Từ vực thẳm của sự khởi đầu cho đến đỉnh cao của thành tựu, có lẽ chẳng hề gì đối với một người xuất chúng như Vưu Thần. Tuy nhiên, từ trên tầng mây cao nhất của sự ngọt ngào say đắm, trong thoáng chốc, chợt nhiên bị đẩy rơi xuống mặt đất khô cằn đầy những mảnh vỡ vụn của tình yêu, Vưu Thần không có cách nào gượng dậy nổi.
Cứ ngỡ tháng tháng ngày ngày bên cạnh nhau sẽ kéo dài mãi đến vô tận, thế mà vào giây phút người ấy cần y xuất hiện nhất, y lại để nó trôi tuột khỏi tầm tay của mình. Tiếng yêu thân thương bỗng hóa thành tiếng gọi oán than buồn vương, lại chẳng ai có thể nghe thấy ngoài một linh hồn ra sức thét gào bi thống.
Vưu Thần không thể biết được mình đã chìm trong thế giới không có âm thanh đã bao lâu rồi. Tiếng người cười nói xưa kia cũng không còn nữa. Nơi nhà chính của những người họ Vưu dần dần trở nên ảm đạm tịch mịch, đôi lúc thậm chí có thể giết chết một con vật đáng thương vì mãi sống trong sự lạnh lẽo cô độc này.
Vưu San sau khi tan làm liền trở về nhà. Cô vận một bộ quần áo công sở rất thanh nhã, từng bước giẫm lên bậc thang lạnh lẽo, không hề phàn nàn hay thở dài với bầu không khí ngột ngạt ở phòng khách.
Cô dừng lại trước cửa thư phòng yên ắng, suy nghĩ rất lâu mới liều mình gõ lên cửa phòng. Bên trong vẫn không có phản hồi nào từ một người sống. Gió thổi lướt qua ngưỡng cửa bên dưới chân, làm lạnh buốt đầu ngón chân của cô.
“Anh cả, anh đã uống thuốc chưa?” Vưu San cất giọng hỏi, một bên tai áp lên cửa gỗ, nghe ngóng động tĩnh trong kia.
Qua hồi lâu, cô không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào phát ra, ngay cả âm thanh của bàn phím cũng không có.
Chắc là anh ấy ngủ rồi?
Vưu San thoáng nghĩ đến, sau đó cẩn thận vặn nắm cửa đẩy ra, đi vào bên trong. Thế giới riêng biệt không có âm thanh này thật sự quá đỗi sầu thương, không khí vương vấn một loại mùi bạc hà rất nhẹ, nhưng nếu ngửi nó quá lâu thì sẽ cảm thấy choáng váng mệt mỏi lắm.
Bởi vì đó là mùi hương từ bao thuốc lá của Vưu Thần.
Vưu San không bật đèn phòng, cô chỉ nương theo ánh đèn heo hắt ở bàn làm việc, nhận ra Vưu Thần đang ngủ ngồi trên ghế. Cô khẽ khàng bước đến gần hơn, quan sát đối phương vài giây rồi dời mắt qua mặt bàn, phát hiện những viên thuốc an thần nằm ngổn ngang lộn xộn.
Sao lại uống nhiều như vậy?
Vưu San trong lòng hoảng hốt, vội vàng vươn tay lay mạnh trên bả vai của Vưu Thần.
Trong giấc mộng vụn vỡ, Vưu Thần không còn đủ tỉnh táo phân biệt ban ngày hay ban đêm, vì mỗi ngày y đều nhốt mình nơi thư phòng, gần như muốn buông bỏ tất cả mọi thứ.
“Anh cả.” Vưu San lo lắng nhìn đối phương, cố gắng lay người y thêm vài cái nữa “Anh cả, anh có nghe em nói không?”
Vưu Thần đã mở mắt nhìn cô, nhưng không trả lời. Y dán lưng trên mặt ghế da, yên tĩnh ngắm nhìn bầu trời đen đặc bên ngoài cửa sổ. Khung cửa thủy tinh phản chiếu rõ rệt cả một thành phố phồn hoa náo nhiệt, thế nhưng sự huyên náo ấy cách nơi y đang ở rất xa, vô cùng xa xôi, như thế chẳng bao giờ chạm tới được.
Vưu San bất giác im lặng nhìn người trước mặt mình hồi lâu, không rõ vì sao hốc mắt trở nên xót xa hơn bao giờ hết. Hàng mi cong dài trĩu nặng thê ai, cô bất ngờ ôm lấy đôi bàn tay của Vưu Thần, nhẫn nhịn từng đợt cảm xúc nghẹn ngào dưới đáy lòng.
“Anh cả, anh đừng như vậy nữa có được không? Anh đừng im lặng như thế này nữa, được chứ? Em xin anh, đã suốt mấy tuần anh không ra ngoài, không làm việc, không nói chuyện, đến thuốc chỉ đổ ra mà không hề uống. Em hiểu được sự ra đi của em ấy ảnh hưởng đến anh thế nào, nhưng anh trở thành như bây giờ, chúng em không chịu nổi. Không ai chịu nổi cả.”
Lúc này, từ trong đôi mắt vô hồn ấy, thấp thoáng một tia tỉnh táo, hơn nữa còn đong đầy cảm xúc mãnh liệt.
Vưu Thần dời tầm mắt nhìn Vưu San, bờ môi lạnh buốt nhợt nhạt hé mở, giọng nói khản đặc: “Chiếu Hy vẫn chưa chết.”
Vưu San không kìm được nước mắt, vội vã cúi mặt, khẽ nói: “Anh cả, anh đừng cố chấp như vậy nữa mà. Nhìn nhận sự thật đi anh, chấp nhận sự thật để rồi sống tốt hơn, có được không? Hãy sống thay phần của em ấy, đây là cách tốt nhất mà anh có thể làm đó ạ…”
“Nói càn!” Vưu Thần chợt quát lớn một câu, cả người cũng ngồi thẳng dậy, đôi bàn tay trắng nhợt thon gầy thoáng run rẩy.
Vưu San vì tiếng gào dữ tợn ấy mà đứng lên, giật bắn mình, lời lẽ cũng lắp bắp: “Anh cả…”
Nỗi đớn đau cứ ngỡ đã ngủ vùi sâu dưới đáy lòng thăm thẳm, bất chợt giờ phút này lại trỗi dậy khuấy đảo tâm trí của y, đan xen hỗn loạn cùng giằng xé, tưởng chừng muốn xé toang mọi bộ phận trong cơ thể mà vùng vẫy thoát ra ngoài.
Vưu Thần nhắm chặt đôi mắt nóng rẫy, khàn giọng ra lệnh: “Ra ngoài!”
“…”
Vưu San buộc phải rời khỏi thư phòng, nước mắt trên mi còn chưa rơi xuống, cô mím chặt môi, vội đưa tay lau đi. Đúng lúc ấy, Vưu Kiện từ dưới nhà đi lên lầu, tình cờ chứng kiến cảnh tượng tủi thân của em gái, thấp giọng buông tiếng thở dài.
“Thôi, đợi thêm vài hôm nữa xem sao.” Vưu Kiện đi tới trước mặt Vưu San, dịu dàng xoa tóc cô, cười an ủi “Đi xem phim không? Anh với em đi. Nghe nói hôm nay có phim của thần tượng em đóng đấy.”
Vưu San thút thít không dám khóc lớn, tất nhiên cô khóc không phải vì giận dỗi anh trai mình, nhưng mỗi ngày nhìn đối phương u uất đến mức sắp sửa trầm cảm thế kia, cô có thể không xót xa không?
Làm sao có thể không xót xa đau lòng chứ?
Vưu San cúi đầu thì thầm: “Lỡ chúng ta đi rồi, anh ấy ở nhà có chuyện gì thì sao?”
Vưu Kiện nhún vai, ngoảnh mặt nhìn về phía cánh cửa một chốc rồi nói: “Đừng lo quá! Anh ấy còn chờ Chiếu Hy trở về, tuyệt đối không xảy ra chuyện gì được đâu.”
—
Gia Thanh đẩy cửa lớp ra, thong dong đi vào chỗ ngồi của mình. Hôm nay gã có mua sẵn mấy hộp cơm cho bốn người bọn họ, nhưng hiện tại chỉ mới có mặt ba người mà thôi, tính luôn cả gã rồi.
Diệc Du ngồi đối diện ngoan ngoãn ăn cơm, một tiếng động cũng không phát ra. Món cơm cánh gà chiên này là món ruột của cậu nhóc.
La Lịch ăn quá nửa hộp rồi mới thình lình thắc mắc: “Sao hôm nay Họa Niên đi học trễ vậy?”
Gia Thanh vừa gặm xong cánh gà chiên liền thả miếng xương nhỏ vào một tờ khăn giấy, gã nhíu mày liếc nhìn chỗ trống bên cạnh. Sau đó đưa cổ tay lên nhìn đồng hồ, bảy giờ kém mười, sắp vào tiết đầu tiên rồi.
Trong miệng gã lầu bầu: “Ừ nhở, sao hôm nay đến muộn quá vậy. Hay là bị ốm rồi? Nghe nói hôm qua chơi bóng đến tối, lúc về bị dính mưa.”
La Lịch đẩy gọng kính đen, lấy điện thoại ra gửi một tin nhắn vào nhóm. Lát sau vẫn không có người trả lời, cậu ta mới trực tiếp nhắn tin vào số của Kỳ Họa Niên.
Tiết đầu đã qua đi, Kỳ Họa Niên vẫn chưa có mặt.
Suốt cả buổi học bốn tiếng đồng hồ, Gia Thanh với La Lịch như ngồi trên hai đống lửa, sốt ruột đến mức chỉ mãi ngồi đếm thời gian trôi qua. Lúc chuông trường vừa đổ dành cho tiết cuối cùng, cả hai giật mình đứng bật dậy khiến cho giáo viên môn Lịch Sử bị hoang mang.
Cô giáo ngây ngốc nhìn hai người bọn họ, khẽ cười hỏi: “Hai em có gì thắc mắc sao?”
Gia Thanh cứng đờ thân người không đáp, trân trân nhìn cô giáo.
La Lịch ở gần đó bình tĩnh hơn một chút, cậu ta xấu hổ cào cào tóc giải thích: “Dạ không có gì ạ. Tụi em đứng dậy để nhìn bảng rõ hơn, còn đoạn cuối vẫn chưa chép xong.”
Cô giáo “à” một tiếng dài, sau đó không để ý đến bọn họ nữa, xoay lưng sắp xếp đồ đạc rồi rời khỏi lớp học.
Diệc Du đeo cặp lên vai, cúi đầu bẻ mũi giày xuống đất, nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay Họa Niên bị bệnh hả?”
La Lịch nghiêng đầu nhìn cậu nhóc, không biết phải nói làm sao cho đúng, bèn gật đầu: “Ừ, hình như cậu ấy bị ốm rồi, một lát bọn này qua xem sao.”
“Diệc Du cũng muốn đi.” Diệc Du chớp chớp mắt, có ý nài nỉ.
Thế nhưng Gia Thanh từ đầu bên kia đi tới, thẳng thừng từ chối: “Cậu về nhà trước đi. Bọn tôi đi qua được rồi, một lát trời mưa thì phải đèo cậu về nữa hả?”
Diệc Du không cam tâm nhất nhất nhìn La Lịch, ra sức dùng đôi mắt ngập nước nghẹn ngào đó mà năn nỉ. Tiếc rằng ý của Gia Thanh là ý trời, ít nhất thì tạm thời là như vậy, cho nên La Lịch đành đè nén dỗ dành cậu nhóc trước mặt.
“Thôi, hay là ngày mai tôi đưa cậu sang thăm Họa Niên nhá.”
Diệc Du phồng hai má nghĩ ngợi hồi lâu: “Ừm, cũng được. Nhớ đó nha.”
“Nhớ mà.”
Gia Thanh trưng ra bộ mặt hờn dỗi cả thế giới nhìn cái cục phiền phức mang tên Diệc Du. Lát sau khi Diệc Du sắp đi ngang qua người gã, gã đã nhanh chóng nhét vào tay cậu một thanh kẹo ngọt.
Diệc Du nhìn kẹo ngọt, buồn bã lập tức tan theo khói trời.
“Cảm ơn Gia Thanh!”
Gia Thanh bĩu môi, làm mặt quỷ: “Về mau đi, bố cậu đợi đó.”
Diệc Du nghe lời, nhưng trước khi đi còn nói nốt: “Cơ mà Gia Thanh Gia Thanh, lần sau cậu có mua kẹo này thì mua vị táo nha, Diệc Du không thích vị dưa hấu.”
La Lịch mím môi nén cười.
Gia Thanh lại chuẩn bị trưng ra bộ mặt phong ba bão táp, rít từng chữ: “Ông đây không rảnh! Về!”
—
Trước cửa nhà của Kỳ Họa Niên có một ổ khóa rất to. Gia Thanh phanh gấp một tiếng, La Lịch ở đằng sau cũng vừa mới dừng lại kịp thời. Cả hai nhìn ổ khóa to tướng, sau đó đánh mắt nhìn nhau, đồng loạt chau mày.
“Cậu ta đi đâu rồi?” La Lịch đứng nhón chân muốn nhìn vào bên trong nhưng không thấy được gì.
Gia Thanh cao hơn cậu ta nửa cái đầu, lúc phóng lên càng cao hơn bình thường, nhanh chóng quét một vòng sân ngoài, nhìn thấy được chiếc xe đạp của Kỳ Họa Niên.
“Xe đạp của cậu ấy ở trong kia kìa.” Gia Thanh nói.
La Lịch sửng sốt: “Ơ, vậy cậu ta đi bằng gì? Không lẽ đi bộ mua đồ gần đây hả?”
Gia Thanh ngồi bệt xuống đất, không ngại bụi bẩn bám đầy đáy quần, thờ ơ nói: “Ai mà biết! Đợi thử xem sao.”
Đêm xuống, hai thiếu niên ngồi trực trước cổng nhà bắt đầu buồn ngủ, hơn nữa còn khổ sở bởi đàn muỗi vo ve liên tục bên người. La Lịch đập vào tay mình lần thứ mười, cổ tay đã đỏ dần lên kèm theo ngứa ngáy khó chịu. Cậu ta dụi dụi mắt, uể oải lên tiếng:
“Ê, chúng ta về đi. Chắc hôm nay Họa Niên không về nhà rồi.”
Gia Thanh ở bên cạnh cũng không khá khẩm hơn bao nhiêu phần, gã đưa tay gãi gãi bắp chân, bực dọc chửi thề theo thói quen rồi nói: “Thằng chó này, không biết đi đâu rồi, hại bọn mình ngồi làm mồi cho muỗi.”
La Lịch cười khổ: “Gọi điện thoại thử xem.”
“…” Gia Thanh bất chợt nhìn La Lịch, chẳng rõ gã bị gì mà trừng mắt, sau đó kêu lên ai oán “Ông nội vợ ơi, sao nãy giờ tụi mình không gọi điện thoại cho cậu ấy?”
La Lịch: “…” Ừ, quên béng mất.
Hai ngày sau đó, Kỳ Họa Niên vẫn biệt vô âm tín.
Nắng sớm tràn trên mặt bàn gỗ, tràn qua kẽ tay trắng trẻo của Diệc Du. Cậu nhóc đang ngồi dán lưng lên bàn học phía sau, thích thú mút mút que kem vanilla của mình.
Gia Thanh đang cầm điện thoại nhắn tin, gã nhắn một loạt tin không ngừng nghỉ, cuối cùng thì bực bội mắng: “Cụ nhà cậu!”
Diệc Du khó hiểu ngước mắt nhìn gã, hỏi: “Cụ cái gì cơ?”
Ngay lập tức, La Lịch vươn tay bịt hai tai của Diệc Du lại, thầm bảo: “Đừng học theo Gia Thanh, đó là câu nói bậy, không cần nhớ.”
“Ồ…” Diệc Du mãi chiêm nghiệm ‘cụ nhà cậu’ thú vị đến mức nào mà Gia Thanh thích nói đến vậy mà quên mất que kem đang ăn dở của mình.
Từng giọt kem trắng ngà ngọt lịm rơi trên đầu ngón tay của cậu.
Gia Thanh buông điện thoại xuống bàn, vô tình phát hiện vết tích khó coi trên tay Diệc Du, gã hô lên: “Ăn thì lo ăn đi, chảy hết rồi kìa!”
Diệc Du giật mình, ngó mắt xuống, định vươn lưỡi liếm sạch. Không ngờ Gia Thanh đã nhanh hơn một bước, rút mấy tờ khăn giấy ra lau sạch từng kẽ tay cho cậu.
“Hi hi.” Diệc Du bỗng cười khúc khích.
Gia Thanh đen mặt, vò tờ khăn giấy lại rồi ném vào người đối phương: “Cười khỉ gió gì. Đang quạu à.”
Diệc Du bĩu môi, không thèm trả lời.
La Lịch quơ quơ chiếc bút trước mặt Gia Thanh, nghiêm túc hỏi: “Sao rồi, cậu ta bắt máy chưa?”
Gia Thanh chán nản lắc đầu, xoay điện thoại trên bàn thành mấy vòng.
La Lịch cũng thở dài thườn thượt: “Họa Niên đi đâu được nhỉ? Cậu ấy đâu còn người thân nào ở gần đây.”
“Sau hôm đánh nhau với Trác Hựu, Họa Niên không ổn cho lắm. Có lẽ dồn nén trong lòng quá lâu nên bây giờ muốn tìm nơi giải tỏa?” Gia Thanh suy đoán.
La Lịch: “Ừ, tớ cũng nghĩ thế. Mẹ tớ từng nói, khi gặp chuyện đau lòng mà khóc được thì sẽ không sao, khóc rồi sẽ quên, nhưng người mà không thể khóc thì mới đáng lo đó.”
Trong đầu Gia Thanh loạn cào cào, gã gục mặt xuống bàn thở phì phò, sau đó ngẩng dậy, quyết gọi thêm một cú nữa. Đáng tiếc, kết quả không khác gì nhau, vẫn là giọng nói trang nghiêm của chị tổng đài bí ẩn nào đó.
“Má, thiệt tình chứ!”
La Lịch nghiêng mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ đang suy nghĩ điều gì đó, lát sau cậu ta bỗng nói: “Ngoài chúng ta ra, cậu ấy còn thân thiết với ai nữa không?”
“?” Gia Thanh chưa phản ứng kịp, ngơ ngác hỏi “Ai nữa?”
“Ngoài chúng ta nè, cậu, tớ với Diệc Du thì Họa Niên còn thân với ai nữa không?”
Gia Thanh cụp mắt nghĩ ngợi: “Có một người, là Lệ Linh đó.”
—
Lệ Linh gập sách lại, đi đến cửa lớp, ngây người nhìn Gia Thanh và một nam sinh khác cũng có chút ấn tượng nho nhỏ.
“Sao vậy Gia Thanh?” Lệ Linh mở lời hỏi trước.
Có một điều mà trước khi đến đây, Gia Thanh đã quên béng mất, người mà gã sắp đối mặt là Lệ Linh, là người mà gã thầm thương trộm nhớ bấy lâu không dám bày tỏ.
Gia Thanh nghe hỏi, khuôn mặt cứng ngắc không chút biểu tình, môi hé ra mà không nói được gì. La Lịch phát hiện người bên cạnh im thin thít, bèn ngoảnh mặt nhìn một cái.
La Lịch huých vào hông Gia Thanh: “Ê?”
Gia Thanh sực tỉnh, lắp bắp hỏi: “À ừ, chị, cái đó, Họa Niên ấy, mấy hôm nay chị có gặp nó không?”
Họa Niên?
Trong đôi mắt luôn trầm tĩnh của Lệ Linh, bất giác có một làn sóng gợn lăn tăn, chẳng biết đang mong mỏi điều gì mà trái tim đập đến nhiễu loạn.
“Họa Niên… không đi học ư?” Lệ Linh hỏi lại, trong lòng đã lo đến sốt ruột.
La Lịch gật đầu: “Cậu ấy nghỉ mấy hôm rồi, đến nhà cũng không gặp.”
Từ sau ngày hôm ấy, Lệ Linh không còn chạm mặt Kỳ Họa Niên nữa, trừ hôm tang lễ của bà, cô có qua cùng với mẹ mình để viếng và phụ giúp một số việc lặt vặt. Sau đó hai người cũng không trò chuyện với nhau quá ba câu, khoảng cách gần như đã xa tận chân trời.
Hôm nay nghe tin Kỳ Họa Niên không đến trường cũng không có ở nhà, Lệ Linh sửng sốt giây lát, vẫn là không thể giấu giếm tình cảm đã cố đè ép ngủ say của mình.
“Chị cũng không biết tin tức gì sao?” Gia Thanh cau mày hỏi.
Lệ Linh hoang mang lắc đầu: “Không, không biết gì hết. Chị tưởng mọi người thân với nhau lắm, không lẽ Họa Niên không nói gì luôn sao?”
Gia Thanh nghiến răng, bắt đầu tức giận: “Bọn em gọi nát cả máy cũng không nghe, đến nhà thì không gặp, chẳng biết đang ở nơi nào rồi.”
Cả ba đứng lặng người nhìn nhau hồi lâu, Lệ Linh cắn môi, chợt nhắc đến một người: “Mấy đứa… thử hỏi người mà Họa Niên thích chưa? Chị không biết người đó là ai, nhưng có nghe Họa Niên nhắc đến một lần.”
Người mà Họa Niên thích?
La Lịch kinh ngạc nhìn qua Gia Thanh, lại nhận ra gã không hề bất ngờ, hơn nữa còn rất bình tĩnh mà nói: “Em biết phải hỏi ai rồi.”
—
Chiều hôm ấy, sau khi tan học, Gia Thanh một mình phóng xe đến bệnh viện Thuần Ái. Nam sinh đeo cặp chéo trên lưng, bộ dạng nhếch nhác bởi mồ hôi nhễ nhại từ trên trán chảy xuống cổ. Gã xộc vào quầy trực của y tá, thở hồng hộc một hơi rồi hỏi:
“Chị ơi, cho em hỏi.”
Nữ y tá giật mình nhìn Gia Thanh, ánh mắt đề phòng cảnh giác: “Sao vậy em?”
Gia Thanh quệt mồ hôi trên mũi: “Chị cho em hỏi bác sĩ, bác sĩ mà cao cao, có đôi mắt màu đỏ ấy ạ, là bác sĩ khoa ngoại tim mạch.”
“…” Cao cao, mắt màu đỏ, khoa ngoại tim mạch…
Sau khi tổng hợp lại những đặc điểm rất chi là dễ dàng nhận biết, nữ y tá cười hỏi lại: “Em muốn tìm bác sĩ Vưu hả?”
“Ờ…” Gia Thanh không biết tên của đối phương, thuận miệng bảo “Vâng, là bác sĩ đó. Em cần gặp bác sĩ đó gấp lắm ạ.”
“Được rồi được rồi, đợi chị một chút.”
Nữ y tá đứng dậy, định nhờ một người nào đó tìm giúp bác sĩ Vưu. Không ngờ ngay khi cô vừa xoay người đã nhìn thấy anh từ đầu bên kia đang đi tới.
“Bác sĩ Vưu.” Cô vội chạy đến gần, thấp giọng nói “Có người tìm anh đấy ạ.”
Vưu Hạ mặt không cảm xúc nhìn theo ngón tay đang chỉ của nữ y tá, nhìn thấy Gia Thanh. Thoạt đầu anh không nhớ thiếu niên kia là ai, hồi sau hình ảnh một thiếu niên hay đi cùng Kỳ Họa Niên chợt hiện ra trong đầu.
Đôi mắt nghiêm lặng ấy càng lúc càng trở nên xa cách.
Gia Thanh thấy anh đi đến gần, trong lòng vui sướng hồ hởi nói: “Bác sĩ, em cần hỏi anh một chút chuyện ạ.”
Thế nhưng Vưu Hạ lại vờ như không nghe thấy, tiếp tục bước đi.
Gia Thanh từ đầu chí cuối chỉ nhìn Vưu Hạ, nhận ra anh cố ý không tiếp chuyện với mình, bản tính xốc nổi nóng nảy của gã bộc phát.
Từ sau lưng, Gia Thanh dồn sức hét lên: “Họa Niên đã mất tích rồi!”
Tiếng thét vang khắp bốn phía đại sảnh, làm cho bất kỳ ai đi ngang qua cũng phải dừng lại.
Vưu Hạ ngoảnh đầu, nhíu mày nghiêm mặt nhìn Gia Thanh.
Ấy thế mà, Gia Thanh thường ngày lá gan to như bánh xe bò kia, chốc chốc mềm nhũn như miếng bánh tráng nhúng nước, nhỏ giọng lễ phép hỏi: “Anh có biết không ạ?”