Tạ Lâm cho rằng vì bệ hạ muốn cái nghiên mực, thậm chí còn bực bội giận dỗi, nên nàng quyết định trả lại.
Lúc nàng đề cập đến chuyện này với Mặc Nhi, phản ứng đầu tiên của Mặc
Nhi là trợn trừng mắt lên, “Gia, không phải người nói sẽ cho ta cái
nghiên ngự ban này làm của hồi môn sao? Không phải người nói sẽ gả ta
cho cái nghiên này à?” Lúc Mặc Nhi thu dọn cất cái nghiên đi, không nhịn được giả vờ cô đơn nói, “Xem ra Gia hối hận rồi, đám đàn ông đều chỉ
biết nói mà không biết giữ lời, Gia cũng nói mà không giữ lời.”
“……” Tạ Lâm thở dài, “Mặc Nhi, đàn ông trong phủ Thừa tướng nào có nhiều nhặn gì, hơn thế ai ai cũng thành thực đáng tin. Rốt cuộc nàng đã quen
biết ai vậy, hơn thế còn là một người đàn ông nói mà không biết giữ lời
nữa? Nàng nói cho Gia, Gia muốn nghe thử.”
Mặc Nhi không ngờ sự chú ý của Tạ Lâm lại khác với người thường như thế, ngay lập tức đã tóm được lỗi trong lời nói của nàng.
Mặc Nhi lập tức bối rối, nghiên mực trong tay cũng thiếu chút nữa là rơi xuống đất, nàng vội vàng nắm chặt, vẻ thông minh lanh lợi thường ngày
cũng mất đi quá nửa, lắp ba lắp bắp nói: “Gia, người nhìn ra ư?”.
Tạ Lâm mặt không chút cảm xúc: “Mặc Nhi.”
Nàng chỉ gọi hai tiếng, trong hai tiếng ấy, rõ ràng không lộ ra chút vui vẻ hay giận dữ nào, nhưng lại khiến cả người Mặc Nhi run rẩy, quỳ sụp
xuống, “Gia, ta…… ta…… người hãy tha thứ cho Mặc Nhi, tháng trước có một gánh hát đến phủ hát hí khúc, có một hí tử đóng vai thư sinh, tên là Chúc Viễn, Mặc Nhi có một chút…… một chút hảo cảm
với hắn, ba ngày trước đã hẹn sẽ cùng nhau đi ngắm đèn, nhưng hắn lại
thất hẹn, vì thế Mặc Nhi cảm thấy, phần lớn đàn ông chỉ biết nói nhưng
lại không biết giữ lời, chứ không phải……”
(Hí tử là cách gọi chung của những người hát hí khúc thời cổ đại.)
Nàng cứ quỳ như vậy, giọng nói cũng không kìm được mà có phần nghẹn ngào.
Suy cho cùng Mặc Nhi cũng là thị thiếp của Thừa tướng, hành vi của nàng, trong mắt của người ngoài, chính cắm sừng lên đầu Thừa tướng.
Phải cái, may mà Tạ Lâm là con gái.
Mặc Nhi là cô gái bạo gan nhưng thẳng thắn, lại có chút ngây thơ, tuy
rằng nàng thường xuyên ngủ cùng giường với Tạ Lâm, nhưng nàng biết, nàng không hiểu Tạ Lâm bằng Thục Hà, thậm chí cũng không hiểu Tạ Lâm bằng
Khởi La.
Nàng không biết, đối với hành động hồng hạnh vượt tường này của mình, Tạ Lâm sẽ có suy nghĩ gì.
Mặc Nhi chưa tận mắt nhìn thấy thủ đoạn của Tạ Lâm bao giờ, nhưng nàng đã từng nghe nói rồi.
Vì thế giờ phút này, cho dù trong lòng nàng cảm thấy Tạ Lâm sẽ không làm gì mình, nhưng vẫn có chút lo sợ bất an.
Tạ Lâm thấy vậy, thở dài một tiếng, “Mặc Nhi, nàng đứng dậy đi.”
Nàng đỡ Mặc Nhi đứng lên, phủi phủi bụi dính lên đầu gối, còn vuốt vuốt
tóc của Mặc Nhi nữa. Nàng nhớ đến tên thư sinh Chúc Viễn tướng mạo anh
tuấn, nhưng đầu mày cuối mắt lại có chút phong lưu kia, không nhịn được
lắc lắc đầu, thở dài, “Mặc Nhi, ở trong phủ lâu như vậy, hạng người nào
nàng cũng đều gặp qua rồi, vậy mà sao vẫn không có mắt nhìn người như
vậy? Thế nào mà lại đi thích kiểu đàn ông đó? Rõ ràng là một tên không
đáng tin, căn bản không muốn cùng nàng sống những ngày tháng sau này.”
Tạ Lâm không nổi cáu, nàng thì đương nhiên không thể giận dữ rồi, nàng
vốn dĩ còn hy vọng, tất cả những người phụ nữ trong phủ Thừa tướng có
thể có một mái nhà của riêng mình, cứ phung phí tuổi xuân ở phủ Thừa
tướng mãi như vậy, tất nhiên Tạ Lâm cũng không đành lòng.
Trên khắp phố phường, từ lâu đã có rất nhiều lời đồn đại rằng gã Chúc
Viễn kia tự cho mình là người phong lưu, đã hại đời không biết bao nhiêu con gái nhà lành, chơi xong rồi, liền phất tay áo bỏ đi không chút
trách nhiệm. Tháng trước gã Chúc Viễn này liếc mắt đưa tình với hoa đán
của gánh hát, mấy ngày sau lại thấy gã đang trêu ghẹo tiểu cô nương trên phố. Nhưng Tạ Lâm không sao ngờ được rằng, Mặc Nhi chọn tới chọn lưu,
lại chọn đúng phải gã đàn ông ấy.
Hành động an ủi của Tạ Lâm, lại thêm giọng điệu thở dài, khiến hốc mắt
Mặc Nhi vốn đã ầng ậc lệ, giờ lập tức tuôn rơi. Nàng không kìm được ôm
lấy cổ Tạ Lâm, vùi mặt mình vào hõm vai nàng, thút tha thút thít nói:
“Ta biết, hắn là kẻ chẳng ra gì, trước đây không biết…… sau hôm đó, ta
đã biết rồi.”
“Hôm đó, hôm đó ta đã chuẩn bị trao thân cho hắn……”
“May mà không làm thế, may mà không làm thế……”
“Hôm sau, ta nghe được hắn nói với người khác rằng, chẳng qua hắn muốn
nếm thử mùi vị người phụ nữ của Thừa tướng xem nó thế nào, hắn căn bản…… cản bản không hề thích ta……”
“May mà hắn thất hẹn…… may mà……”
Mặc Nhi nghẹn ngào nói.
“Đàn ông đều là hạng bạc bẽo, bọn họ đều chỉ biết nói lời mà không biết
giữ lời…… trước mặt nói một kiểu, sau lưng làm một kiểu.” Mặc Nhi giậm
giậm chân, “Ta…… ta sẽ không bao giờ tin đàn ông nữa.”
“…… Đàn ông cũng có người tốt,” Tạ Lâm nghĩ ngợi, “Đàn ông trong thiên
hạ nhiều như vậy, sẽ có một người, nguyện nắm tay nàng chung sống một
đời, hắn sẽ không bắt nạt nàng, không để nàng bị tổn thương, không để
nàng phải rơi lệ, không để nàng phải chịu uất ức.”
“Có thật là sẽ có không?” Mặc Nhi không kìm được sự chờ mong với người đàn ông Tạ Lâm vừa nói.
“Nhất định sẽ có, hắn nhất định đang ở trong xó nào, chờ nàng.” Tạ Lâm
tủm tỉm cười, “Góc bể chân trời, sẽ có một người thích hợp với nàng
nhất, hai người phu xướng phụ tùy, bách niên giai lão.”
Mặc Nhi ngước đầu lên từ hõm vai nàng, trong mắt vẫn còn ngập nước mắt, “Nếu có, vậy tại sao Gia không tìm lấy một người?”.
Tạ Lâm không trả lời.
Nàng chỉ vuốt tóc Mặc Nhi, nhẹ nhàng nói: “Mặc Nhi, sau này nàng thích
kiểu người nào, thì phải nói với ta, nói với Thục Hà, nói với Khởi La,
nói với bất kỳ ai mà nàng tin tưởng trong phủ đều được cả, bọn ta sẽ
giúp nàng đánh giá, xem xem hắn có thật sự chân thành đối đãi với nàng
không.”
“Ta đã nói rồi, trời cao như vậy, đất rộng như vậy, rồi sẽ có một ngày,
nàng tìm được một người mà mình yêu thương, cùng hắn sống những tháng
ngày yên bình, núi cao sông dài, thần tiên quyến lữ.”
“Ừ.” Mặc Nhi mắt lấp lánh lệ, gật gật đầu.
XXX
Minh Trọng Mưu trừng mắt nhìn chiếc nghiên trên bàn, vừa ngước mắt lên,
lại trừng mắt lườm Tạ Lâm đang đứng trước mặt, “Đây là cái gì?”.
Tạ Lâm cung kính đáp: “Là cái nghiên.”
Vớ vẩn, chẳng lẽ trẫm không nhìn ra đó là cái nghiên mực chắc?
Minh Trọng Mưu cáu đến nỗi suýt chút nữa là quăng luôn cái nghiên mực
trên bàn vào mặt Tạ Lâm. Nhưng đây là cái nghiên mực hắn thích thứ hai,
đập hỏng rồi, thì sẽ lại lần thứ hai mất đi một mảnh tim.
Khó khăn lắm hắn mới đè được ham muốn ném cái nghiên mực xuống, trầm
giọng nói: “Trẫm nhớ, đây là thứ trẫm đã ban cho khanh, khanh lại đặt
lên bàn trẫm, vậy là muốn làm gì?”.
Tạ Lâm nói: “Vật của bệ hạ ban cho, quá quý giá, thần tự cho rằng không thể nhận nổi, vì thế xin dâng lên hoàn cố chủ.”
Hàng mày của Minh Trọng Mưu, không kìm được nhăn tít lại, hắn nói: “Nếu
trẫm đã ban thưởng cho khanh, thì sao có thể nhận lại được? Khanh cầm về đi.”
Ánh mắt của hắn sống chết nhìn gắt gao vào mặt Tạ Lâm, hắn biết, gã này
chắc chắn khác người thường! Người khác được ban thưởng, thì đều vui
mừng phấn chấn quay về, coi trọng món đồ của hắn như bảo bối, nhưng còn
gã này khi được ban thưởng, lại sợ tránh né còn không kịp. Đấy xem thử
đi, ngay cả liếc nhìn trẫm một cái, hắn cũng không muốn, lúc đặt chiếc
nghiên lên bàn, lông mày cũng cau hết cả lại, giống như rất khó chấp
nhận, nghĩ kỹ thì có khi còn tức giận nữa.
Lời vừa nói ra, quả nhiên Minh Trọng Mưu lại thấy lông mày Tạ Lâm nhíu chặt.
Tạ Lâm nhíu mày thưa: “Bệ hạ, vật quý giá như vậy, vốn dĩ rất khó bảo
quản, nó lại là một cái nghiên mực, dùng thì sợ hỏng sợ vỡ, không dùng,
cứ để đấy lại thấy chướng mắt, vì thế, thần không nhận thì tốt hơn.”
Nghe đi, ngay cả cái từ “chướng mắt” gã này cũng nói ra rồi kìa, vội vội vàng vàng đẩy trả lại kìa, rõ ràng là rất ghét cái nghiên này.
Minh Trọng Mưu chỉ cảm thấy một nỗi chua xót tức giận tầng tầng lớp lớp
trào lên trong lòng, hắn không nhịn được nói: “Tạ Lâm, ngươi thật sự
không thích cái nghiên mực này sao?”.
Tạ Lâm nghe ngữ khí của Minh Trọng Mưu có gì đó không đúng, ngẫm nghĩ
một lúc, cân nhắc câu chữ, rồi nói: “Bệ hạ, cổ nhân có câu, quá đám mê
một thứ gì đó sẽ mất hết chí khí, thần cảm thấy, bệ hạ đừng nên tham
luyến những thứ này mới tốt, tránh để kẻ khác lợi dụng.”
Nàng nói những câu này hoàn toàn là vì lo nghĩ cho bệ hạ mà thôi. Nhưng
bệ hạ thích cái nghiên mực này như thế, thậm chí đã ban thưởng cái
nghiên mực đó cho nàng rồi, nhưng vẫn cảm thấy ai oán khôn cùng, điều
này đối với thành tựu của một bậc đế vương, quả thực rất đáng lo ngại.
Nhưng Minh Trọng Mưu nghe thấy câu này, chỉ cảm thấy như bị một gáo nước lạnh dội từ trên đỉnh đầu xuống, thấm ướt lạnh luôn tim hắn, “…… Những
lời Thừa tướng nói rất đúng, quả thực không nên quá đam mê một thứ gì đó để mất hết chí khí, trẫm hiểu rồi.” Hắn khoát tay cho Tạ Lâm lui ra,
trên mặt bất giác cũng lộ ra vẻ mệt mỏi.
Tạ Lâm thấy sắc mặt hắn không ổn lắm, nên lúc sắp lui ra ngoài, liền
nói: “Bệ hạ nên chú ý nghỉ ngơi, hương sắc dịu dàng tuy rằng có lợi cho
xã tắc có lợi cho bệ hạ, nhưng sa đà thái quá, thì cũng giống như quá
đam mê một thứ gì đó để mất hết chí khí vậy, ngược lại sẽ thành bất lợi
với bệ hạ.”
“……” Minh Trọng Mưu mệt mỏi gật gật đầu, khoát khoát tay, lúc ấy Tạ Lâm mới lui ra.
Minh Trọng Mưu nhấc cái nghiên mực lên, nhìn nó dưới ánh nến.
Nghiên mực thường không có quá nhiều trang trí, chỉ có một khóm tre cành sau cao hơn cành trước, tuy rằng lay động theo từng cơn gió, nhưng
không bao giờ cong lưng, ngẩng cao đầu ngạo nghễ, sống động như thật.
Đây là chiếc nghiên mực hắn thích thứ hai, chiếc nghiên đầu tiên, trong
lúc nổi cáu, đã bị hắn ném về phía Tạ Lâm để trút giận, vỡ hỏng mất rồi.
Còn chiếc nghiên này, là năm sinh nhật mười tuổi, tiên đế đã ban tặng cho hắn.
Lúc ấy tiên đế vẫn chưa đăng cơ xưng vua, nhưng đã sớm có dự liệu về tiền đồ của Đại Sở rồi.
Hắn vẫn còn nhớ, lúc ấy tiên đế đã nói: “Thứ Đại Sở thiếu nhất, chính là những cây tre như vậy, nếu có thế nhìn thấy một người bản lĩnh như cây
tre, thì phải trọng dụng, Đại Sở hùng mạnh nhất định sẽ tiến lên phía
trước thêm trăm năm nữa.”
Đại Sở thiếu tre sao?
Rõ ràng Đại Sở đất rộng của nhiều, từ Bắc đến Nam, lãnh thổ rộng lớn
biết bao nhiêu, đặc biệt là phương Nam, tre nhiều không biết bao nhiêu
mà kể, lẽ nào lại thiếu?
Minh Trọng Mưu khi ấy tuổi còn nhỏ, nên không thể hiểu được lời của tiên đế.
Nhưng đến khi hắn gặp Tạ Lâm, hắn đột nhiên hiểu ra đạo lý về cây tre.
Hoặc giống như muốn xin lỗi, hoặc xuất phát từ một lý do nào đó, hắn
giống như lúc lên mười, tặng nghiên mực có hình cây tre cho Thừa tướng
của hắn. Hắn không chịu nói thẳng ra, nhưng hắn thầm nói với nàng rằng,
nàng chính là cây tre đó.
Đây là món quà đầu tiên Minh Trọng Mưu tặng cho Tạ Lâm.
Hắn đúng là một hoàng đế hà khắc, nếu đổi lại là tiên đế, e là đã ban
thưởng cho những trọng thần, lương thần của mình vô số bảo vật tặng phẩm rồi.
Đáng tiếc, lần đầu tiên hắn tặng quà lại bị trả lại.
Minh Trọng Mưu nắm chặt cái nghiên, ngây người thất thần.
“Trọng thần lương thần của Đại Sở ư?” Hắn vuốt ve đường vân phù điêu
trên chiếc nghiên, lầm bà lầm bẩm, “Rõ ràng là gian thần mà, phụ hoàng,
người nhìn nhầm rồi?”.
Rõ ràng là gian thần, tại sao sống lưng luôn thẳng tắp như vậy? Tại sao
khi mình nhìn hắn, lại luôn nghĩ đến bức phù điêu hình cây tre ấy? Tại
sao mỗi khi nhìn thấy hắn, lại nhớ đến lời của phụ hoàng năm nào?
Minh Trọng Mưu rời khỏi ngự thư phòng, đến mật đạo ở Lô Dương các.
Công bộ Thượng thư Nghiêm Liễu Phương chịu trách nhiệm tu sửa Lô Dương
các, lén bớt xén nguyên vật liệu, ăn chặn đút túi riêng, đã bị Minh
Trọng Mưu chém đầu.
Nhưng không chỉ như vậy, phía dưới Lô Dương các, có một căn hầm bí mật,
trong đó, có rất nhiều rất nhiều những điều bí mật không muốn cho người
khác biết. Vì muốn giữ kín những bí mật này, mà Minh Trọng Mưu đã chém
đầu Nghiêm Liễu Phương, kẻ biết quá nhiều, như vậy bí mật sẽ mãi mãi nằm im dưới đất.
Minh Trọng Mưu đi vào trong căn mật thất, nhìn quanh bốn phía.
Trong căn phòng này, có bản đồ cất giấu kho báu của Đại Sở, có yếu lược
quốc phòng của nước Di, có đủ các loại binh khí cổ quái hiếm có của tiền triều, đương triều, có rất nhiều thứ cơ mật của triều đình Đại Sở, ví
dụ như có một bí mật chôn vùi nhiều năm, rằng tại sao hoàng đế Vĩnh Lưu
lại vô sinh chẳng hạn.
Còn có cả một bức tranh.
Bức tranh này giống như là tiện tay vẽ bừa, bôi đen hết cả, một người có sở trường vẽ công bút lại sử dụng kỹ thuật vẽ tả ý để họa bức tranh này.
(Công bút là lối vẽ có từ xưa, trước hết vẽ
bằng bút nét mảnh hình vẽ rồi sau dùng màu tô lên, làm sao để càng giống thực tế càng tốt. Lối vẽ này tỉ mỉ, công phu, trau chuốt đến từng chi
tiết nhỏ.)
(Tả ý là lối vẽ chủ trương dùng hội họa để diễn tả tư tưởng, không phải
để truyền thần sự vật. Mọi vật được vẽ theo cái thấy bằng tâm tư của họa gia, thể hiện chính tâm hồn của tác giả. Bức tranh nói lên tâm tư, cảm
xúc, dao động, thái độ của chính con người. Lối vẽ này tương tự lối vẽ
biểu ý của Tây phương, trái ngược với lối vẽ công bút.)
Nhưng bôi đen loạn xạ thế này, khiến Minh Trọng Mưu không nhìn ra được ý đồ của người vẽ.
Bức họa này vốn dĩ là Tạ Lâm cho Úy Trì Chính, nhưng Minh Trọng Mưu đã âm thầm phái người lấy trộm về, tự tay treo nó ở đây.
Mỗi ngày hắn đều ngắm bức tranh này, rồi đoán xem, tại sao tác giả bức tranh lại vẽ như vậy.
Tối đen, hoàn toàn tối đen, rốt cuộc chỉ là tiện tay vẽ ra, hay là còn có ý đồ gì trong đó?
Minh Trọng Mưu chỉ có thể nhìn ra được cảm giác áp lực nặng nề rất khó dùng từ ngữ để miêu tả từ bức tranh mà thôi.
Mỗi lần nhìn thấy Tạ Lâm, hắn đều muốn hỏi, tại sao lại vẽ bức tranh như thế?
Rốt cuộc ngươi đang chịu những áp lực nặng nề gì?