Mùa thu vàng tháng mười, khí hậu khô ráo dễ chịu, mặc dù trong gió nhẹ thổi vào mặt đã mang theo một chút cái lạnh, khi vô tình phất qua khuôn mặt non mềm, sẽ làm gò má đỏ bừng kiều diễm, nhưng cái se lạnh đó không thôi đi được nhiệt hỏa trong lòng nhân dân, trên mặt đất vừa mới thu hoạch, khắp nơi đều là bóng người bận rộn, bọn họ tranh thủ từng giây từng phủ, đem tổn thất mang tới bởi chiến loạn bù đắp trở lại.
Xe ngựa sức chứa rộng rãi tốc độ đều đều đi trên đất đai bắc La Ni Tây Á, con đường mà nó đi qua, đang được vô số nhân dân lao dộng mở rộng, cư dân và di dân hai bên đường đều là do chính phủ địa phương tổ chức nên, sửa sang giao thông then chốt, thỉnh thoảng truyền tới tiếng thuốc nổ phát nổ, có thuốc nổ chất lượng cao, công tác phá núi đào đường nhẹ nhàng hơn nhiều, tốc độ thi công đường xá cũng tăng vọt.
Công nhân làm đường đều hiếu kỳ dò xét đội xe đang đi lên, mang theo ánh mắt kính úy nhìn vân viên cảnh vệ xung quanh đội xe, bọn họ không biết trong đội xe có nhân vật nào, nhưng ít nhất thân phận không thấp, bởi vì địa phương đội xe đi qua đều bố trí cảnh giới hết sức nghiêm mặt.
“Phong, trên cả đường đi tựa hồ càng đều có chút tâm tình nặng nề đó.” Trong khoang một cỗ xe ngựa nào đó, Khắc Lệ Tô Na lớn gan xưng hô với Dương Túc Phong giống như các tỷ muội khác, chẳng để ý thân phận đặc thù của mình. Trong mấy ngày vừa qua, cái tên của nàng và Dương Túc Phong đã liên hệ chặt chẽ với nhau, thậm chí ngay cả phụ mẫu của nàng cũng ngầm chấp nhận chuyện này, mặc cho cha mẹ nàng vì sự xuất hiện của Dương Túc Phong mà mất đi quyền lực vốn có.
“Không có gì.” Dương Túc Phong bình thản nói, vẫn cúi đầu xem văn kiện các nơi đưa tới.
“Những chuyện này, sao chàng biết được?” Khắc Lệ Tô Na cảm thấy hết sức hiếu kỳ với quền sách nhỏ trước này chưa từng rời khỏi người Dương Túc Phong, bởi vì bên trong đó tri thức có thể nói là hoàn toàn mở rộng tầm mắt của nàng, làm cho nàng từ tận đáy lòng không thể không sinh ra sự bội phục với Dương Túc Phong, trên quyển sách này rất nhiều thứ đều là chưa từng nghe thấy, nhưng Dương Túc Phong lại tựa hồ lại hiểu rõ những danh từ cổ quái đó như lòng bàn tay.
“Xã hội nhân loại chính là phát triển như thế đó.” Dương Túc Phong không muốn giải thích sâu thêm, cũng không thể giải thích rõ ràng, nhưng lại làm cho Khắc Lệ Tô Na càng thêm hoài nghi, thậm chí hoài nghi y rốt cuộc có phải thần tiên hạ phàm hay không, tới khi Dương Túc Phong khóc cười không xong phủ nhận hơn năm lần, nàng mới nửa tin ngửa ngờ không hỏi nữa, nhưng trong lòng nàng gần như đã nhận định là thế.
“Nhưng lúa nước tạp giao, cái danh từ này e là chính chàng phát minh ra chứ?” Khắc Lệ Tô Na vẫn bám sát không buông hỏi.
Xa đội mỗi khi qua một địa phương, Dương Túc Phong đều muốn cùng quan viện địa phương tìm hiều tình hình cẩn thận, tìm hiều tình hình chính trị kinh tế cùng với sinh hoạt nhân dân nơi đó, chuyến đi này của y, đem sản xuất nông nghiệp trở thành mục tiêu thị sát chủ yếu, trừ hỏi han quan viên và cấp kỹ thuật viên chỉ đạo toàn vẹn ra, Dương Túc Phong thậm chí còn tự mình đi tới ruộng cùng lão bách tính canh tác truyện trò, tìm hiểu tình hình thực tế của họ, đồng thời đưa ra một số kết luận có sức thuyết phục.
Cho tới tận bây giờ, sản lượng lương thực của địa khu Mỹ Ni Tư thủy chung không đủ, mang đến những rắc rối tương đối lớn cho nhân dân địa khu Mỹ Ni Tư. Trừ địa khu cá biệt, đại bộ phận cư dân Mỹ Ni Tư rất ít cơ hội được ăn no, đây là hạn chế của hoàn cảnh tự nhiên ở địa khu Mỹ Ni Tư. Cả địa khu Mỹ Ni Tư, tài nguyên khoáng sản đúng là hết sức phong phú, nhưng đất đai thích hợp cho canh tác lại không có nhiều, nguyên nhân chủ yếu bởi vì tài nguyên nước hiếm hoi và vô cùng mất cân bằng. Địa khu Mỹ Ni Tư đại bộ phận là đồi núi, trừ Tình xuyên đạo có có hai con sông Hương Diệp và Hương Thảo chảy qua, thủy lợi tưới tiêu khá phát triển ra, các địa khu khác căn bản không có đủ tài nguyên nước, khó có thể tiến hành canh tác nông nghiệp, rất nhiều cư dân đã quen phương thức canh tác nghe theo mệnh trời rồi.
Sau khi quân Lam Vũ thành lập, thủy chung đều bị thiếu lương thức làm khổ, cho dù khi lương thực đầy đủ nhất, Dương Túc Phong cũng không dám học người ta đem giá cả lương thực toàn bộ thả lỏng, mặc dù vẫn luôn ở tiền tuyến đánh trận, nhưng đối với sản xuất nông nghiệp Dương Túc Phong thủy chung không dám lơ là, cho dù dưới tình huống bận rộn nhất, cũng phải đảm bảo sản xuất nông nghiệp có được xúc tiến hữu hiệu, kinh tế của địa khu Mỹ Ni Tư đồng thời ở cao độ phát triển, sản xuất nông nghiệp cũng bắt đầu có biến hóa về chất.
Để tăng tốc phát triển sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, quân Lam Vũ thành lập cục nông nghiệp chuyên môn, dưới cục nông nghiệp quản lý mấy sở nghiên cứu khoa học ngôn nghiệp ở lĩnh vực khác nhau, tập trung nhân lực vật lực trọng điểm giải quyết một số nan đề mang tính kỹ thuật, ví như gây trồng giống cây mới, gây trồng hạt giống chất lượng cao, kinh nghiệm thu hoạch luân canh, phòng ngừa sâu hại..v..v… Dương Túc Phong yêu cầu ban ngành chủ quản nông nghiệp địa phương phải tăng cường quản lý, nhân viên kỹ thuật phải trực tiếp chỉ đạo và huấn luyện người dân nắm vững kỹ thuật nông nghiệp, thâm nhập tuyến đầu sản xuất nông nghiệp phổ cập kỹ thuật thực dụng, đem kỹ thuật nông nghiệp mới nhất kịp thời đưa tới tay người dân trong khi điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp đương thời, kết hợp với các hạng công trình nông nghiệp trọng điểm, áp dụng với các hình thức báo cáo khoa học, cố vấn kỹ thuật, chỉ đạo ký thuật. Triển khải bồi huấn kỹ thuật nông nghiệp ứng dụng trong t hời gian ngắn, căn cứ nhu cầu khoa học và trình độ văn hóa của người dân, tổ chức hoạt động đem kỹ thuật ứng dụng tới cho người dân, để cho mỗi hộ gia đình nông dân ít nhất có một nhân viên khá am hiểu kỹ thuật nông nghiệp.
Vì để phổ cập tri thức phát triển nông nghiệp, Tài Tiêm Tiêm lãnh đạo ngành xuất bản còn chuyên môn xuất bản báo chí và tạp trí liên quan tới sản xuất nông nghiệp, miễn phí đưa tới tay người nông dân, đồng thời do nhân viên kỹ thuật khoa học nông nghiệp của địa phương lấy chuyên môn chỉ đạo. Dương Túc Phong nhấn mạnh ngành xuất bản phải thâm nhập cơ sở triển khai điều tra nghiên cứu, kết hợp nông nghiệp sản xuất thực tế, tìm hiểu nhu cầu của nông dân, lấy kiến thiết công trình trọng điểm đề cao nông nghiệp, giúp đỡ nông dân tăng sản tăng thu làm nguyên tắc, tổ chức sàng lọc một số sản xuất nông nghiệp cần thiết, kỹ thuật thực dụng thao tác cao, viết thành vấn đáp kỹ thuật quan trọng, kỹ thuật ứng dụng nông dân làm giàu, nuôi dưỡng động vật kinh tế đặc chủng cùng lợi dụng các sách vở phổ cập khoa học hàng loạt phương diện nông nghiệp, thiết thực giải quyết vấn đề đông đảo nông dân và đơn vị cơ bản chưa khó khăn trong việc học tập kỹ thuật nông nghiệp ứng dụng.
Trên lịch sử của thế giới này, đem kỹ thuật nông nghiệp phổ biến diện rộng tới tay người nông dân như thế, quân Lam Vũ chính là đầu tiên, mặc dù mỗi lần xuất bản sách báo chi phí đều không ít, nhưng Dương Túc Phong khi ký tên vào báo cáo chi tiêu chưa từng hối hận, bởi vì y hiểu rất rõ khi không có lương thực người dân sẽ làm ra chuyện gì, ngược lại, chỉ cần có lương thực đầy đủ, xã hội ổn định là chuyện không cần phải nói.
Đưa vào thị trường kinh tế tự do, thuế nông nghiệp được miễn trừ hoãn toàn, kích thích phát triển sản xuất nông nghiệp, tính tích cực của nông dân địa khu Mỹ Ni Tư được đề cao cực lớn, nguyên lai khi dưới sự thông trị của đế quốc, người thống trị căn bản không quan tâm sản xuất lương thực ở nơi này, trong con mắt chỉ có kim cương và phỉ thúy của nơi đây, nhưng Dương Túc Phong đem địa vị sản xuất nông nghiệp đề cao rất nhiều, hoàn toàn thay thế cho đào bới phỉ thúy và kim cương không có tổ chức, cắt đứt con đường lợi nhuận tự ý khai thác kim cương và phỉ thúy, đồng thời nghiêm trừng kẻ tự ý khai thác, đem nhân lực vật lực hướng về trong sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào khí hậu và đặc điểm hình thế địa hình của địa khu Mỹ Ni Tư, quân Lam Vũ nhập gia tùy tục mở rộng diện tích trồng các loại cây chịu hạn như ngô, khoai lang, cao lương, khoai mỡ, đậu phộng, lúa mạch, lúa mạch đen, khoai tây …v..v… đồng thời chuyên tâm truyền thụ kỹ thuật trồng trọt. Trong khu vực quân Lam Vũ khống chế, địa khu tài nguyên nước khan hiếm, trọng điểm phổ biến ngô và khoai tây, còn ở phụ cận cảng Bà Châu kênh đào chằng chịt, thì thử nghiệm phổ biến kỹ thuật lúa nước tạp giao, đề cao sản lượng. Tại địa khu đất đai khá phì nhiêu, luân lưu canh tác, không gián đoạn phát huy năng lực của đất đai, không cho đất đai thời gian rảnh rỗi, đồng thời trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng lượng lớn các loại phân chuồng, nâng cao độ phì của đất, đồng thời một số địa khu bắt đầu sử dụng phân hóa hoặc kích thích tăng trưởng của thực vật.
Địa khu Mỹ Ni Tư rất nhiều núi đồi, thích hợp phát triển kinh tế lâm nghiệp. Vì thế Dương Túc Phong kiến nghị cư dân trồng hàng loạt các loại cây có thể thu hoạch lợi ích kinh tế lớn như trà, dâu, ca cao. Sản lượng gỗ của địa khu Mỹ Ni Tư chủ yếu đều ở rặng núi Thiếp Bác Lạp Tác tới địa khu phía bắc, sản lượng gỗ không lớn, vì thế trông cậy vào trồng cây lấy gốc quy mô lớn cũng là không thực tế, ngược lại trà, cây dây các loại cây cối có tính kinh tế cao khá lời, có thể nhanh chóng vì cư dân đương địa mang tới thu nhập.
Ở một số địa khu khá hẻo lảnh, quân Lam Vũ ra sức phổ biến trồng trọt bạch đàn, ở phía bắc vương quốc Tháp Lâm, Dương Túc Phong thậm chí tự mình trồng hơn mưới gốc cây làm mẫu, loại cây giống tới từ bán đảo Hỏa Long này, có sức thích ứng rất mạnh, có thể sinh trưởng ở đất đai cằn cỗi và dưới điều kiện khí hậu khô hạn, rất thích hợp trồng ở địa khu Mỹ Ni Tư. Phía bắc vương quốc Tháp Lâm và bộ phận địa khu vương quốc Mai Lý Đạt đều trồng hàng loạt loại Bạch Đàn này, những địa khu đó đất rừng đều bỏ hoang, đất đai kém máu mỡ, đất màu bị rửa trôi nghiêm trọng, người trồng rừng không tìm được giống cây thích hợp, chỉ có Bạch Đàn mới có thể sinh trưởng thành tài trên vùng đất thoái hóa cằn cỗi đó.
Cây Bạch Đàn ngoài tộc độ sinh trưởng nhanh ra, giữa loại cây dễ dàng tạp giao tạo nên giống tạp giao vượt quá giống gốc, đồng t hời dễ trồng thành giống vô tính tiến hành sinh sản vô tình. Những loại giống tốt này đề cao nhiều tính đồng nhất và chất gỗ, dựa theo tốc độ nhanh, kỳ đốn chặt ngắn, dưới điều kiện chuyên sâu kinh doanh có thể thành sản lượng đề cao bội phần. Bạch Đàn sau khi được chặt, có thể nảy mầm tái sinh đợi hai. Cây tái sinh đời hai do có thể lợi dụng hệ rễ vốn có, sản lượng só với cây trồng đời một còn cao hơn, do không phải trồng mới, hạ thấp rất nhiều giá thành sản xuất, đồng thời cũng giảm bớt tần độ canh tác đất đai, có lợi bảo trì đất màu.