Bất quá đối với A Phương Tác mà nói, cơ hội chiến đấu sát mạn thuyền còn rất nhiều, loại súng Mauser này cũng coi như là tận dụng hết khả năng.
Ngoài ra A Phương Tác còn ngay từ đầu đã nhìn trúng những Long Nha chiến hạm mới hạ thủy kia, bất kể thế nào cũng muốn đem ba chiếc chiến đấu hạm của mình đổi thành tám chiếc Long Nha chiến hạm, ánh mắt của hắn rất chuẩn xác, vừa nhìn đã thấy được tính ưu việt của những chiếc Long Nha chiến hạm này, mặc dù chúng có trọng tải không lớn bằng chiến đấu hạm, nhưng khá kiên cố, bộ phận trọng yếu đều dùng tấm thép bảo vệ, có thể kháng cự hai lượt xạ kích cùng lúc của pháo thanh trượt. Đồng thời do đại pháo số lượng rất ít, cho nên nhu cầu pháo thủ cũng không nhiều, mỗi chiếc Long Nha chiến hạm chỉ cần chừng sáu bảy mươi thủy thủ và thuyền viên, không bằng một phần năm chiến đấu hạm, cho nên khoang thuyền càng thêm rộng rãi, điều kiện sinh hoạt của các thủy thủ cũng được cải thiện rất lớn.
Ngoài ra, những chiếc Long Nha chiến hạm này có thể chở vật phẩm cũng rất nhiều, ví như thức ăn và nước ngọt, có thể kéo dài thời gian đi biển, điều này đối với hải tặc mà nói là cực kỳ quan trọng. Trên Long Nha chiến hạm còn có Trắc Cự Nghi (vật đo khoảng cách), loại trang bị kiểu mới này đích xác hấp dẫn A Phương Tác, mà trang bị tủ lạnh cũng làm những hải tặc cảm thấy hết sức mới mẻ, điều này đối với những người ngày ngày ăn cá ướp mà nói, nếu như có thể trên hành trình đi biển ăn được rau tươi, chắn chắn là cải thiện sinh hoạt cực lớn, chỉ cần nghĩ một chút thôi, cũng làm người ta hưng phấn.
“Cho dù mỗi chiếc giá trị mười vạn kim tệ, ngươi cũng lãi rồi.” A Phương Tác không chút khách khí nói, mồm đầy hơi rượu.
Dương Túc Phong chỉ đánh gãi đầu chấp nhận, đem Long Nha chiến hạm vốn chuẩn bị tăng cường tới các hạm đội khác phân cho hắn, nếu như A Phương Tác còn có thể trở về vơ vẹt được càng nhiều bảo tàng hơn từ chỗ hải tăc Sở La Môn, hắn nằm mơ cũng phải cười, nghe nói bảo tàng của hải tặc Sở La Môn so với hải tặc Ca Âu còn phong phú hơn, truyền thuyết dân gian, chỉ cần cướp được một phần mười bảo tàng của hải tặc Sở La Môn là có thể xưng bá đại lục. Truyền thuyết không biết là thật hay giả, nhưng bảo tàng của Sở La Môn thì không có gì phải nghi ngờ.
“Ngươi lại chẳng tổn thất cái gì.” Thấy Dương Túc Phong do dự, A Phương Tác bất mãn nói.
Dương Túc Phong há miệng ra cười.
Bắt đầu từ đầu năm 1729 thiên nguyên, hải quân Lam Vũ liền bắt đầu mở rộng hàng loạt, trừ hạm đội của A Phương Tác ra, các hạm đội khác đều lục tục bổ sung lượng lớn Long Nha chiến hạm, trước khi bị tổn thất hạm đội Phất Lai Triệt có mười sáu chiếc Long Nha chiến hạm, qua bổ xung đạt tới hai mươi lăm chiếc, các hạm đội khác số Long Nha chiến hạm đều có gia tăng, bình quân đều trên hai mươi chiếc, trừ bổ xung tổn thất chiến đấu, hải quân Lam Vũ mỗi tháng đều sẽ tăng thêm hai mươi Long Nha chiến hạm.
Dương Túc Phong biết chiến hạm liên miên không ngớt sản xuất ra cuối cùng mới là vốn đánh bại kẻ địch cuối cùng, chỉ có dựa vào ưu thế thực lực, mà không phải vận khí mới là còn đường giành chiến thắng căn bản.
Tháng 2 năm 1729 thiên nguyên, căn cứ vào nhu cầu chiến đấu, Dương Túc Phong hạ lệnh điều chỉnh danh sách chiến đấu của hải quân. Trên cơ sở bốn hạm đội hải quân gồm hạm đội Vũ Phi Phàm, hạm đội Phất Lai Triệt, hạm đội Khắc Lý Khắc Lan, hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã, tăng cường thêm ba hạm đội hải quân, lần lượt là hạm đội Trát Lan Đinh, hạm đội Tô Chẩm Thư, hạm đội Đặc Lan Khắc Tư, đồng thời bắt đầu chính thức dùng số trong văn kiện quân sự để thể hiện biên chế của hạm đội, mà không gọi tên tư lệnh quan nữa (cá nhân vì cho tiện, vẫn gọi tên quan tư lệnh), những hạm đội này lần lượt lấy số từ 1 tới 7 để phân biệt, ví như hạm đội Phất Lai Triệt đổi sang là hạm đội số 2, hạm đội Trát Lan Đinh gọi là hạm đội số 5…vv..
Để hình thành ưu thế hải chiến tốt hơn, giảm bớt cự ly đi biển vô ích của hạm đội, tất cả hạm đội hải quân đều điều chỉnh lại căn cứ của mình, cảng mẹ của hạm đội số 1 tới hạm đội số 7 lần lượt là Bố Lôi Tư, cảng Bà Châu, Thánh Mã Lạc, Hải Nha, cảng Tô San, Tư Đa Khắc, cảng Mễ Luân, bảy cửa cảng này liệt vào hàng quân cảng trọng điệm kiến thiết của hải quân. Ở cở sở ban đầu tăng thêm các loại phương tiện thiết bị, thậm chí xưởng công binh, chủ yếu sản xuất đạn pháo cho pháo 100 ly. Nhưng do cảng Mễ Luân tạm thời còn chưa khống chế trong tay quân Lam Vũ, cho nên Đặc Lan Khắc Tư chỉ huy hạm đội số 7 tạm thời đem cảng Đa Ni vốn của vương quốc Mai Lý Đạt làm cảng mẹ, đợi sau khi chiếm lĩnh cảng Mễ Luân mới chuyển đi.
Sau khi trải qua điều chỉnh, hải quân Lam Vũ chính thức có bảy hạm đội, trong đó ở phương hướng biển Á Đinh có năm đơn vị. Trong hạm đội hải quân ở phương hướng biển Á Đinh, cũng có phân công khá chính xác, trong đó hạm đội Khắc Lý Khắc Lan và hạm đội Khắc Lai Ô Địch Mã chủ yếu phụ trách giám thị và áp chế hải quân nước Y Mộng, tùy thời quấy nhiễu đường ven biển của nước Y Mộng, hạm đội Vũ Phi Phàm thực lực mạnh nhất phụ trách phương hương tiến công chủ yếu của hải quân, đồng thời phối hợp với các hạm đội khác công kích, mục tiêu chủ yếu là đảo Sùng Minh, hạm đội Phất Lai Triệt và hạm đội Tô Chẩm Thư đều là hạm đội cơ động, căn cứ vào nhu cầu điều động, trước mắt chủ yếu cũng là hướng đảo Sùng Minh.
Trong hai đơn vị hải quân từ Linh Đình Dương, cũng mỗi hạm đội có phân công riêng, hạm đội Trát Lan Đinh chủ yếu phục trách an toàn đường biển của Linh Đinh Dương, tấn công hải tặc lẻ tẻ và hải tặc Ca Âu ẩn núp đi tới, tới lúc cận thiết hiếp trợ hạm đội Đặc Lan Khắc Tư phần lớn hải tặc Ca Âu; hạm đội Đặc Lan Khắc Tư thì bắc đầu trù tính kế hoạch chủ động công kích hải tặc Ca Âu, hạm đôi Đặc Lan Khắc Tư không có nhiệm vụ tác chiến cụ thể, nhất thiết đều lấy tiêu diệt hải tặc Ca Âu làm tôn chỉ, khu vực hoạt động của nó sẽ là cả biển Gia Lặc Tân.
Đương nhiên cùng với việc kênh đào Y Mã khống chế ở trong tay quân Lam Vũ, bảy đơn vị hải quân ở biển Á Đinh và Linh Đình Dương đều có thể căn cứ vào nhu cầu mà linh hoạt điều phối, khi cần thiết, ở phương hướng nào đó có thể tập trung bốn thậm chí năm đơn bị hạm đội dùng để đại quyến chiến, đây mới là lý tưởng nhất. Ví như quyết chiến cùng hải quân nước Mã Toa ở phía đảo San Hô, hoặc là phí bắc hải cùng hải tặc Ca Âu quyết chiến.
Vì phối hợp hành động giữa các hạm đội hải quân, điện đài sóng dài cũng bắt đầu sơ bộ đưa vào sử dụng, khoảng cách nó truyền bá so với vô tuyến điện đài càng xa hơn, có thể tăng cường rất lớn cự ly thông tấn giữa các hạm đội. Bất quá, điện đài sóng dài cũng không hoàn thiện, rất nhiều chỗ phải cải biến, khoảng cách truyền bá không được xa như trong lý tưởng, khiến cho đoạt lấy đảo Sùng Minh kiến lập điện đài sóng dài thành mực tiêu bức thiết của ngành thông tấn.
Khi Dương Túc Phong dựa vào lan can nhìn ra xa, Phất Lai Triệt và A Phương Tác rốt cuộc không chỗng đỡ nổi nữa, mềm nhũn người xụi ra trên cầu tàu, bất quá còn chưa ngủ, hai người đều nói năng loạn bậy. Dương Túc Phong đột nhiên nghe thấy có người gọi tên mình, quay đồi nhìn lại, thì ra là Đặc Lan Khắc Tư.
Đặc Lan Khắc Tư thần tình tựa hồ còn tỉnh táo, đầy kỳ vọng nói: “Phong lĩnh, đối với báo chí của đế quốc, ngài có cách nhìn thế nào?”
Dương Túc Phong khoảng thời gian này chính vì cố ý che dấu thực lực của mình mà cảm thấy không thoải mái, nhất là hải quân đánh thắng lớn như vậy, nhưng ngay cả lệnh khen thưởng cũng không thể quang minh chính đại phát ra, buồn bực bội phần, lúc này men rượu bốc lên, vô tình nhớ tới lời của thiết huyết tể tướng Bismarck nước Đức, buột miệng nói: “Chúng ta trông cậy vào không phải là đế quốc ban ơn cho, mà là vũ lực của chúng ta! Ngày nay vấn đề chính trị trọng đại không phải là thông qua thủ đoạn ngoại giao và âm mưu chính trị là có thể giải quyết, mà phải dùng máu và sắt để giải quyết.”
***Otto von Bismarck: google thẳng tiến.
Những người khấc tức thì tỉnh rượu, không hẹn mà cùng ngạc nhiên hưng phấn nhìn Dương Túc Phong.
Dương Túc Phong tức thì trong đầu lạnh cóng, biết mình lại nói sai rồi, bất kể là Khắc Lao Tắc Duy Tư hay là Vân Thiên Tầm hay Phượng Thải Y đều cố tình vô ý nhắc nhờ mình không nên quá bộc lộ thực lực bản thân, tránh làm cho đế quốc nghi ngờ và đố kỵ. Nhưng đây không phải là bản tính của Dương Túc Phong, tất nhiên, không phải nói là y không phải là người không phải là người biết khiêm tốn, mà là bởi vì y là thực sự không thích loại cảm giác kìm nén và khuất nhục, bộ đội đánh thắng trận, nhưng phải che dấu tin tức, sợ người khác biết được, đây là loại cảm giác gì chứ, y thực sự không thể diễn tả. Khi ở kiếp trước, thậm chí ở trước mặt cảnh sát, y cũng không che dấu kỹ thuật và thực lực làm súng phi pháp của mình.
Vô số lần y thầm chất vấn bản thân, nam tử hán đại trượng phu, đỉnh thiên lập đia, cần gì phải giấu giấu giếm giếm? Làm thì làm rồi, thằng thì thắng rồi, bại thì bại rồi, cần gì phải nhìn sắc mặt người khác? Cần gì phải ủy khuất bản thân? Nhưng đối diện với kiến nghị của đám Khắc Lao Tắc Duy Tư, y lại không thể không cân nhắc, bời vì điều này dù sao không phải là vấn đề cá nhân, mà là vấn đề một đoàn thể, một quân đội, còn là vấn đề của ngàn vạn dân chúng, đây là chính trị, đây là chính trị mà y không quen thuộc. Cho nên y không dám nói ra, không dám đỉnh thiên lập địa lớn tiếng gầm lên: “Đúng! Chính là ta đánh bại hải quân nước Mã Toa! Các ngươi muốn gì cứ phóng ngựa lại đây!”