiến tôi quay trở lại đảo H.E. mùa xuân này là vì tôi muốn gặp người đã viết Người phụ nữ từng đét mông đức vua. Tôi đã đọc truyện này mùa đông năm ngoái khi nó được đăng tải trên tờ Roche và thấy nó thật hấp dẫn. Hãy đến kể cho tôi về bản thân cô và những tham vọng của cô nhé. Cô là người tham vọng, phải không nào? Và tôi cho là cô cũng sắp nhận ra các tham vọng của mình rồi, và nếu có thể, tôi rất muốn giúp. Cô có một thứ tôi không bao giờ có được – khả năng sáng tạo đích thực – nhưng tôi lại rất giàu kinh nghiệm và cô có thể thoải mái hỏi về những bài học tôi đã đúc rút được từ đó. Tôi có thể giúp cô tránh được một số bả mồi cạm bẫy, và tôi hẳn sẽ không giúp được nếu không phải đã từng bị ‘lôi kéo’ ở vài nơi rồi. Chiếu thứ Sáu tuần sau, hãy đến Ashburn khi ‘tan trường’ nhé, và chúng ta sẽ trò chuyện chân thành.
“Thân ái,
“Janet Royal.”
Emily rung động toàn thân khi đọc bức thư này “Thân ái” – ôi, Chúa ôi! Cô quỳ bên cửa sổ, đôi mắt mê say nhìn ra ngoài trời, hướng đến chỗ những cây linh sam mảnh mai giữa Miền Chính Trực và đồng cỏ ba lá ướt đẫm sương đằng sau. Ôi, liệu có thể chăng một ngày nào đó cô cũng sẽ trở thành người phụ nữ thành công, sáng chói giống như cô Royal? Bức thư kia dường như đã khiến điều đó trở nên có khả năng; dường như khiến mọi giấc mơ tuyệt vời đều trở nên có khả năng. Và vào thứ Sáu – bốn ngày nữa – cô sẽ tới gặp gỡ trò chuyện thân mật cùng nữ tư tế cấp cao của mình.
Bà Angela Royal, tối đó đã ghé qua thăm bà Ruth, có vẻ như không hẳn nghĩ rằng Janet Royal là một nữ tư tế cấp cao hay một người phi thường. Nhưng thời đó, tất nhiên, nhà nữ tiên tri thường không được đánh giá cao nơi quê hương, và bà Royal đã nuôi Janet lớn khôn.
“Tôi chỉ muốn nói là con bé làm ăn khá lắm,” bà tâm sự với bà Ruth. “Lương của nó cao lắm đấy. Nhưng dẫu vậy thì nó vẫn là một cô gái già. Trên một số phương diện lại còn kỳ quặc như yêu quái nữa.”
Emily, lúc này đang học tiếng Latin bên cửa sổ hướng vịnh, bừng bừng phẫn nộ. Thế này thật không thua gì thái độ phạm thượng.
“Tuy nhiên ngoại hình con bé trông cũng ổn lắm,” bà Ruth nói. “Janet luôn là một cô gái tử tế.”
“Ồ, phải, nó đúng là khá tử tế. Nhưng tôi vẫn luôn sợ là nó quá thông minh nên chẳng lấy chồng được đâu, và tôi đã đúng. Mà con bé lại còn nhan nhản những ý niệm du nhập từ nước ngoài nữa. Nó chẳng bao giờ ăn đúng bữa; và thật tình có làm tôi phát ói trước cái mớ nhặng xị nó xới lên vì con chó của nó; Chu – Chin, nó gọi con chó thế đấy. Con chó làm chủ ngôi nhà. Con chó ấy đích xác thích làm gì thì làm và chẳng ai dám nói năng gì. Con mèo tội nghiệp của tôi bị khống chế hoàn toàn. Janet nhạy cảm với chuyện con chó lắm. Khi tôi phàn nàn vì con chó ngủ trên chiếc ghế bành bọc vài nhung lông, con bé bực bội đến nỗi cả ngày chẳng thèm hé răng. Đó là một điều khiến tôi không ưa ở Janet. Con bé luôn tỏ ra vô cùng kiêu ngạo mỗi khi bị xúc phạm. Và nó lại thấy bị xúc phạm trước những thứ mà nếu là người khác thì người ta chẳng bao giờ thèm để tâm một mảy may. Và một khi đã giận dỗi một người nào rồi thì nó thành ra giận dỗi với tất cả mọi người. Hy vọng sẽ không có bất cứ thứ gì chọc tức nó trước khi cháu đến vào thứ Sáu, Emily ạ. Nếu con bé đã cạn ráo cảm xúc vui vẻ thì nó sẽ tước đi sự vui vẻ ấy ở cháu. Nhưng về Janet, ta phải nói rằng con bé không thường xuyên cáu kỉnh đâu, và cũng không bao giờ có thái độ hèn hạ hay hằn học. Nó luôn rất nỗ lực vì bạn vì bè.”
Khi bà Ruth đã ra ngoài để hỏi han cậu bé bán tạp phẩm, bà Royal vội nói thêm,
“Con bé hứng thú với cháu lắm đấy, Emily. Nó lúc nào cũng khát khao được giao lưu với những cô gái xinh đẹp, trẻ trung, bảo rằng như thế sẽ khiến nó cảm thấy mình vẫn trẻ. Nó nghĩ tác phẩm của cháu bộc lộ tài năng đích thực. Nếu nó quý mến cháu thì sẽ may mắn cho cháu lắm đấy. Nhưng, thương cháu ta mới dặn, nhớ tỏ ra thân thiện với con chó su đó nhé! Cháu mà làm con chó đó giận dỗi là Janet sẽ chẳng nể nang gì cháu đâu, cho dù cháu có là Shakespeare cũng vậy.”
Sáng thứ Sáu, Emily thức dậy cùng niềm tin chắc chắn ngày hôm nay sẽ đánh dấu một trong những bước ngoặt của cuộc đời cô, một ngày của những khả năng chói lóa. Cô đã có một cơn ác mộng kinh khủng, mơ thấy mình đang ngồi như bị yểm bùa trước mặt cô Royal, không thể bật thốt được bất cứ từ nào ngoại trừ “Chu – Chin”, có mỗi một từ đó bị cô nhắc đi nhắc lại như một con vẹt bất cứ khi nào cô Royal hỏi cô gì đó.
Mưa rả rích suốt cả buổi sáng trong nỗi kinh hoảng của cô, nhưng đến trưa, trời quang đãng sáng sủa và dãy đồi vắt ngang bến cảng tự khoác lên mình tấm khăn quàng màu xanh thần tiên. Emily vội vã đi từ trường về nhà, tái nhợt bởi tính trang trọng của sự kiện. Phục sức như thế nào trở thành một nghi thức quan trọng đối với cô. Cô phải mặc bộ váy lụa màu xanh nước biển – không nghi ngờ gì về điều đó hết. Nó dài chấm chân và sẽ giúp cô có vẻ trưởng thành. Nhưng cô nên để tóc kiểu nào bây giờ? Kiểu tóc búi cao độc đáo hơn cả, phù hợp với nét mặt cô và sẽ cho nhiều lợi thế hơn khi cô đội mũ. Thêm vào đó, có lẽ vầng trán để trần sẽ khiến cô trông có vẻ thông thái hơn. Nhưng bà Royal đã nói cô Royal thích những cô gái xinh đẹp. Bởi vậy, bằng mọi giá cô cũng phải xinh đẹp. Mái tóc đen dày rủ trên trán và trên đỉnh đầu là chiếc mũ xuân mới mà Emily đã đánh bạo mua bằng tấm séc gần đây nhất, bất chấp sự phản đối của bà Elizabeth lẫn lời bình luận thẳng tuột của bà Ruth rằng tiền bạc chẳng ở lâu được với một con ngốc đâu. Nhưng giờ, Emily lấy làm mừng vì đã mua chiếc mũ. Cô không thể đến phỏng vấn cô Royal trong chiếc mũ thủy thủ màu đen đơn giản của cô được. Chiếc mũ vô cùng phù hợp, với cánh hoa violet bằng ren màu tím thẫm rủ xuống, phủ trên những sóng tóc đáng yêu lớp lớp gối lên nhau, vừa chạm tới cần cổ trắng như sữa của cô. Mọi thứ ở cô đều toát lên vẻ xinh xắn gọn gàng đầy trang nhã: trông cô như thể - tôi thích dùng cách nói cũ rích ấy – vừa xuất xưởng. Bà Ruth, đang vơ vẩn quanh hành lang, nhìn thấy cô bước xuống cầu thang và hơi choáng váng phát hiện ra Emily đã là một thiếu nữ.
“Con bé có dáng dấp y như một Murray vậy,” bà Ruth nghĩ.
Sự tán dương không thể đi xa hơn nữa được, mặc dù trên thực tế, nét mảnh mai thanh nhã của Emily chính là được thừa hưởng từ nhà Starr mà ra. Người nhà Murray oai nghiêm và cao quý, nhưng rất cứng nhắc.
Chỉ mất một đoạn đường đi bộ khá ngắn là tới Ashburn, ngôi nhà cũ đẹp đẽ màu trắng nằm giữa hàng cây cổ thụ, cách xa đường phố. Emily leo lên con đường rải sỏi, hai bên viền những bóng hình mùa xuân thanh mảnh nham nhở, y như một người sùng đạo đang dẫn tiến vào một ngôi đền thiêng. Một con chó trắng lông xù khá to đang ngồi trên đoạn giữa con đường rải sỏi. Emily nhìn con chó bằng ánh mắt tò mò. Cô chưa từng thấy con chó su nào. Cô rút ra kết luận Chu – Chin khá xinh, nhưng không sạch sẽ. Rõ ràng con chó đã có khoảng thời gian thích thú trong một bãi bùn nào đó, vì cả chân lẫn ngực đều loét nha loét nhoét. Emily hi vọng nó sẽ chấp nhận cô, nhưng đừng có tiến lại gần cô.
Rõ ràng con chó đã chấp nhận cô, vì nó quay người lon ton leo cùng cô lên con đường, thân thiện ngoe nguẩy cái đuôi mũm mĩm - hay nói cho đúng hơn là cái đuôi ắt hẳn sẽ mũm mĩm nếu không vừa ướt nhoét vừa lấm lem bùn đất. Nó háo hức đứng bên cạnh cô trong lúc cô rung chuông, và ngay khi cửa mở, con chó sung sướng nhảy bật lên người phụ nữ đứng bên trong nhà, suýt nữa đẩy người đó ngã lăn ra.
Cô Royal đích thân ra mở cửa. Như Emily nhìn thấy ngay lập tức, cô không xinh đẹp, nhưng toát lên nét đặc biệt không lẫn vào đâu được, từ búi tóc màu đồng cho tới tận ngón đôi dép lê bằng xa tanh. Cô mặc chiếc váy nhung tuyệt đẹp màu tím hoa cà, đeo cặp kính kẹp mũi vành đồi mồi, kiểu kính lần đầu tiên xuất hiện tại Shrewsbury.
Chu – Chin thè lưỡi, hăm hăm hở hở liếm ướt cả khuôn mặt cô, rồi lao vào trong phòng khách nhà bà Royal. Bộ váy mày tím hoa cà lấm lem dấu chân bùn đất khắp từ cổ cho tới tận gấu váy. Emily cho rằng Chu – Chin hoàn toàn xứng đáng với nhận xét không mấy hảo cảm của bà Royal và thầm nhận xét nếu đây mà là chó của cô thì nó hẳn sẽ cư xử ngoan ngoãn hơn nhiều. Nhưng cô Royal chẳng mảy may trách mắng con chó, và có lẽ sự phê bình bí mật của Emily, từ trong tiềm thức, đã được khơi nguồn từ cái nhận thức ngay tức thì rằng sự đón chào của cô Royal quá mức lạnh lùng, dẫu rằng cô đã bày tỏ thái độ lịch sự hoàn hảo. Từ bức thư của cô, Emily đã phần nào trông đợi một màn đón tiếp nồng ấm hơn.
“Vào trong nhà ngồi đi nào,” cô Royal nói. Cô dẫn Emily vào trong, vẫy tay ra hiệu về phía một cái ghế rộng rất thoải mái, còn cô ngồi xuống một cái ghế Chippendale bằng gỗ cứng có vẻ chẳng biết nhượng bộ ai. Chẳng hiểu sao, Emily, bình thường vốn đã nhạy cảm và vào lúc này lại càng nhạy cảm một cách khác thường, cảm thấy sự lựa chọn ghế ngồi của Royal như báo điềm xấu. Tại sao cô ấy không thân mật vùi người vào trong chiếc ghế Morris bọc nhung ngả lưng ra sau vừa sâu vừa rộng rãi? Mà cô lại ngồi ở đó, nghiêm nghị và xa cách, có vẻ như không mảy may chú ý đến những vết bùn kinh khủng trên chiếc váy xinh đẹp của cô. Chu – Chin đã nhảy phốc lên cái ghế bành khổng lồ bọc vải nhung lông, và ngồi ở đó, vênh váo ngó nghiêng hết người này đến người kia, như thể đang thích thú quan sát tình hình. Có thể nhận thấy quá rõ ràng, đúng như bà Royal từng tiên đoán, đã có chuyện gì đó làm cô Royal “phiền lòng”, và trái tim Emily đột nhiên nặng như chì.
“Hôm nay... trời thật đẹp,” cô ấp úng. Cô biết đây là một câu nói ngu ngốc không để đâu cho hết, nhưng vì cô Royal chẳng chịu hé môi nên cô đành phải nói gì đó. Sự im lặng quá đáng sợ.
“Rất đẹp,” cô Royal đồng ý, không hề liếc mắt về phía Emily mà vẫn nhìn Chu – Chin, lúc này đang quất cái đuôi ướt nhoét của nó lên một cái nệm xinh đẹp bằng lụa pha ren của bà Royal. Emily ghét Chu – Chin. Thật nhẹ nhõm khi căm ghét con chó, vì cô không dám ghét cô Royal. Nhưng cô chỉ ước gì mình đang ở cách xa đây cả ngàn dặm. Ôi, giá như không phải cô đang đặt gói bản thảo nhỏ trong lòng! Nhìn qua cũng biết nó là cái gì. Cô sẽ không bao giờ có đủ dũng khí cho cô Royal xem một bản thảo nào trong số đó. Vị nữ hoàng đang giận dữ này liệu có đúng là người đã viết bức thư thân thiện, tử tế kia không? Thật chẳng thể tin điều đó là sự thật. Đây ắt hẳn là một cơn ác mộng. Giấc mơ của cô đã trở nên “xa vời” quá sức tưởng tượng. Cô cảm thấy mình thật lỗ mãng, non nớt, dốt nát và bất lịch sự... và ngây thơ! Ôi chao, ngây thơ khủng khiếp!
Thời gian dần trôi; có lẽ không quá lâu, nhưng với Emily dường như đã hàng mấy tiếng đồng hồ. Miệng cô khô rang, não bộ tê liệt. Cô không thể nghĩ ra bất kỳ câu nào để nói. Trong tâm trí cô, chợt nhoáng lên một mối nghi ngờ đáng sợ rằng, sau khi viết thư cho cô, cô Royal đã nghe đồn thổi về buổi tối trong căn nhà cũ của ông John và bởi vậy mà thái độ của cô ấy mới thay đổi.
Emily khổ sở vặn vẹo trên ghế và gói bản thảo nhỏ trượt xuống sàn. Emily cúi rạp người xuống để lấy lại cái gói. Đúng lúc đó, Chu – Chin cũng bay từ trên ghế bành về phía nó. Những móng vuốt lấm lem bùn đất của con chó chộp lấy cành violet bằng ren rủ từ chiếc mũ của Emily và xé nó tuột xuống. Emily bỏ gói bản thảo đó để túm chặt lấy cái mũ. Chu – Chin bỏ cành hoa violet để nhảy chồm lên gói bản thảo. Rồi, ngậm chặt cái gói trong miệng, con chó phóng ra ngoài khung cửa kính đang để ngỏ thông với khu vườn.
“Ôi chao, nếu nó giật đứt tóc của mình thì có lẽ còn nhẹ nhõm hơn.” Emily giận dữ nghĩ thầm.
Con chó su quái ác đã tha mất câu chuyện mới nhất hay nhất cùng mấy bài thơ tuyển của cô. Có trời mới biết nó định làm gì với chúng. Có lẽ cô sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy chúng lần nữa. Nhưng, ít ra, cũng còn may là bây giờ không còn phải lăn tăn xem có nên đưa cho cô Royal đọc chúng hay không.
Emily không còn bận tâm xem liệu tâm trạng cô Royal có tệ hay không nữa. Cô cũng không còn tha thiết mong được làm vừa lòng cô ấy - một người phụ nữ đã để con chó của mình cư xử như thế với khách mời mà chẳng buồn lấy nửa lời quở trách nó! Đấy, thậm chí cô ấy còn có vẻ thích thú với cái trò hề của con chó nữa. Emily dám chắc cô đã bắt gặp một nét cười thấp thoáng trên khuôn mặt cô Royal khi cô ấy nhìn cảnh violet tả tơi vương vãi trên sàn nhà.
Emily bất chợt nhớ đến một câu chuyện cô từng được nghe kể về cha của ông John Ngạo Mạn, người thường có thói quen nói với vợ, “Hễ khi nào có người tìm cách làm mất mặt bà, Bridget, cứ bĩu môi ra, Bridget, bĩu môi ra.”
Emily bèn bĩu môi ra.
“Con chó nghịch ngợm thật đấy,” cô nói giọng châm biếm.
“Rất nghịch,” cô Royal bình tĩnh tán thành.
“Cô không cho là nó sẽ tiến bộ hơn nếu được khép vào kỷ luật vừa phải sao?” Emily hỏi.
“Không, cô không nghĩ thế,” cô Royal trầm ngâm đáp lại.
Đúng lúc này, Chu – Chin quay lại, nhảy tưng tưng khắp phòng, quất đuôi hất một cái bình thủy tinh nhỏ rơi ra khỏi ghế đẩu, sau đó khịt khịt mũi ngửi ngửi đám mảnh vỡ, rồi lại nhảy phốc lên ghế bành, ngồi thở hổn hà hổn hển trên đó. “Chao ôi, tôi là một chú chó mới ngoan ngoãn làm sao chứ!”
Emily cầm sổ ghi chép và bút chì lên.
“Ông Towers cử cháu đến phỏng vấn cô,” cô nói.
“Cô rõ rồi,” cô Royal nói, không một giây nào rời mắt khỏi con chó su yêu quý.
Emily: “Cháu có thể phiền cô trả lời một vài câu hỏi không ạ?”
Cô Royal, bằng thái độ thân thiện thái quá: “Hấp dẫn đấy.”
(Chu – Chin, sau khi đã lấy hơi đủ, bèn lao vọt ra khỏi ghế và phóng như bay qua hai cánh cửa xếp nửa khép nửa mở của phòng ăn.)
Emily tham khảo cuốn sổ ghi chép và chẳng buồn suy nghĩ mà cứ thế hỏi luôn câu đầu tiên được viết trong đó: “Cô nghĩ cuộc bầu cử tổng thống mùa thu này sẽ có kết quả như thế nào?”
Cô Royal: “Cô chẳng bao giờ nghĩ đến vấn đề đó.”
(Mím chặt môi, Emily viết vào cuốn sổ ghi chép: “Cô ấy chẳng bao giờ nghĩ đến vấn đề đó.” Chu – Chin lại xuất hiện, vọt từ đầu này sang đầu kia phòng khách, lao vào trong vườn, mõm ngậm một con gà quay.)
Cô Royal: “Bữa tối của cô đi tong rồi.”
Emily, đang bỏ đánh dấu câu hỏi đầu tiên: “Liệu có khả năng Quốc hội Mỹ sẽ xem xét với thái độ tích cực đến những đề nghị hợp tác gần đây của chính phủ Canada không?”
Cô Royal: “Chính phủ Canada có đưa ra đề nghị hợp tác à? Cô chưa từng nghe nói đến những đề nghị đó.”
(Emily viết, “Cô ấy chưa bao giờ nghe nhắc đến chúng.” Cô Royal chỉnh lại cặp kính kẹp mũi.)
Emily, nghĩ thầm: “Với cái cằm và cái mũi như thế này thì lúc về già trông cô sẽ giống phù thủy đấy.” Nói: “Theo ý kiến của cô, có phải tiểu thuyết lịch sử đã qua thời đỉnh cao?”
Cô Royal, uể oải: “Tôi luôn để ý kiến của mình ở nhà mỗi khi tôi đi nghỉ.”
(Emily viết, “Cô ấy luôn để ý kiến của mình ở nhà mỗi khi cô ấy đi nghỉ,” và khát khao mơ ước có thể viết bản miêu tả của cô về cuộc phỏng vấn này, nhưng biết rõ ông Towers sẽ chẳng đời nào đăng nó. Rồi cô tự an ủi bản thân bằng cách nhớ lại rằng cô có một cuốn sổ Jimmy mới tinh ở nhà; đồng thời trong lòng dấy lên một niềm vui mừng tinh quái khi tưởng tượng đến bài viết sẽ được ghi vào đó tối nay. Chu – Chin bước vào. Emily thầm hỏi không biết trong khoảng thời gian ngắn ngủi vừa rồi, nó có kịp ăn hết con gà kia không. Chu – Chin, hiển nhiên đang có nhu cầu ăn tráng miệng, tự ý tóm lấy một trong mấy tấm vải phủ ghế bằng len móc của bà Royal, rồi mang theo nó bỏ xuống dưới cây đàn piano, bắt đầu hăm hở nhai gặm.)
Cô Royal, nồng nhiệt: “Chó cưng!”
Emily, đột nhiên được khơi nguồn cảm hứng: “Cô nghĩ gì về chó su?”
Cô Royal: “Sinh vật đáng mê mẩn nhất trần đời.”
Emily, tự nói với mình: “Vậy ra cô cũng mang một ý kiến theo đấy.” Với cô Royal: “Cháu không mê chúng.”
Cô Royal, kèm theo nụ cười băng giá: “Rõ ràng sở thích của cháu với loại chó khác hẳn so với của cô.”
Emily, tự nói với mình: “Giá như Ilse có mặt ở đây để thay cháu đặt biệt danh cho cô.”
(Một con mèo xám khổng lồ toát lên phong thái người mẹ bước ngang qua ngưỡng cửa bên ngoài nhà. Chu – Chin lao vọt ra từ dưới cây đàn piano, phóng giữa bốn cái chân kệ đứng cao, đuổi theo con mèo đang phi như bay. Cái kệ đứng đổ sầm xuống và cây thu hải đường xinh đẹp của bà Royal nằm tan nát trên sàn, giữa đống đất và mảnh gốm vỡ.)
Cô Royal, không chút đồng tình: “Tội nghiệp dì Angela! Dì ấy sẽ thương tâm lắm cho xem!”
Emily: “Nhưng chuyện đó không có gì to tát, phải không ạ?”
Cô Royal, dịu dàng: “Ồ, không; không hề.”
Emily, tham khảo cuốn sổ ghi chép: “Cô có nhận thấy nhiều thay đổi ở Shrewsbury hay không?”
Cô Royal: “Cô thấy người dân thay đổi rất nhiều. Thế hệ trẻ không mang lại cho cô những ấn tượng tốt đẹp.”
(Emily viết lại câu này. Chu – Chin lại xuất hiện, rõ ràng đã đuổi con mèo băng qua một vũng bùn mới, và tiếp tục thưởng thức món vải len phủ ghế, dưới cây đàn piano)
Emily đóng cuốn sổ ghi chép lại và đứng dậy. Dẫu có vì ông Towers đến mức nào đi chăng nữa thì cũng không đủ sức khiến cô kéo dài cuộc phỏng vấn này. Trông cô ta giống như một thiên thần trẻ, nhưng cô ta lại có những suy nghĩ khủng khiếp. Và cô cắm ghét cô Royal – ôi chao, cô mới căm ghét cô ta biết nhường nào chứ!
“Cảm ơn cô, thế này là đầy đủ rồi,” cô nói, với thái độ kiêu kỳ không thua kém gì cô Royal. “Cháu rất tiếc vì đã làm cô mất nhiều thời gian như thế. Tạm biệt cô.”
Cô hơi cúi đầu chào và bước ra hành lang. Cô Royal theo chân cô tới cửa phòng khách.
“Chẳng phải cháu nên mang con chó của cháu đi cùng thì hơn sao, cô Starr?” cô hỏi giọng ngọt ngào.
“Cô bảo sao ạ?”
“Cô bảo là sao cháu không mang con chó của cháu đi?”
“Chó của cháu?”
“Phải. Chắc hắn nó vẫn chưa xử lý xong tấm vải phủ ghế đâu, nhưng cháu có thể cầm cả tấm vải đi. Giờ thì nó cũng chẳng còn mấy ích lợi với dì Angela đâu.”
“Nó... nó... không phải con chó của cháu,” Emily hổn hển nói.
“Không phải chó của cháu? Thế nó là chó của ai?” cô Royal hỏi.
“Cháu... cháu cứ tưởng nó là của cô... con chó su của cô,” Emily nói.