First Comes Marriage

Chương 7: Chương 7




Vanessa luôn luôn cho rằng sự xung đột không bộc lộ được bản chất tốt đẹp của con người.

Chắc chắn có một mối xung đột nào đó giữa tử tước Lyngate và Constatine Huxtable. Và trong khi cô có chiều hướng tin là ngài tử tước có thể đơn giản bị đổ lỗi vì bản tính của anh là kiêu ngạo và khó chịu và Mr. Huxtable là con ngoài giá thú của ngài bá tước quá cố và vì thế kém hơn anh về địa vị xã hội, cô không còn chắc chắn là Mr. Huxtable hoàn toàn vô tội nữa.

Cô đã nghe lỏm được một phần câu chuyện họ nói với nhau khi cô mang trà đến. Cô không cảm thấy tội lỗi vì đã nghe lỏm chuyện không dành cho tai mình. Phòng khách - phòng khách của Stephen - vào lúc uống trà không phải là nơi để giải quyết ân oán riêng tư nếu người ta muốn tránh cho nó khỏi sự tham dự của những người khác.

Nhưng trong khi tử tước Lyngate tỏ ra cau có như mọi khi, thì Constantine lại phô bày một khía cạnh khác của bản chất nhiều hơn mức anh ta chứng tỏ. Anh ta đang cười nhếch mép, và anh ta đang chọc tức tử tước, rõ ràng thích thú trước thực tế là mình làm cho tử tước lo lắng.

Anh ta đã được yêu cầu rời khỏi Warren Hall trước khi họ đến nhưng anh ta vẫn ở lại.

Bởi vì anh ta muốn chào Stephen và các chị gái, những đứa em họ bị thất lạc quá lâu, và đón mừng họ đến ngôi nhà cho đến giờ vẫn thuộc về anh ta? Hoặc là vì anh ta biết nó sẽ làm tử tước Lyngate tức giận khi thấy anh ta vẫn còn ở đây?

Nếu động cơ của anh ta là vế sau, thì có thể cô vẫn cảm thấy mối thiện cảm đối với anh ta mặc dù nó sẽ phần nào gây bất an cho họ. Xét cho cùng, tại sao anh ta phải đi chỉ vì tử tước Lyngate yêu cầu?

Nhưng nói thật là nhìn toàn bộ sự việc có vẻ rất nhỏ nhặt. Lạy Chúa, cả hai người đều là người lớn và là hai anh em họ, Trông họ giống như hai anh em ngoại trừ một người chăm chăm quắc mắt gần như không ngừng trong khi người kia chăm chỉ phô bày sự quyến rũ và những nụ cười mỉm, cho thấy anh ta đẹp trai đến mức nào bất chấp cái mũi gãy. Mặc dù thực ra anh ta không đẹp trai bằng tử tước Lyngate.

Vanessa không quan tâm họ cãi cọ về chuyện gì. Ồ, nói cho cùng, cô cũng như mọi người, đều cảm thấy tò mò một cách tất yếu về những chuyện như vậy. Nhưng cô không nghĩ là cô và Stephen và hai chị em gái phải bị kéo vào vụ này không phải ngày nào khác mà lại là hôm nay. Hôm nay có lẽ là một trong những ngày kì diệu nhất của cuộc đời Stephen. Hai người đàn ông nên biết cách cư xử để cãi nhau vào lúc khác và nơi khác.

Nhưng xét cho cùng Stephen có được vận may là do kết cục rủi ro của một người khác đem lại. Và trong suốt bữa tối Vanessa để ý thấy Mr. Huxtable vẫn mặc đồ đen, y như lúc nãy khi anh vẫn mặc đồ cưỡi ngựa. Giống như cô, anh đang để tang, tuy nhiên anh vẫn đang trong kỳ tang chế. Không biết cảm giác sẽ như thế nào khi mất một đứa em trai? Tâm trí cô bất giác nghĩ đến Stephen, nhưng cô kiên quyết gạt phăng những tưởng tượng của mình. Chỉ nghĩ đến thôi đã không chịu đựng nổi.

“Hãy kể tôi nghe về Jonathan đi,” cô nói với Mr. Huxtable sau khi tất cả đã chuyển sang phòng khách.

Meg đang nói gì đó với Tử tước Lyngate và Stephen, nhưng hẳn bọn họ đều nghe thấy đề nghị của cô và dừng lại để nghe câu trả lời.

Vanessa nghĩ anh ta sẽ không đáp ứng. Anh nhìn chăm chú vào ngọn lửa, một nụ cười nhẹ nở trên môi. Nhưng rồi anh cất tiếng.

“Người ta thường không thể miêu tả một ai đó chỉ bằng một từ,” anh nói, “nhưng với Jon một từ dường như đã đủ. Thằng bé chính là tình yêu thương. Không một ai và không một thứ gì mà nó không yêu quý cả.”

Vanessa mỉm cười đồng cảm và khích lệ.

“Nó là một đứa trẻ trong cơ thể một thanh niên,” Mr. Huxtable tiếp tục. “Nó thích chơi đùa. Và đôi lúc thích trêu chọc. Nó thích chơi trốn tìm ngay cả khi người đi tìm thấy rõ mồn một nơi nó trốn. Đúng không nào, Elliott?”

Anh ta nhìn tử tước Lyngate, và trong một thoáng vẻ chế nhạo mà Vanessa nhìn thấy trên mặt anh ta lúc trước đã trở lại. Đó là sự thương xót. Một vẻ mặt không hợp với anh ta.

Ngài tử tước - đương nhiên - cau mày.

“Hẳn anh nhớ cậu bé dữ lắm,” Vanessa nói.

Mr. Huxtable nhún vai.

“Nó chết vào đêm sinh nhật thứ mười sáu của mình,” anh nói. “Nó chết trong giấc ngủ sau một ngày nô đùa bận rộn và hạnh phúc. Giá mà chúng ta may mắn như thế. Tôi không muốn nó chết, nhưng giờ đây ít nhất tôi đã được tự do tìm cơ hội cho mình ở nơi khác. Đôi khi tình yêu có thể giống như một gánh nặng.”

Thật sửng sốt khi nghe những lời như thế được nói thành tiếng. Có thể Vanessa chưa từng thành thật như vậy. Nhưng cô cảm thấy một thoáng rùng mình của sự công nhận trong đó. Tuy vậy, chẳng phải là nhẫn tâm khi suy nghĩ theo lối ấy ư? Mặc dù anh gần như đã nói thẳng thừng, cô vẫn biết tất cả chỉ là nỗi đau của lòng yêu thương mà thôi.

“Tôi xin nói,” Stephen lên tiếng, phá vỡ sự im lặng ngắn ngủi khi những người khác đang bối rối, “tôi hi vọng là anh không có ý định sớm rời khỏi đây, anh họ. Có rất nhiều điều tôi muốn hỏi anh. Bên cạnh đó, không có lí do gì phải từ bỏ ý nghĩ về nơi này như nhà của anh chỉ vì trên danh nghĩa nó là của tôi.”

“Cậu thật tử tế, chàng trai.” Mr. Huxtable nói, và một tia phớt qua của sự nhạo báng lại một lần nữa có ở đó trong giọng nói của anh ta và trong một bên lông mày khẽ nhếch lên.

Phải chăng anh ta là một người đàn ông dễ chịu nấp sau cái mặt nạ ra vẻ bất cần, Vanessa tự hỏi, hoặc một người đàn ông khó chịu sau cái mặt nạ của sự quyến rũ cùng những nụ cười? Hoặc là, như hầu hết mọi người, anh ta là sự pha trộn chóng mặt của những tính cách đối lập nhau?

Và tử tước Lyngate là người thế nào? Cô chuyển ánh mắt sang anh và thấy anh đang nhìn lại mình. Màu xanh ngắt trong mắt anh luôn gây ra một cảm giác hơi choáng váng.

“Đó không chỉ là lòng tốt, Mr. Huxtable.” Cô nói, vẫn nhìn tử tước. “Chúng tôi thực sự rất vui khi tìm thấy một người anh họ mà thậm chí không biết là mình có. Chưa một ai kể cho chúng tôi về anh.”

Đôi môi Tử tước cong lên rất nhẹ ở một bên khóe miệng, nhưng biểu cảm của nó dù có thổi phồng trí tưởng tượng đến đâu cũng không thể gọi là một nụ cười.

“Và bởi chúng ta là anh em họ,” Mr. Huxtable nói, “xin mọi người cứ gọi tôi bằng tên thôi.”

“Constantine,” cô nói, quay sự chú ý trở lại với anh ta. “Và tôi là Vanessa, hãy gọi như vậy. Tôi rất tiếc về Jonathan. Thật khó khăn khi nhìn một con người trẻ tuổi ra đi, nhất là đối với người yêu thương cậu ấy.”

Anh mỉm cười với cô mà không có bất kỳ nhận xét nào, và cô quyết định là ít nhất anh ta phần nào là một người dễ chịu. Không ai có thể đóng kịch được vẻ mặt đó. Nó mách bảo cô rằng anh yêu em trai mình - cho dù Jonathan đã chiếm tước hiệu lẽ ra là của anh.

“Lúc ở bàn ăn anh đã bảo với em, Constantine,” Katherine nhắc nhở, “là anh sẽ dạy em cưỡi ngựa. Công việc đó không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai được, em cam đoan thế. Chắc chắn anh phải ở lại lâu hơn.”

“Có thể mất một tuần nếu như em là một học sinh chậm chạp,” anh nói. “Nhưng anh cá là em không phải. Vậy thì ít nhất anh sẽ ở lại cho đến khi em trở thành một kỵ sĩ tài ba, Katherine.”

“Chúng em rất vui khi anh nói vậy,” Meg nói.

Vanessa băn khoăn không biết liệu Tử tước Lyngate có nhận ra là những ngón tay ở bàn tay phải của anh đang gõ thành nhịp trên đùi không.

Tại sao anh và Constantine trở thành kẻ thù? Cô tự hỏi. Hay là ngay từ ban đầu họ đã như thế?

Elliott đã định chỉ dạy cho Merton ngay sáng hôm sau khi họ đã đến Warren Hall. Anh cũng có những công việc của mình cần coi sóc ở Finchley Park, ngôi nhà của anh cách đó năm dặm. Và ngay cả trừ chuyện đó ra, anh vẫn nôn nóng muốn trở về nhà, dù tất nhiên anh sẽ phải cưỡi ngựa tới Warren Hall thường xuyên trong một hai tháng tới. Có rất nhiều việc cần làm.

Anh đã định giới thiệu Merton với người quản lí của cậu, Samson, một con người tháo vát mà cha Elliott đã thuê tầm hai năm trước. Anh định sẽ dành cả buổi sáng trong nhà, thống kê một loạt công việc với cậu bé trong văn phòng của Samson. Và trong suốt buổi chiều cả ba người sẽ cưỡi ngựa ra ngoài để tham quan điền trang và những địa điểm quan trọng khác đối với bá tước mới.

Anh dự định sẽ bận rộn cả ngày trời với cậu bé. Thực sự không còn nhiều thời gian nữa để lãng phí.

Vậy mà sau bữa điểm tâm Merton cho anh hay rằng Con đã đồng ý đưa cậu và các chị đi tham quan một vòng quanh điền trang và bên trong vườn lớn.

Đó là một chuyến tham quan kéo dài hết buổi sáng.

Và sau bữa trưa Merton cho Elliott hay rằng Con đã hứa dẫn cậu cưỡi ngựa tham quan bên ngoài điền trang và khu vườn lớn để giới thiệu cậu với những người làm công và một số tá điền.

“Anh ấy thật là tử tế,” Merton nói, “khi sẵn lòng bỏ ra cả một ngày vì lợi ích của tôi. Ngài đi cùng chúng tôi nhé?”

“Tôi sẽ ở đây,” Elliott nói với cậu một cách khô khan. “Nhưng ngày mai cậu cần dành chút thời gian với Samson, người quản lí của cậu, Merton à. Tôi cũng sẽ đi với cậu.”

“Tất nhiên rồi,” Merton nói. “Có rất nhiều điều tôi cần được biết.”

Vậy mà sáng hôm sau, Elliott phải đi tìm cậu ta và thấy cậu ta ở khu tàu ngựa với Con và một người coi ngựa, đang làm quen với tất cả các con ngựa và trông như thể vô cùng vui sướng với chính mình. Và rồi, dĩ nhiên, cậu ta phải đi thay quần áo trước khi đến văn phòng.

“Meg không thích có mùi ngựa trong nhà,” cậu giải thích. “Chị ấy sẽ làm ầm lên nếu ngửi thấy chỉ một chút phân ngựa trên người tôi.”

Cậu đã vùi đầu vào một chồng tài liệu trong văn phòng được vài giờ trước bữa trưa, và rồi cậu thể hiện một sự háo hức đáng khâm phục khi tiếp thu và hỏi một lượng đáng kể những câu hỏi thông minh. Mặc dù vậy, sau bữa trưa, cậu ta thông báo là Con định đưa cậu đi gặp ông mục sư và những người trồng ngũ cốc và một hoặc hai gia đình danh giá ở lân cận.

“Anh ấy thật tử tế khi giúp đỡ chúng tôi như vậy,” cậu bé nhận xét. “Tôi cứ nghĩ anh ấy có thể ghét chúng tôi. Thay vào đó anh ấy lại cố gắng làm chúng tôi vui vẻ. Anh ấy sẽ đưa các chị tôi đi bơi thuyền trên hồ vào ngày mai nếu thời tiết vẫn đẹp. Tôi dám chắc là tôi cũng sẽ đi nếu có thể mang theo hai chiếc thuyền. Nếu ngài thích hãy tham gia với chúng tôi.”

Elliott khước từ lời mời.

Cứ mỗi buổi tối sau bữa ăn Con lại chuyện trò với một vẻ lôi cuốn mà Elliott đã quá quen thuộc. Anh ta luôn có khả năng xỏ mũi mọi người ở mọi lứa tuổi và cả hai giới tính khi nào anh ta muốn. Họ đã từng cười phá lên về chuyện đó. Về mặt này thì anh ta có kỹ năng hơn Elliott.

Con, tất nhiên, chẳng quan tâm sự đùa giỡn của mình có tác động ra sao đến những người em họ mới có này. Hoặc nếu có, chắc chắn nó không phải là sự yêu mến anh ta cảm thấy. Lạy Chúa, bọn họ đến đây, những kẻ hoàn toàn xa lạ, để hất cẳng anh ta ra khỏi ngôi nhà của mình hoặc chí ít cũng khiến anh ta cảm thấy như vị khách mời trong đó. Anh ta còn có thể ghét cay ghét đắng họ nữa là khác.

Anh ta ở lại chỉ để phá Elliott.

Phiền phức ở chỗ là họ hiểu nhau quá rõ. Chỉ Con mới biết điều gì sẽ làm cho người bạn cũ khó chịu. Và chỉ có Elliott mới biết cái gì đang diễn ra trong đầu Con.

Elliott đứng bên cửa sổ phòng ngủ dành cho khách vào buổi sáng mà cuộc chèo thuyền định tiến hành, trông thấy Con đi ra khỏi cửa chính dưới nhà, sải bước quả quyết qua sân hiên và đi xuống các bậc thang tới khu vườn hoa bên dưới.

Elliott đã mặc quần áo xong xuôi. Thực ra anh đang dự tính cưỡi ngựa vào buổi sáng. Nhưng giờ là cơ hội để anh và Con có một cuộc nói chuyện tách ra khỏi những người trong nhà. Merton còn trẻ và dễ xúc động. Các cô chị gái thì ngây thơ không biết gì. Con đã sử dụng thằng bé Jon đáng thương để khiến nhiệm vụ người giám hộ của Elliott trở nên khó khăn gấp nhiều lần. Anh sẽ không cho anh ta cơ hội lợi dụng bá tước Merton hiện tại cho mục đích tương tự.

Anh đi theo Con. Anh ta đã rẽ trái ra khỏi vườn hoa - Elliott đã trông thấy trước khi anh rời khỏi phòng. Vậy là anh ta sẽ không đi thẳng tới hồ, hay khu tàu ngựa. Nhưng việc anh ta định đi đâu ngay lập tức trở nên rõ ràng.

Elliott đi theo anh ta tới ngôi nhà thờ nhỏ dành riêng cho gia đình và khu nghĩa trang bao quanh. Và đủ chắc chắn, là anh ta đang đứng trước mộ của Jon.

Trong một thoáng Elliott thấy hối hận vì đến nơi này. Nếu đây là một khoảnh khắc riêng tư, thì anh không muốn xâm phạm vào. Nhưng gần như ngay lập tức anh thấy tức giận. Vì thậm chí nếu Con có yêu thương Jon đi chăng nữa, thì anh ta cũng đã lợi dụng thằng bé theo lối hèn hạ, ăn cắp của nó và biến ngôi nhà của nó thành một nơi tai tiếng. Chuyện đó thật sự không quan trọng vì Jonathan chẳng biết gì và sẽ không hiểu ngay cả khi đem sự thật giải thích cho thằng bé nghe. Đó không phải là vấn đề chính.

Và rồi khoảnh khắc để quay về mà không bị nhìn thấy - nếu anh muốn có khoảnh khắc đó - đã qua đi. Con quay đầu lại và điềm tĩnh nhìn vào anh. Bây giờ anh ta không mỉm cười nữa. Chẳng có khán giả nào ở đây để cho anh ta phô diễn sự mê hoặc.

“Như thế chưa đủ sao, Elliott,” anh ta hỏi, “khi anh cứ dính mũi vào ngôi nhà của cha và em trai tôi - và của em họ tôi - và bệ vệ đi qua đi lại ngoài đó như thể nó là nhà anh? Mà giờ anh phải xông vào cả nghĩa địa nơi họ được chôn cất?”

“Tôi không có cãi lộn với họ,” Elliott nói. “Và may cho cậu, họ không có cãi lộn với cậu. Họ đã chết cả rồi. Nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên khi cậu chọn đứng trên khu đất thiêng liêng này. Họ sẽ trách tội cậu nếu họ còn sống và biết điều mà tôi biết.”

“Anh nghĩ anh biết cái gì,” Con cười cay nghiệt. “Anh đã trở thành một kẻ chán ngắt cao đạo rồi, Elliott. Đã có thời anh đâu phải người như thế.”

“Đó là thời tôi còn chơi bời trác táng,” Elliott thừa nhận. “Nhưng chưa bao giờ là tên vô lại, Con. Tôi không bao giờ buông thả danh dự của mình.”

“Quay về nhà đi,” Con nói gay gắt. “Khi người anh vẫn chưa bị sứt mẻ. Tốt hơn cả, hãy về Finchley ấy. Chú sói con ấy sẽ thành công mà không cần sự can thiệp của anh.”

“Nhưng với sự can thiệp của cậu thì chắc chắn cậu ta sẽ bị tước hết những gì còn lại của tài sản thừa kế,” Elliott nói, “Tôi không ở đây để đôi co với cậu, Con. Hãy đi khỏi đây ngay hôm nay. Nếu cậu còn một mảnh danh dự trong người, hãy đi và để những người đó được yên. Họ là những người vô tội. Họ không biết gì hết.”

Con cười khẩy.

“Thích một người trong bọn họ à, Elliott?” anh hỏi. “Cô chị cả trông hấp dẫn đúng không? Cô út nhìn cũng muốn nhỏ nước miếng. Còn nàng góa phụ dù không xinh nhưng có đôi mắt đẹp biết cười. Anh thích cô nào nào? Tôi cho rằng anh đang có ý định làm một chàng trai ngoan và sớm kết hôn và xây một phòng trẻ cho mình. Sẽ rất tiện lợi nếu cưới luôn một Huxtable ở Warren Hall.”

Elliott tiến lên hai bước đe dọa về phía anh ta.

“Chỉ cần cậu cam đoan sẽ không để mắt đến họ,” anh nói. “Cậu biết là tôi sẽ không để yên cho chuyện đó. Họ không dành cho loại người như cậu.”

Con lại cười khẩy.

“Tôi tình cờ gặp Cecily tuần trước,” anh ta nói. “Cô ấy đang cưỡi ngựa cùng gia đình Cambell. Cô ấy nói với tôi là sẽ ra mắt trong năm nay. Cô ấy nhất định muốn tôi phải có mặt ở vũ hội ra mắt của mình. Cô ấy sẽ để dành một điệu nhảy cho tôi. Cece bé bỏng ngọt ngào - cô ấy đã lớn lên thành một giai nhân rồi.”

Hai tay Elliott co lại thành nắm đấm bên sườn khi anh sải thêm vài bước nữa.

“Anh không định dùng đến một trong số chúng đấy chứ, Elliott?” Con hỏi, nhướng một bên mày và cười phá lên. “Đã một năm rồi kể từ khi chúng ta choảng nhau lần trước. Đó là lần anh đấm gãy mũi tôi, tôi mang máng thế - dù tôi cũng có nhớ là tôi đã xin được nửa lít máu hoặc hơn từ anh và làm bầm một con mắt của anh. Vậy thì tới đi. Nếu đây là một trận đấu mà anh hậm hực muốn đánh, thì tôi xin chiều. Quả thật tôi còn không đợi nổi để chờ anh ra tay trước. Anh lúc nào cũng lề mề khi bắt đầu.”

Và anh ta khép lại khoảng cách ngắn ngủi giữa họ và giáng cho Elliott một đấm vào mặt - suýt nữa đã trúng đích nếu Elliott không khóa nó lại bằng một tay trước khi tung ra cú đấm của mình. Nó sượt qua tai Con và đòn tiếp theo của anh ta trúng vào vai Elliott thay vì vào cằm như dự tính.

Họ thủ thế, nắm đấm sẵn sàng, và gườm gườm đi vòng quanh nhau, tìm sơ hở của đối phương. Sẵn sàng cho một trận đánh thật sự - không buồn dừng lại để cởi áo ngoài.

Và chuyện này, Elliott nghĩ, phần nào mang lại cho anh sự hồ hởi, nó đúng là thứ anh háo hức từ lâu. Đây là lúc có ai đó nện cho Con một trận ra trò. Và anh luôn là người dùng nắm đấm giỏi hơn Con, chỉ có một người làm bầm được mắt anh và làm anh chảy máu mũi, dù chưa đến nửa lít, là Jove.

Anh đã nhìn thấy chỗ sơ hở của cậu ta và -

“Ôi, xin đừng làm thế,” một giọng nói vang lên sau lưng anh. “Bạo lực không bao giờ giải quyết được vấn đề. Thay vào đó các anh không thể dùng cách đối thoại sao?”

Giọng phụ nữ.

Đúng là những lời ngu xuẩn hết chỗ nói.

Giọng nói của Mrs. Dew.

Dĩ nhiên rồi.

Con hạ nắm đấm xuống và cười tươi.

Elliott ngoái đầu qua vai và trừng mắt.

“Đối thoại?” anh nói. “Nói chuyện ư? Tôi đề nghị cô quay lưng lại và về nhà ngay, ma’am, và tránh xa những gì không liên can đến cô.”

“Để các anh có thể tiếp tục làm đau nhau sao?” cô hỏi, bước lại gần hơn. “Đàn ông đúng là ngớ ngẩn. Họ tự cho mình là phái mạnh, nhưng mỗi khi có bất hòa giữa hai người bọn họ hoặc hai nhóm người bọn họ hoặc hai đất nước của bọn họ, thì giải pháp duy nhất họ có thể nhìn ra là đánh nhau. Một trận ẩu đả bằng nắm đấm, một cuộc chiến tranh - thật sự giữa họ chẳng có gì khác nhau cả.”

Lạy Chúa tôi!

Cô ta đã tròng quần áo vào người một cách vội vã, anh đoán chừng thế. Cô ta cũng không mang găng và đội mũ, và tóc cô ta cuộn lại thành một búi lộn xộn ở sau đầu. Hai má cô đỏ bừng và đôi mắt sáng long lanh.

Cô ta là người phụ nữ xấu nhất trong mức độ khó chịu của anh được biết.

“Em nói cũng đúng, Vanessa,” Con nói, giọng rung rung vì cười. “Và anh tin là trong hai phái thì phụ nữ mới chính là phái mạnh. Nhưng em thấy đấy, đàn ông bọn anh thích đọ sức bằng nắm đấm.”

“Anh đừng có thuyết phục em rằng đây là một trận đấu tập giữa bạn bè,” cô nói. “Nó không phải. Vì lí do nào đó mà hai người các anh ghét nhau - hoặc các anh nghĩ thế. Nếu các anh chịu ngồi xuống nói chuyện với nhau, có lẽ các anh có thể dàn xếp được mối bất hòa dễ dàng hơn các anh tưởng và có thể lại trở thành bạn bè. Em cho rằng hai người đã từng là bạn, hai người ở cách nhau có năm dặm và là anh em họ gần cùng lứa tuổi.”

“Nếu Elliott đồng ý,” Con nói, “thì chúng tôi sẽ hôn nhau và làm lành.”

“Mrs. Dew,” Elliott nói, “những hiểu biết xấc xược của cô thật không có giới hạn. Nhưng tôi rất tiếc đã làm phiền tới cuộc đi dạo của cô. Cho phép tôi đưa cô trở lại nhà.”

Anh nhìn cô trừng trừng để cho cô thấy rằng anh biết rõ mồn một là cô không ra ngoài đi dạo một cách vô tình. Giống như anh, hẳn cô đã nhìn ra từ cửa sổ phòng ngủ của mình và trông thấy Con cùng với anh biến mất theo cùng một hướng. Cô ta đã tự rút ra kết luận cho mình và đi theo họ, con ranh con chuyên gây phiền phức.

“Không,” cô nói, đứng im không suy suyển, “cho đến khi tôi có được lời bảo đảm của ngài - và của Constantine - rằng trong hôm nay và ngày mai hai người sẽ không đánh nhau nữa hoặc bất cứ hôm nào khác mà tôi không có mặt để can ngăn hai người.”

“Anh sẽ trở vào nhà,” Con nói. “Em không cần phải buồn lòng về chuyện này, Vanessa. Đúng như em đoán, Elliott và anh vừa là bạn tốt và là kẻ thù - nhưng trên hết vẫn là bạn - từ khi sinh ra tới giờ. Và mỗi khi bọn anh đánh nhau - thậm chí cả lần anh ấy đấm vỡ mũi anh và anh làm bầm mắt anh ấy lúc anh mười bốn tuổi - bọn anh luôn cười phá lên ngay lập tức sau đó và đồng ý rằng nó chỉ là một chuyện đùa.”

Cô chắt lưỡi, nhưng Con vẫn nói tiếp.

“Mấy ngày tới anh có việc phải đi,” anh nói. “Anh phải coi sóc một công chuyện ở nơi khác. Anh hứa sẽ không khởi xướng bất cứ vụ ẩu đả nào với Elliott trong thời gian đó.”

Anh cười, tặng cô một cái cúi chào, ném cho Elliott một ánh mắt giễu cợt, và quay lưng bước về hướng ngôi nhà.

“Như thế phần lỗi sẽ đặt trên vai ngài rồi,” Mrs. Dew nói, quay về Elliott với một nụ cười, “nếu như có xảy ra ẩu đả. Chuyện đã được giải quyết một cách khôn ngoan. Phải chăng anh ấy luôn có khả năng phân cho ngài vai phản diện.”

“Tôi rất không bằng lòng với cô, ma’am,” anh nói.

“Tôi biết,” nụ cười của cô trở nên rầu rĩ hơn. “Nhưng tôi cũng không bằng lòng với ngài. Đây là một tuần lễ vui vẻ đối với em trai tôi. Và các chị em của tôi nữa. Tôi không muốn niềm vui ấy bị phá hỏng bởi mối bất hòa giữa ngài và Constantine, và họ lại kính trọng ngài. Họ không đáng phải buồn rầu vì những cuộc cãi vã cá nhân nhỏ nhặt.”

“Chắc chắn nó không hề nhỏ nhặt, ma’am,” anh nói lạnh lùng. “Nhưng quan điểm của cô đã được ghi nhận. Niềm vui của cô đã bị phá hỏng chưa?”

“Không hẳn.” Cô lại mỉm cười lần nữa, cái vẻ sáng ngời như nắng ấm mà anh còn nhớ từ bữa tiệc Valentine. “Đây là nơi ông bà tổ tiên của tôi được chôn cất đúng không? Constantine không đưa chúng tôi tới đây khi anh ấy chỉ cho chúng tôi xem điền trang.”

“Có lẽ,” anh nói, “cậu ta nghĩ nó quá u ám.”

“Hay có lẽ là,” cô nói, “nỗi đau của anh ấy dành cho em mình còn quá tươi mới và là một điều quá riêng tư để chia sẻ với những người em họ không quen biết cậu ấy. Giá mà tôi biết cậu ấy sớm hơn. Cậu ấy có đáng yêu như Constantine miêu tả không?”

“Ồ, có,” anh nói, “có thể thằng bé tật nguyền và trông khác người, nhưng tất cả chúng ta đều có thể học hỏi từ những người như Jonathan. Thằng bé lúc nào cũng trìu mến với mọi người, ngay cả những người thiếu kiên nhẫn với nó.”

“Ngài có?” cô hỏi. “ý tôi là, thiếu kiên nhẫn không?”

“Với thằng bé thì không bao giờ,” anh nói. “Nó thường trốn tránh tôi mỗi khi tôi đến đây - từ sau khi cha tôi mất và tôi trở thành người bảo hộ của nó. Đôi khi, nếu thằng bé có thể nén được không bật cười khúc khích, thì tôi phải tốn khá nhiều thời gian đi tìm nó. Nhưng thằng bé luôn rất sung sướng khi tôi phải đi tìm, chỉ có người tính tình cáu bẳn mới đi bực mình với nó. Xét cho cùng thì chính Con đã bảo thằng bé làm thế.”

“Để chọc cười cậu bé?” cô hỏi. “Hay để khiến ngài bực mình?”

“Luôn luôn là vế sau,” anh nói.

“Phải chăng anh ấy không bằng lòng trước thực tế ngài là người bảo trợ của Jonathan,” cô hỏi anh, “cho dù ngài không lớn tuổi hơn anh ấy là mấy, nếu như ngài có nhiều tuổi hơn?”

“Đúng vậy,” anh nói cụt lủn.

“Nhưng chắc hẳn,” cô nói, “anh ấy phải hiểu rằng ngài không thực sự là người được chỉ định cho vai trò người bảo trợ, mà là cha ngài, người lớn tuổi hơn và sáng suốt và có nhiều kinh nghiệm hơn cả hai người các ngài.”

“Tôi nghĩ cậu ta có hiểu,” anh nói.

“Ngài không thể,” cô hỏi, “biểu lộ một tình cảm nào đó và chuyển giao nhiệm vụ bảo trợ sang cho Con ư, dù là không chính thức?”

“Tôi không thể,” anh nói.

“Ôi trời.” Cô nhìn anh đăm đăm, đầu nghiêng về một bên. “Ngài thực sự là người đàn ông cứng rắn nhất và khép kín nhất. Chỉ là tôi cảm thấy sự thù hằn cứ tồn tại giữa hai người các ngài là không cần thiết. Và giờ đây ngài lại đang yêu cầu Constantine rời khỏi nơi này dù nó luôn là mái nhà của anh ấy. Ngài không cảm thấy một chút trắc ẩn đối với anh ấy ư?”

“Mrs. Dew.” Anh chắp hai tay sau lưng và hơi cúi người xuống cô. “Cuộc sống không phải là thứ đơn giản như cô dường như đang nghĩ. Có lẽ tốt hơn là cô đừng cố khuyên nhủ tôi về những vấn đề mà cô gần như không hiểu.”

“Cuộc sống thường đơn giản hơn những gì người ta quy cho nó,” cô nói. “Nhưng nếu ngài muốn tôi không lo chuyện bao đồng, thì tôi sẽ làm theo. Ông cố của tôi được chôn ở đâu vậy?”

“Đằng kia,” anh xoay người chỉ và họ cùng đi đến chỗ ngôi mộ.

Cô nhìn chằm chằm tấm bia và lời ca ngợi hoa mỹ của nó dành cho ngài bá tước được chôn cất ở đó.

“Tôi tự hỏi,” cô nói, “giờ ông ấy sẽ nói gì nếu ông có thể nhìn thấy chúng tôi ở đây - hậu duệ của đứa con trai ông đã từ và người phụ nữ con trai ông đã lấy.”

“Cuộc đời không thể đoán trước được,” anh nói.

“Và nó rất không cần thiết,” cô nói, “tất cả những xung đột, tất cả những sự đau khổ và cô đơn hẳn đã có giữa hai bên. Dù sao chăng nữa chúng tôi cũng đã ở đây, nhưng với quá nhiều năm tháng quý giá đã bị bỏ lỡ.”

Đôi mắt cô tràn ngập tiếc nuối. Con đã đúng ở một điểm, Elliott nghĩ. Cô ta thực sự có một đôi mắt đẹp - mặc dù hiện tại chúng không cười.

“Jonathan nằm ở đâu?” cô hỏi.

Anh dẫn cô đến ngôi mộ mới nhất. Tấm bia đá vẫn mới tinh, Cỏ trồng xung quanh còn ngắn và cỏ dại mọc lung tung. Ai đó đã trồng những bông hoa của mùa xuân ở đây, và hoa giọt tuyết đang hé nở và những nhánh lá nghệ tây đang nhú lên khỏi mặt đất.

Có người đã chăm chút cho nơi này. Là Con, anh nghĩ thế.

Một hành động chuộc lỗi chăng?

“Ước gì tôi biết cậu bé,” cô nói. “Tôi thật lòng mong ước điều đó. Tôi tin mình sẽ yêu quý cậu ấy.”

“Người ta không thể không yêu mến thằng bé,” anh nói.

“Nhưng không phải là anh trai cậu ấy?” cô nói, quay đầu lại nhìn anh. “Có lẽ nếu ngài bật cười trước những nỗ lực để chọc tức ngài của anh ấy mỗi khi anh ấy bảo Jon trốn khỏi ngài, hai người có thể cười xòa với nhau và trở thành bạn bè. Có lẽ thứ ngài cần hơn hết thảy là một chút hài hước.”

Anh cảm thấy mũi mình nóng lên.

“Một chút hài hước?” Anh gần như quát vào mặt cô. “Trong khi thực hiện những nhiệm vụ nặng nề? khi phải đối phó với một tên bất lương? Khi phải để ý những thú vui của một đứa bé thiểu năng vô tội? Và trong khi phải đối phó với một người xấc xược nữa ư, tôi cho là thế?”

“Cái người xấc xược ấy là tôi phải không?” cô nói với anh. “Tôi chỉ không thể để cho các ngài đánh nhau mà ít nhất không cố ngăn lại. Và giờ tôi chỉ đang cố gắng chỉ ra một cách mà ngài có thể làm cho cuộc sống của mình vui vẻ hơn cũng như dễ chịu hơn. Ít nhất Con cũng rất hay mỉm cười ngay cả khi có đôi lúc vẻ mặt anh ấy ở bên rìa của sự nhạo báng. Ngài không bao giờ cười. Và nếu ngài cứ tiếp tục cau có suốt ngày, giống như ngài đang làm lúc này đây, ngài sẽ có những vết hằn thường trực giữa lông mày trước khi ngài kịp già đi đấy.”

“Mỉm cười,” anh nói. “À, cuối cùng tôi đã hiểu cái bí mật lớn nhất của cuộc đời. Nếu người ta mỉm cười, người ta sẽ có thời gian sống dễ chịu và hạnh phúc, bất kể đó là kẻ bất lương đến đâu. Tôi phải học mỉm cười mới được, ma’am. Cám ơn cô về lời khuyên.”

Và anh mỉm cười với cô.

Cô nhìn chăm chú vào anh, đầu cô lại nghiêng sang một bên lần nữa.

“Như thế không phải là mỉm cười,” cô nói. “Đó là một vẻ nhăn nhó tức giận khiến cho ngài trông hơi giống một con sói - mặc dù tôi đã đọc rất nhiều cuốn sách nói rằng chó sói là loài thú hiền lành và đáng khâm phục nhất. Ngài đã hai lần đề cập tới Con như một kẻ bất lương. Phải chăng chỉ vì anh ấy bực mình với vị trí người bảo hộ của ngài và khuyến khích Jonathan chơi khăm ngài? Và vì anh ấy lờ đi tối hậu thư của ngài và vẫn ở lại đây khi chúng tôi đến? Bất lương là một từ còn hơn cả khắc nghiệt để nói về một người đàn ông, đúng không? Nếu anh ấy không còn hành động gian trá nào khác ngoài những gì ngài kể với tôi, thì ngài không thể mong tôi chấp nhận quan điểm của ngài mà không thấy thắc mắc.”

“Thật là một điều đáng ao ước, ma’am,” anh nói, “khi biết cô có thể tin lời của ai và không tin lời của ai.”

“Và tôi được cho là phải tin lời ngài ư?” cô hỏi anh. “Tôi phải đồng ý với ngài rằng anh họ tôi là một kẻ bất lương? Tôi đừng có đếm xỉa đến tất cả những gì anh ấy nói ư? Tôi chẳng có lí do gì để tin ngài hay tin anh ấy. Tôi sẽ tự mình quan sát, thưa ngài, và tự mình rút ra kết luận.”

“Tôi tin rằng,” anh nói, “bữa điểm tâm đang đợi chúng ta, ma’am. Chúng ta trở vào nhà chứ?”

“Vâng, tôi cũng nghĩ vậy,” cô nói với một tiếng thở dài. “Ôi trời đất, tôi không mang găng tay.” Cô sờ lên đầu. “Và không đội mũ. Không biết ngài sẽ nghĩ sao về tôi nữa?”

Một cách khôn ngoan, anh kìm chế không nói cho cô nghe.

Vậy là anh không có tính hài hước hả?

Lạy Chúa, anh nghĩ khi họ bước bên nhau trong im lặng, chẳng lẽ người ta phải đùa cợt trong mọi tình huống và cười hắc hắc như con linh cẩu ngay cả khi không có ai làm thế ư?

Hay người ta phải toát ra vẻ quyến rũ phỉnh phờ giống như Con?

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.