Mọi người đánh lui bọn lính, vượt qua Cảnh Sơn, chạy như bay ra ngoại ô Bắc Kinh, đến lúc trăng lặng sao mờ, bóng đêm dần lui, họ đã lên đến Tây Sơn, nghỉ ngơi một hồi mọi người mới nhìn kỹ lại té ra Lữ Tứ Nương xách cái đầu của Hàn Trọng Sơn. Huyền Phong đạo trưởng chảy nước mắt, khóc không thành tiếng, Lữ Tứ Nương cũng im lặng rầu rĩ. Liễu Tiên Khai nói: “Thật đáng tiếc, tứ đệ đã chết. Tuy đã giết được tên này nhưng không đủ giải mối hận”. Lữ Tứ Nương nói: “Đáng tiếc tôi đến muộn một bước”. Đường Hiểu Lan càng thêm trách mình, nói: “Nếu chẳng phải tôi đã bị thương, Trần đại hiệp đã không dùng thân đẩy tấm sắt ngàn cân”. Lang Nguyệt thiền sư nói: “Nguyên Bá đã liều mình vì nghĩa, cũng không uổng danh hiệp khách. Chi bằng chúng ta hãy báo thù cho y”.
Té ra Trần Nguyên Bá tuy có sức mạnh trời sinh nhưng vì Hàn Trọng Sơn đè cái then xuống, cuối cùng chịu không nỗi, đã bị cánh cửa sắt sụp xuống đứt thành hai đoạn.
Đường Hiểu Lan nói: “Ung Chính thật nham hiểm độc ác, Trần đại hiệp hy sinh, Cam đại hiệp thì không biết sống chết ra sao, mối thù này không biết ngày nào mới trả được đây!” Lữ Tứ Nương nhìn lên trời hú dài một tiếng, rồi lại phát ra mấy mũi hưởng tiễn, Đường Hiểu Lan nhận ra đó là tín hiệu gọi đồng môn của Lữ Tứ Nương, hỏi: “Bạch Thái Quan ở đâu?” Lữ Tứ Nương nói: “Họ đều ở đây. Chiều ngày hôm qua thất ca đã thoát hiểm trở về, tuy bị thương không nhẹ nhưng chẳng hề chi”. Đường Hiểu Lan trong lúc đau đớn, nghe tin mừng, bất giác nhảy bật lên: “Có thật không?” Lữ Tứ Nương chỉ tay nói: “Đệ nhìn xem”. Chỉ thấy ở lưng chừng núi, có hai người đang bước lên, đó chính là Cam Phụng Trì và Bạch Thái Quan.
Mọi người gặp nhau, Đường Hiểu Lan mới biết té ra Cam Phụng Trì rất cảnh giác, ngày hôm ấy vừa bước chân vào Thưởng âm các đã biết có điều khác lạ, lập tức vận chưởng lực đánh vỡ một góc, dù như thế nhưng vẫn trúng mấy mũi tên, sau lưng còn trúng một chưởng của Ngạch Âm Hòa Bố.
Cam Phụng Trì nói: “Chưởng lực của Ngạch Âm Hòa Bố thật kinh khủng, tôi trúng một chưởng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, suýt nữa đã ngất, sau khi rơi xuống dòng Ngự Hà, gặp phải nước lạnh nên tỉnh trở lại. May mà không ai đuổi theo”. Ngư Xác nói: “Lúc đó chúng tôi đang hỗn chiến trong vườn”.
Cam Phụng Trì nói tiếp: “Tôi tinh thông thủy tính, nhưng lúc đó xương cốt rã rời, chẳng có sức bơi ra, may sao có mang theo Trường Bạch sâm, tôi nhai một cây sâm, nằm nấp trong đám lau sậy, vận khí hành huyết, tự trị thương cho mình. Một canh giờ sau khí lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục nhưng đã có thể bơi dưới nước”. Đường Hiểu Lan nói: “Ngự Hà thông ra ngoài hay sao? Dưới nước chả lẽ không có gì ngăn cản, đại hiệp làm sao bơi ra được?” Cam Phụng Trì nói: “May mà được một cung nữ chỉ đường”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên nói: “Một cung nữ làm sao có bản lĩnh xuống nước cứu huynh?”
Cam Phụng Trì cười nói: “Không phải nàng cứu tôi mà tôi cứu nàng. Nàng vốn chẳng có bản lĩnh gì cả, khi tôi phát hiện nàng đã sắp chết”. Đường Hiểu Lan ngạc nhiên hỏi: “Có nghĩa là sao?” Cam Phụng Trì nói: “Tôi vốn định lặng xuống nước, nhưng bơi ra đến bên ngoài thì thấy dưới nước có mười mấy lớp lưới sắt, tôi biết bên trong chắc chắn có chứa cơ quan, đang lo lắng chợt thấy một cái xác trôi tới. Tôi bơi qua nhìn, chỉ thấy đó là một nàng cung nữ lớn tuổi, tôi nghĩ nàng trượt chân ngã xuống nước, bởi vậy mới kéo nàng vào, thấy nàng vẫn còn ấm cho nên dùng thuật Thôi Cung Quá Huyệt giúp nàng hô hấp, khi lúc mới tỉnh dậy nàng còn tưởng tôi là thị vệ trong cung, cho nên hoảng quá xin tôi ban cho toàn mạng. Tôi nói rõ thân phận cho nàng biết, bảo nàng không cần sợ. Hỏi nàng tại sao rơi xuống nước, té ra nàng vào cung đã hơn hai mươi năm, chưa từng gặp qua Hoàng đế”. Huyền Phong nói: “Có chuyện đó nữa sao?” Cam Phụng Trì nói tiếp: “Cung nga này đã hơn bốn mươi tuổi, theo lệ cũ trong cung đình, lẽ ra đã được thả cho về, để nàng tự tìm người gá nghĩa, nhưng nàng không có tiền cho thái giám quản sự, chẳng ai để ý đến nàng, để nàng tự sinh tự diệt. Nàng đã lớn tuổi, thường bị bức hiếp, không chịu khổ nỗi nên nhảy xuống nước tự sát. Tôi lại hỏi có cách gì ra ngoài không, nàng chợt nhớ hai mươi năm trước khi còn trẻ tuổi xinh đẹp, rất thân thiết với một tiểu thái giám. Trong cung cũng có người chuyên quản lý Ngự Hà, tiểu thái giám chính là người coi sóc Ngự Hà. Nàng còn nhớ y đã cho nàng biết một chuyện, đó là trong Ngự Hà có một nơi cho nước bên ngoài vào, bên dưới có một chỗ khuyết, không có lưới sắt ngăn chặn, được đóng mở bằng cửa sắt, mỗi sáng cửa sắt mở một lần, họ thường chui qua nơi ấy ra ngoài cung, nhưng không biết giờ đây thế nào. Chúng tôi thử xem, tôi đưa nàng bơi về phía trước, nằm yên chờ đợi, đến thời khắc thì lặn xuống nước, quả nhiên tấm cửa sắt mở ra đúng giờ, chúng tôi dễ dàng thoát ra. Tôi nhân lúc sắc trời chưa sáng, đến nhà phú hộ đánh cắp một bộ quần áo, lại trộm một ít bạc cho nàng, để nàng tự chạy thoát. Chuyện sau này bát muội đều biết”.
Lữ Tứ Nương nói: “Sau đó thất ca đến tìm chúng tôi, y tuy bị thương nhẹ nhưng nguyên khí đã tổn thương, võ công chưa hồi phục, bởi vậy tôi kêu ngũ ca đưa y lên Tây Sơn, sau đó vào cung cứu các người”.
Phùng Lâm nghe thế, vỗ tay khen rằng: “Vậy chúng ta lại lẻn vào cung bằng đường ấy!” Lữ Tứ Nương lắc đầu: “Ung Chính rất lợi hại! Y đã phát hiện thất ca mất tích trong Ngự Hà, chắc chắn sẽ tra xét. Vả lại dù có lẻn được vào bên trong cũng không biết Ung Chính nấp ở đâu. Chúng ta lại không thể ở trong cung chờ đợi cơ hội, chỉ lẻn vào được một hai lần có ích gì!”
Phùng Lâm lẩm bẩm: “Không thể ở trong cung?” rồi reo lên: “Muội có cách!” Lữ Tứ Nương nói: “Muội có cách gì thế?” Phùng Lâm nói: “Thiên cơ không thể lộ, muội đã nghĩ được một cách, tỉ kề tai qua đây”. Lữ Tứ Nương nghe nàng thì thầm bên tai, lúc đầu thì hừ một tiếng, sau đó lại gật đầu: “Giỏi lắm!” Mọi người thấy nàng mỉm cười, đều ngạc nhiên.
Sau chuyện ấy, Ung Chính càng thêm lo lắng, nghe báo lại bọn người Lữ Tứ Nương đã xông ra khỏi thành nên mới yên lòng, có điều vẫn canh phòng cẩn mật hơn.
Nửa năm trôi qua, sóng yên gió lặng, Ung Chính thầm nhủ: “Chắc đám người này biết lợi hại không đến nữa. Trẫm thân là thiên tử, vì sợ thích khách nên không dám xuất hiện ở chỗ đông người, cả trong cung cũng không dám tự do đi lại, làm Hoàng đế như thế có ý nghĩa gì nữa”. Y thấy chẳng có việc gì xảy ra nên mới yên tâm, bắt đầu tự đi lại trong cung.
Theo lệ cũ của triều đình, cứ mỗi ba năm thay một tốp cung nga, nhận tốp mới bù vào tốp cũ, những cung nga mới được chọn vào cung gọi là tú nữ. Sau khi được chọn vào cung, tú nữ sẽ được chia cho các phi tần, gọi là cung nga, nếu Hoàng đế thấy hợp ý mới phong làm quý nhân, rồi được thăng làm quý phi, nhưng cung nga vô số, đâu phải ai cũng có thể gặp được Hoàng đế.
Một buổi tối nọ, Ung Chính rãnh rỗi chẳng có chuyện gì, nhớ lại ba tháng trước đã từng chọn một đám tú nữ, không biết trong đó có ai xinh đẹp hay không liền bảo nội giám đưa danh sách và hình vẽ của tú nữ lên cho mình xem, y chợt thấy có một tú nữ tướng mạo rất giống Phùng Lâm, giật thót mình, khi nhìn kỹ lại tên họ quê quán mới biết là con gái của một nhà bình thường ở Nam Xương, tên gọi là Lâm Chỉ, bất giác thầm cười: “Tú nữ được các châu huyện chọn lựa, lại được các khâm sai kiểm tra, cuối cùng mới được tổng quản nội vụ trong cung sát hạch mới được cho vào cung, làm sao có thể là giả! Quả là ả tú nữ này tuy giống Phùng Lâm nhưng làm sao bằng nàng?” Ung Chính ngồi trầm ngâm, nhớ lại chuyện năm xưa, bóng dáng yêu kiều của Phùng Lâm như hiện ra trước mắt, bất giác thở dài nói: “Một mỹ nhân xinh đẹp như thế, đáng tiếc đối chọi với trẫm”. Nhìn lại bức tranh vẽ nàng tú nữ tên gọi Lâm Chỉ, bên dưới có chú thích rằng: “Ban cho Lưu quý nhân Thúy Hoa cung sử dụng”. Ung Chính trầm ngâm một lúc, gấp bức tranh lại rồi bảo Cáp Bố Đà cùng mình đến cung Thúy Hoa.
Nơi ở của các quý phi được gọi là cấm uyển, thị vệ trong cung chỉ có thể canh bên ngoài, nếu không có lệnh của Hoàng đế không được vào trong. Ung Chính kêu Cáp Bố Đà đứng chờ mình bên ngoài, còn mình thì tự vào trong cung.
Cung Thúy Hoa được xây dựng sau khi Ung Chính lên ngôi, trong sân cây cối lưa thưa, còn có một hồ sen, lãnh cung trước đây nằm bên phải của Thúy Hoa cung, sau khi được cải tạo cũng xếp vào cung Thuý Hoa. Ung Chính chậm rãi bước tới, chỉ thấy ánh trăng mờ ảo, gió thổi hương sen tới, thơm đến tận gan ruột. Y bước đến gần hồ sen, chợt nghe có tiếng thở dài, chỉ thấy bên hồ sen có một bóng người mảnh khảnh. Ung Chính khẽ bước tới gần, hạ giọng hỏi: “Ngươi có phải là tú nữ mới vào hay không, tại sao thở dài?” ả cung nga quay đầu lại, Ung Chính giật mình, hỏi: “Ngươi có phải là Lâm Chỉ không?” so với bức tranh nàng đẹp hơn nhiều, nhưng vẫn không bằng Phùng Lâm, trên mặt còn có một nốt ruồi đen. Ung Chính thầm nhủ: “Quả nhiên là giống, nếu không có nốt ruồi này trẫm cứ tưởng nàng là Phùng Lâm”. Nàng tứ nữ đưa mắt nhìn lại, mỉm cười nói: “Nô tì chính là Lâm Chỉ, đã làm phiền Hoàng thượng bận lòng”. Nàng mỉm cười, bên má trái xuất hiện một lún đồng tiền.
Ung Chính giật mình, thoái lui hai bước rồi mới bước tới trước, đưa tay nắm tay nàng cười nói: “Nàng đúng là giống một người”. Té ra Ung Chính rất tinh tế, từ nhỏ Phùng Lâm lớn lên trong phủ của y, y để ý khi Phùng Lâm cười, bên má phải xuất hiện một lún đồng tiền, nhưng nàng tú nữ này lại có lún đồng tiền bên trái.
Tú nữ hỏi: “Giống ai?” khi Ung Chính đưa tay ra, nàng đột nhiên trở tay chụp cổ tay của y, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, tay phải của nàng điểm vào hai mắt của y. Chiêu này là Cầm Nã thủ phối hợp với thuật điểm huyệt.
May mà Ung Chính được Thiếu Lâm tam lão truyền võ công, sau khi làm Hoàng đế cũng cố gắng rèn luyện, cho nên trong lúc nguy ngập đã sử dụng chiêu thức cứu mạng của La Hán thần quyền, y rút cánh tay về phía sau rồi hụp người xuống tránh đòn, Ung Chính biến chiêu thật nhanh, nàng tú nữ ấy chụp không được, trái lại bị y kéo về phía trước hai bước, Ung Chính quát lớn, quyền trái đấm ra nhanh như sấm sét, không ngờ quyền phong nổi lên, bóng người đẹp mất dạng. Khinh công của nàng thiếu nữ đã lên đến mức lưu hỏa thuần thanh, nhân lúc quyền phong nổi lên, nàng đã lướt người ra, người đang ở trên không trung thì kiếm đã rút ra khỏi vỏ, từ trên không trung vẫy ra một đóa kiếm hoa đâm xuống. Ung Chính la lớn: “Cáp Bố Đà mau cứu giá!” rồi thi triển quyền cước, vừa đánh vừa lui, chỉ trong chớp mắt đã tránh được ba chiêu, kiếm pháp của nàng tú nữ lợi hại lạ thường, trong vòng mấy chiêu chưa đắc thủ nhưng kiếm quang cứ loang loáng tựa như tiên nữ rãi hoa, hoàn toàn chặn đường rút lui của Ung Chính.
Nàng tú nữ này chính là Phùng Anh, nàng và Phùng Lâm, Lữ Tứ Nương giả mạo làm tú nữ lẻn vào cung. Té ra sau lần đại náo hoàng cung, Phùng Lâm nghe Cam Phụng Trì kể chuyện nàng cung nữ nhảy xuống nước tự sát, nàng chợt nghĩ ra một diệu kế. Cứ ba năm chọn tú nữ một lần, năm nay chính là lúc chọn lựa, nhà có con gái không luận giàu nghèo đều tìm cách trốn tránh, hoặc lập tức gả chồng hay mua chuộc quan lại đã nhờ người mạo danh thay thế. Bọn Lữ Tứ Nương giả thành con gái nhà nghèo, ngồi đợi chọn lựa, với nhan sắc của họ, đương nhiên được chọn ngay.
Họ lại dùng thuật dị dung thay đổi gương mặt của mình, vào cung lại cố ý mua chuộc họa sư, nhờ họa sư đừng vẽ họ quá giống với mặt thật. Ung Chính đang lo sợ bị ám sát nên họ vào cung cả ba tháng mà cũng chưa gặp Hoàng đế. Không ngờ hôm nay thần sai quỷ khiến, Ung Chính tự dẫn xác đến cung Thúy Hoa gặp phải Phùng Anh.
Cáp Bố Đà đứng bên ngoài nghe Ung Chính kêu cứu, lật đật nhảy qua tường chạy vào cứu giá, chợt thấy có một bóng người lướt tới, té ra đó là một cung nga. Y định ném chùy Lưu Tinh ra, chợt nghe tiếng u u vang lên, ả cung nga vung tay, một luồng ô quang bay xẹt tới. Đó chính là Đoạt Mệnh thần đao của Phùng Lâm.
Cáp Bố Đà lách người, hai chùy múa tiếp đánh rơi hai mũi phi đao.
Nhưng tuy là vậy, đà lao tới của y đã bị chặn lại. Phùng Lâm lập tức rút kiếm đâm vào cổ họng của y. Cáp Bố Đà xoay người như cơn gió lốc, hai chùy đánh ra liên hoàn, nhưng không ngờ thân pháp của Phùng Lâm lanh lẹ lạ thường, chỉ thấy nàng xoay người theo kiếm, rồi hụp người xuống lướt qua hai trùy, đâm xoạt xoạt hai kiếm vào bụng của y. Cáp Bố Đà cả kinh, không ngờ võ công của Phùng Lâm lại tiến bộ nhanh đến thế, thế là tay trái quét chùy trên không trung đánh ra một chiêu Tuyết Hoa Cái Đỉnh, tay phải quét xuống đất đánh ra một chiêu Khô Thụ Bàn Căn, bảo vệ toàn thân. Kiếm pháp của Phùng Lâm tuy tiến bộ nhiều nhưng công lực rốt cuộc chẳng bằng y, bởi vậy chẳng áp sát tới được.
Nhưng Cáp Bố Đà bị nàng chặn lại, trong nhất thời cũng không thoát ra được. Chỉ nghe Ung Chính liên tục kêu cứu, đã nghe văng vẳng tiếng kiếm phong. Cáp Bố Đà nôn nóng, múa hai cây trùy, đột nhiên ném chùy trái ra đánh vù một tiếng, Phùng Lâm vội vàng lách người thoái lui, Cáp Bố Đà lấy ra hai trái cầu tròn đen thui phóng lên không trung, phát ra tiếng kêu quái dị, Phùng Lâm biết đó là tín hiệu gọi bọn Huyết Trích Tử, liệu rằng Phùng Anh chắc chắn đã gặp phải Hoàng đế, nếu không Cáp Bố Đà không nôn nóng như thế, vì thế không đợi Cáp Bố Đà xông lên đã lập tức chạy về phía nơi Ung Chính kêu.
Khinh công của Cáp Bố Đà không bằng Phùng Lâm, trong lúc vội vàng đã phóng ra hai cái Huyết Trích Tử, Phùng Lâm không thèm quay đầu, trở tay phóng ra hai mũi phi đao đánh rơi Huyết Trích Tử. Đang lúc đắc ý, chợt nghe tiếng cười ha hả, một bóng người từ trên cây nhảy xuống, chợt thấy đó là một Phiên tăng mặc áo cà sa màu đỏ, người đó chẳng phải ai khác mà chính là Ngạch Âm Hòa Bố, y phất ống tay áo đánh lui Phùng Lâm ba bước. Cáp Bố Đà cả mừng, kêu: “Đây là người Hoàng thượng cần bắt, đừng buông tha cho ả”. Y biết võ công của Ngạch Âm Hòa Bố cao cường, Phùng Lâm không thể thoát khỏi tay y nên một mình đi cứu Ung Chính.
Nhưng nào ngờ võ công của Phùng Lâm tuy không bằng Ngạch Âm Hòa Bố nhung nàng thông hiểu các loại võ công tà phái, nàng biết yếu huyệt của y, Ngạch Âm Hòa Bố liên tục tấn công ba chiêu, nàng đều né tránh, cây bảo kiếm đâm ra liên tục, bên trên đâm vào huyệt Ly Hỏa, bên dưới đâm vào huyệt Khảm Thủy, Ngạch Âm Hòa Bố kiên dè nên trong nhất thời chẳng làm gì được nàng. Nhưng võ công của Phùng Lâm dẫu sao cũng kém y, tuy thông hiểu phương pháp đánh huyệt của Hồng giáo Tây Tạng nhưng cũng không thể tiến tới gần.
Trong cung Thúy Hoa, cây kiếm của Phùng Anh tựa như con ngân xà chặn Ung Chính, kiếm này hết kiếm khác tựa như cứ gâm Ung Chính lên vách tường. Cáp Bố Đà phóng tới, quét cái chùy Lưu Tinh đánh keng một tiếng, trúng vào thanh kiếm của Phùng Anh, lửa bắn ra tung tóe. Cái độc chùy của Cáp Bố Đà bị chém làm đôi, nhưng Phùng Anh cũng thoái lui ba bước. Cáp Bố Đà liều mình múa chùy đánh tới, lúc này võ công của Phùng Anh chẳng kém gì Cáp Bố Đà, khinh công lại trên y, nhưng nàng muốn lấy mạng Ung Chính nên không rảnh giằng co với y, mũi kiếm chuyển qua đánh hờ một chiêu, đột nhiên nàng lướt người lên, Cáp Bố Đà quét tới một trùy, thấy người nàng lơ lửng trên không trung chân đạp vào chùy nhẹ như lá liễu, mượn lực phản kích của trái chùy lướt lên không trung, kiếm quang từ trên đâm thẳng xuống đầu Ung Chính.
Ung Chính lộn xuống đất một vòng, Phùng Anh lướt người tới, đâm ra xoạt xoạt hai kiếm. Nhưng Ung Chính cũng chẳng phải tay vừa, y né tránh đòn tấn công từ trên không đánh xuống của Phùng Anh, lập tức vung quyền phản công, Cáp Bố Đà quát lớn vung chùy đánh lên, chặn đường của Phùng Anh. Phùng Anh một mình địch hai, uy lực giảm xuống, Ung Chính cười ha hả định nhảy ra, Phùng Anh cười lạnh nói: “Ngươi còn muốn chạy? Nhìn xem ai đến đây!” Ung Chính dõng tai lắng nghe, bên ngoài có tiếng người ồn ào, trong tiếng người có tiếng hú dài, đó là tiếng hú của Thiên Diệp Tản Nhân, Ung Chính cười lớn: “Là người của trẫm, ngươi buông kiếm quy thuận, trẫm sẽ tha chết cho ngươi, nói không chừng sẽ phong ngươi làm quý nhân”. Phùng Anh lại cười lạnh: “Ngươi đúng là chết đến nơi mà không biết. Ngươi hãy nhìn xem người đó có phải là thị vệ của ngươi không?” trong đám cây um tùm, chợt phát ra một tiếng hú dài, một thiếu nữ áo trắng lướt xuống tựa như cưỡi gió, Ung Chính vừa nhìn đã hồn bay phách tán.
Té ra người đó chính là Lữ Tứ Nương. Lữ Tứ Nương rút kiếm ra khỏi bao, chặn đường Ung Chính, ngẩng mặt cười lớn nói: “Cha, hôm nay con gái báo thù cho cha đây!” tiếng cười nghe rất thê lương, Ung Chính thấy dựng cả tóc gáy, Cáp Bố Đà sợ đến nỗi luống cuống chân tay. Phùng Anh cầm kiếm bước dấn tới từng bước, Cáp Bố Đà cầm đồng chùy đứng bên cạnh Ung Chính, người cứ run bần bật, còn Ung Chính thì đứng sững sờ, lòng nghĩ cách thoát thân, khinh công của Lữ Tứ Nương cao hơn y rất nhiều, nếu y mạo hiểm bỏ chạy sẽ càng chết nhanh hơn.
Lữ Tứ Nương cầm kiếm bước dấn tới từng bước, Phùng Anh cũng kiếm ngưng thần, giúp Lữ Tứ Nương chặn đường rút lui của Ung Chính. Chợt nghe Ngạch Âm Hòa Bố nói: “Lữ Tứ Nương khoan ra tay, ngươi nhìn đây là ai?” Phùng Anh kinh hãi kêu lên một tiếng, nhưng Ngạch Âm Hòa Bố đã bắt Phùng Lâm, lúc này nàng hai tay xụi lơ, đầu gục trên vai kẻ địch, hai mắt nhắm tịt, tựa như đã bị Ngạch Âm Hòa Bố điểm trúng huyệt đạo.
Lữ Tứ Nương thở dài một tiếng, mấy tháng qua nàng đã nhẫn nhục làm ả tì nữ chờ đợi cơ hội này, khi sắp trả được nợ nước thù nhà, nào ngờ Ngạch Âm Hòa Bố đã chiếm trước tiên cơ, bắt Phùng Lâm làm con tin.
Ung Chính cười lạnh nói: “Lữ Tứ Nương nhà ngươi muốn gì? Có còn muốn phân cao thấp với trẫm nữa không?” Lữ Tứ Nương chĩa mũi kiếm xuống, tức giận nói: “Thả người của ta, ta tha chết cho ngươi”. Ung Chính nói: “Được, Ngạch Âm Hòa Bố, ngươi đưa bọn chúng ra khỏi cung. Ha ha, Lữ Tứ Nương, trẫm không thể chiều theo!” rồi nháy mắt với Cáp Bố Đà, phất ống tay áo đang định dậm bước, Phùng Anh chợt kêu: “Khoan đã!” Ung Chính liếc mắt nhìn nàng, cười nói: “Ngươi còn muốn gì? Trẫm biết các ngươi là tỉ muội, ngươi không muốn giữ mạng cho muội muội của ngươi sao?” Phùng Anh nói: “Các ngươi quỷ kế đa đoan, ta không tin, ta phải xem trước muội muội của ta có phải đã trúng độc thủ hay không. Lữ tỉ tỉ, hãy trông chừng tên cẩu hoàng đế này”. Ung Chính nói: “Được, ngươi cứ việc xem”. Phùng Anh chậm rãi bước từng bước về phía Ngạch Âm Hòa Bố, Ngạch Âm Hòa Bố cười lớn: “Ngươi có phải là đệ tử của Dịch Lan Châu hay không, chả lẽ không biết cả thuật điểm huyệt? Ả đâu có bị thương gì!” Phùng Anh tới trước mặt Phùng Lâm, Phùng Anh chợt quát lớn một tiếng chưởng kiếm đều đẩy ra!
Điều đó khiến ai nấy đều bất ngờ, Lữ Tứ Nương muốn lướt tới chặn cũng không kịp. Chỉ thấy Ngạch Âm Hòa Bố giở Phùng Lâm chặn lên phía trước, một luồng thanh quang từ cổ Phùng Lâm đâm xuyên qua, tiếp theo bốp một tiếng, một chưởng đã vỗ lên người Phùng Lâm. Lữ Tứ Nương kêu lên lạc giọng, chợt nghe Ngạch Âm Hòa Bố gầm lớn một tiếng, người Phùng Lâm bay lên không trung như một mũi tên, nhát kiếm của Phùng Anh đã đâm xuyên qua cổ họng của Ngạch Âm Hòa Bố, lập tức máu tuôn thành vòi. Ngạch Âm Hòa Bố giẫy giụa mấy cái rồi té xuống hồ sen.
Té ra Phùng Lâm thông hiểu các thủ pháp điểm huyệt của Hồng giáo Tây Tạng, vì đối phó với Ngạch Âm Hòa Bố cho nên hai tỉ muội đã luyện tập trước, Phùng Anh vừa nhìn thì biết ngay bảy huyệt Nhuyễn Ma của Phùng Lâm đã bị Ngạch Âm Hòa Bố điểm trúng, muốn giải huyệt không khó nhưng Phùng Lâm đang ở trong tay của một người võ công cao cường, muốn giải từng huyệt cho nàng không phải chuyện dễ. Phùng Anh vốn không dám mạo hiểm, nhưng vì nghĩ đến nợ nước thù nhà, khó khăn lắm mới có được cơ hội tốt thế này, nếu bị y kiềm chế há chẳng phải công cốc hay sao? Trong Thiên Sơn kiếm pháp có một chiêu gọi là Thất Tinh Tụ Hội, có thể trong chớp mắt liên tục đâm vào bảy huyệt đạo, nhưng như thế cần phải có nội công thượng thừa nhất, có thể dồn chân lực nội gia vào mũi kiếm, khi gặp cơ hội là có thể ra tay. Hai năm qua Phùng Anh khổ luyện ở Thiên Sơn, chiêu này cũng đạt được bảy thành hỏa hầu. Trong lúc cực kỳ nguy hiểm, nàng không còn thời gian nghĩ ngợi, lập tức biến thủ pháp dùng mũi kiếm đâm huyệt thành phương pháp dùng ngón tay giải huyệt, kiếm chiêu vẫn là chiêu số trong chùy phong kiếm pháp. Ngạch Âm Hòa Bố không ngờ Phùng Anh dám mạo hiểm như thế, trong lúc luống cuống đã giơ Phùng Lâm lên đỡ, thế là mắc lừa Phùng Anh, nhát kiếm của Phùng Anh tựa như gió, trong khoảnh khắc như chớp mắt, đã lướt qua cổ của Phùng Lâm, đâm thẳng vào hai mắt của Ngạch Âm Hòa Bố, đang lúc kịch biến xảy ra, Ngạch Âm Hòa Bố cúi đầu xuống, dùng hai tay dẫn vào thân kiếm đẩy bảo kiếm của Phùng Anh ra ngoài; nhưng vì đối phó với đòn đột kích của Phùng Anh, ánh mắt của Ngạch Âm Hòa Bố đã bị che lại, trong khoảnh khắc điện chớp lửa sẹt ấy, Phùng Anh đã giải huyệt đạo cho Phùng Lâm. Phùng Lâm vừa được giải huyệt đạo, võ công đã được hồi phục. Nàng vốn gục đầu trên vai của Ngạch Âm Hòa Bố, hai tay buông xuôi xuống, nơi ngón tay chạm phải chính là huyệt Khảm Thủy Ly Hỏa của Ngạch Âm Hòa Bố, nàng lập tức thừa cơ điểm vào, phá khí công của Ngạch Âm Hòa Bố rồi phóng lướt người lên. Phùng Anh bồi thêm một kiếm, thế là đệ nhất cao thủ của Hồng giáo Tây Tạng hồn lìa khỏi xác.
Ung Chính thấy Phùng Anh tấn công bất ngờ, Lữ Tứ Nương kêu hoảng, lập tức phóng người vọt đi. Không ngờ Phùng Lâm hạ xuống trước mặt Ung Chính, thừa thế đẩy ra hai chưởng. Ung Chính trầm vai xuống lách người qua, Phùng Lâm chưa kịp ra tay y đã thừa thế vặn cánh tay nàng, định bắt nàng làm con tin như Ngạch Âm Hòa Bố, chợt nghe một tiếng kêu thảm vang lên, nghĩ bụng chắc là Cáp Bố Đà đã chết dưới kiếm của Lữ Tứ Nương, y run lên bần bật, chỉ cảm thấy gió lạnh lướt tới, ánh ngân quang lóe lên, Lữ Tứ Nương đã lướt tới trước mặt, Ung Chính buông tay Phùng Lâm, định xuất chiêu tấn công, nhưng nào kịp nữa, Lữ Tứ Nương đã ra tay nhanh như điện chớp, chụp trúng mạch môn của y, khiến y chẳng thể động đậy nỗi, ngay lúc này, bọn thị vệ bên ngoài cung Thúy Hoa đã chạy vào, kẻ đi đầu là Thiên Diệp Tản Nhân.
Lữ Tứ Nương bắt được Hoàng đế, lớn giọng quát: “Tên bạo quân này đáng cho các ngươi bán mạng sao? Niên Canh Nghiêu có kết cuộc như thế nào? Vậy những kẻ bên cạnh y có được mấy kẻ thoát chết? Chả lẽ các ngươi không biết những điều này sao? Khi y còn sống, các ngươi có thể sẽ sợ y, nhưng nay y đã sắp đầu rơi khỏi cổ, chết chẳng nhắm mắt, chẳng thể làm oai làm phúc được nữa, các ngươi cần gì phải chịu chết vì y?”
Lữ Tứ Nương nói xong, ngửa mặt cười lớn: “Gia gia, cha, tất cả những chiến sĩ chết vì tên hung quân này, hôm nay Lữ oánh trả thù cho các người!” rồi kiếm quang lia lên, cắt phăng đầu của Ung Chính, Thiên Diệp Tản Nhân kêu hoảng định chạy tới, Lữ Tứ Nương đã gằng giọng nói: “Ai muốn chôn cùng tên hung quân này, xin mời đến thử kiếm! Hừ, Thiên Diệp Tản Nhân, ngươi là tông chủ của một phái nhưng tham công danh phú quý, bán mạng cho hung quân, không biết hỗ thẹn hay sao? Nghĩ tình ngươi bình sinh chẳng làm điều chi đại ác, hãy về núi mau, ta tha chết cho ngươi. Nếu ngươi muốn động thủ, hãy xem thử võ công có bằng Ngạch Âm Hòa Bố và Cáp Bố Đà hay không!”
Thiên Diệp Tản Nhân chùn bước, có mười tên Huyết Trích Tử không biết sống chết phóng ra ám khí, mười trái cầu bay tới, Phùng Lâm kêu: “Giỏi lắm!” rồi vung tay phát ra mười hai mũi phi đao đánh rơi hết số Huyết Trích Tử. Mỗi trán Huyết Trích Tử đều có mười hai mũi phi đao, lúc này phi đao đã bay ra như mưa. Lữ Tứ Nương cười lạnh, lướt người lên phóng vào màng mưa phi đao, chỉ trong chớp mắt đã chụp được mười mấy mũi trủy thủ bắn ngược trở về, khi nàng lướt người lên rồi hạ xuống đất, đã liên tục phóng ra mười mấy mũi phi đao, giết chết toàn bộ bọn Huyết Trích Tử. Bọn thị vệ ù té chạy ra, Thiên Diệp Tản Nhân cũng chạy mất dạng. Lữ Tứ Nương cưới lớn rồi cùng Phùng Anh và Phùng Lâm phóng lên mái ngói chạy ra ngoài cung. Lúc này trời đã sắp sáng.
Mười ngày sau, ở miền Sơn Đông có xuất hiện bốn người nam và ba người nữ, ba người nữ chính là tam nữ hiệp danh chấn giang hồ Lữ Tứ Nương, Phùng Anh, Phùng Lâm. Bốn người nam là Cam Phụng Trì, Thẩm Tại Khoan, Đường Hiểu Lan và Lý Trị. Sau khi ba nữ hiệp giết chết Ung Chính, quần hùng tụ tập trên Bát Đạt Lĩnh đợi tin tức, khi Lữ Tứ Nương thành công trở về mới tản đi. Trong đó Quan Đông tam hiệp ra quan ngoại, cha con Ngư Xác và Bạch Thái Quan dong buồm ra biển, Lộ Dân Đảm cùng Lý Minh Châu quy ẩn điền viên, Lữ Tứ Nương và Cam Phụng Trì trở về Mang Sơn, nhưng Đường Hiểu Lan vẫn chưa hết tâm sự, đến Sơn Đông, định rằng sau khi tế mộ Dương Trọng Anh sẽ trở về Thiên Sơn. Lữ Tứ Nương và chàng tình như tỉ đệ, khi lúc chia tay cũng không nỡ rời nên mới cùng chàng đi một chuyến.
Lúc này đang là tháng chín mùa thu trời mát mẻ, bao nhiêu chuyện ân thù đã giải quyết xong, cả bọn đang phóng ngựa lao về phía trước, không biết từ lúc nào Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan đã lọt ở phía sau.
Đường Hiểu Lan và Cam Phụng Trì quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan chậm rãi dong ngựa đi bên nhau trông rất âu yếm. Cam Phụng Trì mỉm cười, bảo mọi người kiềm cương ngựa đi chậm lại.
Thẩm Tại Khoan chờ đợi mười năm, lúc này đang lòng hoa nở rộ, mừng đến nỗi chẳng biết nói gì. Lữ Tứ Nương nhoẽn miệng cười, khẽ nói: “Huynh đang nghĩ gì thế?” Thẩm Tại Khoan nói: “Huynh thấy giờ đây mình thật hạnh phúc”. Lữ Tứ Nương bật cười, trông nàng rạng rỡ như hoa mùa xuân, Thẩm Tại Khoan nhìn mà ngất ngây.
Đường Hiểu Lan thấy Lữ Tứ Nương và Thẩm Tại Khoan âu yếm nhau, nghĩ đến chuyện tình cảm của mình, bất giác đau lòng. Chàng vốn yêu Phùng Anh, nhưng vì có chuyện Dương Liễu Thanh nên chẳng dám tiến thêm. Phùng Anh hồn nhiên vô tư, tuy không nghĩ đến tình nam nữ thế tục nhưng thấy chàng như thế cũng rất lo.
Lữ Tứ Nương thúc ngựa lên phía trước cười nói: “Tiểu đệ, đệ đang nghĩ gì thế?” Đường Hiểu Lan nói: “Không, đệ chỉ nghĩ đến tình nghiệt lúc trước”. Lữ Tứ Nương nói: “Chuyện gì đã qua thì cứ cho nó qua. Người chết không thể sống lại, sao đệ phải phụ một tấm lòng?” Đường Hiểu Lan nói: “Tình duyên này đã trôi theo dòng nước, làm sao nhìn người mới mà nhớ người cũ? Đệ và Dương Liễu Thanh tuy không có chân tình nhưng nàng vì đệ mà chết, đệ làm sao có thể quên nàng? E rằng suốt đời khó trút bỏ được tâm sự này. Nếu cứ như thế mà đệ đến với Phùng Anh, chẳng phải đệ có lỗi với nàng sao?” Lữ Tứ Nương thở dài, tâm bệnh khó trị, đúng là không lời nào có thể giải nỗi.
Cam Phụng Trì ho một tiếng, chỉ ra nói: “Nhìn xem, chúng ta đi thật mau, đã sắp tới Dương gia trang!” mọi người nhìn chỉ thấy trên con dốc nhỏ, có tòa nhà ẩn hiện dưới rặng liễu, cảnh vật vẫn như năm xưa, có điều cha con Dương Trọng Anh đã không còn nữa.
Đường Hiểu Lan thấy sóng mũi cay cay, cùng mọi người buộc ngựa rồi lên sườn núi, chỉ thấy dưới chân núi có một cái hồ nhỏ, nước hồ phẳng lặng nhưng cảnh Dương Liễu Thanh bị lũ cuốn xuống hồ như hiện ra trước mắt chàng. Cam Phụng Trì kêu ồ một tiếng, nói: “Trước cửa trông rất sạch sẽ, chả lẽ bên trong có người?” Phùng Anh cũng lấy làm lạ, kéo Đường Hiểu Lan nói: “Vào xem thử ai đã quét dọn nơi này?” Đường Hiểu Lan lau nước mắt, lặng lẽ đẩy cửa, chợt thấy có một thiếu phụ bước ra, Đường Hiểu Lan bất giác mặt biến sắc.
Thiếu phụ này chính là Dương Liễu Thanh, nàng vừa gặp Đường Hiểu Lan cũng không khỏi đổi sắc mặt, cả hai người đứng ngẩng ra, vừa kinh vừa mừng, rất lâu sau mới nói nên lời. Dương Liễu Thanh chợt mỉm cười nói: “Hơn ba năm không gặp, huynh khỏe chứ! Còn Phùng Anh cũng cao thế nay rồi ư!” rồi bước tới nắm tay Phùng Anh, thần thái trông vừa phóng khoáng vừa thân mật. Đường Hiểu Lan không khỏi ngạc nhiên, chẳng ngờ nàng đã hoàn toàn thay đổi! Phùng Anh mừng rỡ nói: “Cô cô, ngày hôm ấy cô cô bị nước lũ cuốn đi thật khiến chúng tôi lo lắng, giờ đã tốt rồi, các người...” Phùng Anh thấy Dương Liễu Thanh còn sống, trong lòng thực sự vui mừng, lúc này nàng hoàn toàn gác tình riêng sang một bên, đang muốn chúc mừng nàng và Dương Liễu Thanh gặp lại nhau, nhưng không biết mở lời thế nào, mặt đỏ ửng, Dương Liễu Thanh chợt cười nói: “Hiểu Lan, ở đây còn có một người bằng hữu của huynh”. Rồi cao giọng nói: “Tích Cửu, hài nhi hãy ra đây!” có người bước ra, đó chính là trâu Tích Cửu, người đã cầu hôn Dương Liễu Thanh năm xưa, y đang bế một đứa bé gái khoảng hai tuổi.
Té ra cái hồ ở phía sau nhà Dương Liễu Thanh thông ra sông Lạc ở bên ngoài, ngày hôm ấy Dương Liễu Thanh bị nước lũ cuốn đi đẩy ra sông Lạc, chính là lúc Tháp Dực Thần Sư Châu Minh cao và con trai của ông ta Trâu Tích Cửu vì nghe tin Dương Trọng Anh bị tàn phế nên chèo thuyền đến thăm, nhờ thế cứu được nàng,
Lần đó Dương Liễu Thanh bị trọng thương, đến khi khỏi bệnh, Đường Hiểu Lan và Phùng Anh đã trở lại Thiên Sơn.
Bao nhiêu năm qua, Trâu Tích Cửu vẫn giữ mãi hình bóng Dương Liễu Thanh trong lòng, bởi vậy y chăm sóc nàng rất tận tâm. Dương Liễu Thanh ngẫm nghĩ thấy trước giờ mình chỉ yêu đơn phương chứ Đường Hiểu Lan nào có tình ý gì với mình. Lâu ngày, nàng và Trâu Tích Cửu nảy sinh tình cảm.
Đường Hiểu Lan không ngờ mọi chuyện đã thay đổi, mối gút mắc trong lòng đã tháo gỡ, chàng nắm tay Trâu Tích Cửu, chân thành chúc mừng cho họ.
Mọi người ở nhà họ Dương vài ngày rồi ai đi đường nấy. Phùng Anh, Phùng Lâm, Lý Trị và Đường Hiểu Lan trở lại Thiên Sơn, Lữ Tứ Nương cùng Thẩm Tại Khoan lên Mang Sơn ẩn cư, rèn võ luyện văn, hưởng hạnh phúc nhân gian. Cam Phụng Trì trở thành một bậc tôn sư võ học, truyền dạy nhiều đệ tử. Giang hồ tam nữ hiệp tuy trải nhiều cam go trắc trở nhưng cuối cùng đều có kết cuộc tốt. Chính là:
“Tự thủy nhu tình, như hoa mỹ quyến, thiên thu giai thoại nhân tranh tiễn, y nhân yến tử hựu quy lai, thương tang biến liễu, nan nhân biến.
Liễu tự khinh phiêu, xuân phong phất diện, từ tiên bất tả Văn Quân oán, Giang Nam Tái Ngoại nhất ban đồng, bích ba thâm xứ uyên ương kiến”.
Tạm dịch:
“Tình này như nước, nghĩa như hoa, giai thoại ngàn năm người thèm nghe, theo người chim én bay về tổ, bãi bể nương dâu lòng chẳng thay.
Tơ liễu đưa nhẹ, gió xuân vờn, lời từ khôn tả Văn Quân oán, Giang Nam Tái Ngoại khác gì nhau, non xanh nước biếc uyên ương đùa”
---- Theo điệu “Đạp sa hành”