Khoảng giữa tháng mười, quần hùng tràn ngập thành Đăng phong, chở tham dự đại hội võ lâm. Chẳng một ai than phiền vì phái chờ đợi cả tháng trời.
Cổ Quí Sinh đã mở cửa bảy tòa trang viện trong thành Lạc Dương, mời họ vào trú ngụ và bao luôn ngày ba bữa cơm ngon lành. Sáng mười một, mười hai họ mới rời những tổ ấm ấy để đi Đăng Phong, cách Lạc Dương trăm dặm. Dĩ nhiên, quần hào hết lời ca ngợi tính hào phóng của Hí Nhân cư sĩ.
Nhưng Cổ Quí Sinh lại chẳng hề có mặt ở Lạc Dương mà túc trực tại thành Đăng Phong từ hồi đầu tháng mười.
Họ Cổ đã thuyết phục được hội đồng võ lâm rằng lão thanh y bịt mặt kia là đại họa của võ lâm, cần phải bị tiêu diệt bằng mọi cách, kể cả hỏa dược.
Và chắc chắn rằng lão quỷ ấy có liên quan với Kỳ Lân bang đúng như lời của Giả Đan Quỳnh đã tiết lộ. Có thể lão ta sẽ để lộ chân diện mục thượng đài tranh chức Minh chủ, hoặc hóa thân dưới lai lịch khác.
Dẫu cho không phải hai điều ấy thì sự tồn tại của một Huyền Băng Thần Quân thứ hai, sau lưng Kỳ Lân bang, cũng vô cùng tai hại cho võ lâm Trung Nguyên.
Hí Nhân cư sĩ, tức Tây Môn Giới được sự ủng hộ của Trương Thiên Sư, Hắc Bì Cái và Hạo Dương Chân Quân nên ba vị còn lại cũng phải xuôi theo.
Lần này, Tây Môn Giới cho khoét sâu ba lỗ tròn, đường kính nửa sải tay trên mảnh đất dưới gầm lôi đài. Lão thả xuống mỗi lỗ một chiếc thùng bằng đồng rất dầy, miệng thùng ngửa lên, trong chứa ba mươi cân thuốc nổ.
Nhờ có những chiếc thùng bằng đồng ấy mà sức công phá sẽ tập trung vào đúng vị trí, không hề gây hại cho Ban giám đài lẫn khán giả.
Tây Môn Giới đã thừa hưởng của Cổ Quí Sinh quyển Hỏa Dược thần kinh nên giờ đây rất lành nghề.
Hố chôn hỏa dược được lấp từ đầu tháng nên đến rằm thì mặt cỏ bên trên đã xanh trở lại, chẳng ai có thể phát hiện ra. Tây Môn Giới đã mua cả toà khách sạn bốn tầng ớ thành Đăng Phong để làm mới trú ẩn cho mình và cả thủ hạ.
Tầng trên cùng dành riêng cho người nhà, hai tầng giữa là phòng trọ còn tầng trệt là quán ăn kiêm tửu điếm.
Tây Môn Giới còn nuôi hy vọng mơ hồ rằng biết đâu kẻ thù tình cờ dẫn xác đến trọ trong Đăng phong Đệ nhất khách điếm, lúc đó hung thủ giết Tư Đồ Sảng sẽ được nếm chất độc tuyệt thế của Bát Tý Độc Vương.
Không phải Tây Môn Giới chỉ căm ghét mình lão áo xanh, mà cả Kỳ Lân bang lẫn Hải Hoa bang nữa. Ông thề sẽ tiêu diệt họ bằng bất cứ thủ đoạn nào.
Sau Đại hội võ lâm, Tây Môn Giới sẽ đưa lực lượng xuống Hồ Nam để sống mái với Kỳ Lân bang, rồi đến Hải Hoa bang. Hạo Thiên cung thì đã im hơi lặng tiếng sau cái chết của Cung chủ Lãng Song Tường.
Bảy gã Thất Tinh Hình Sứ và một số kiếm thủ nhà Tư Đồ đã trở thành tiểu nhị trong khách điếm, có nhiệm vụ chính là phát hiện lai lịch người vào trọ hoặc ăn uống.
Tây Môn Giới, Mạc Chiêu Hương, Huyết Báo và Trại Tôn Tử thì ru rú trên tầng chót, uống rượu, đánh cờ hoặc xót thương người đã khuất.
Mạc Chiêu Giương đã bình tâm trở lại với ý nghĩ rằng mình phải sống để báo thù chồng. Nàng chăm chỉ đọc quyển Bát Tý độc kinh, cố học cho được nghệ thuật giết người vô ảnh. Xế chiều ngày mười hai, Tây Môn Lục, gã thứ sáu trong Thất Tinh Hình Sứ hộc tốc chạy lên, mặt mày tái mét, run giọng báo cáo :
- Bẩm lão gia! Có một lão đeo kiếm đến mướn phòng trọ khai tên là Tề Thanh Tuyệt, sau mươi ba tuổi, quê quán huyện Thanh Oai, phủ Hứa Xương.
Gã leo một mạch lên tầng bốn bốn nên khát khô cả cổ, vòi chụp lấy rượu trên bàn nốc cạn rồi nói tiếp :
- Bẩm lão gia! Dung mạo của lão họ Tề ấy giống hệt Thiếu chủ, thân hình lão cũng cao lớn, tráng kiện!
Cả nhà giật bắn mình vì một viễn ảnh mơ hồ nào đấy! Tây Môn Giới nóng nảy hỏi :
- Ngươi thứ nói rõ ta xem nào! Có dấu hiệu gì của sự hóa trang hay không?
Tây Môn Lục gãi đầu đáp :
- Bẩm lão gia, Tề Thanh Tuyệt tóc bạc như mây xoã dài dài chứ không búi, râu quai nón bó cằm cũng trắng phau. Da mặt, da cổ, da tay đều nhăn và trổ đồi mồi rất tự nhiên! Bọn đệ tử đà quan sát kỹ càng mà không hề phát hiện điều trá ngụy.
Tây Môn Giới hiểu rõ khả năng của học trò nên hơi thất vọng :
- Vậy chắc là người giống người! Thế ngươi bố trí phòng lão ở đâu?
Tây Môn Lục kính cẩn đáp :
- Bẩm lão gia! Đệ tử đã đưa họ Tề lên tầng ba. Lãc đặt một mâm cơm chay và sẽ ăn tại phòng.
Tây Môn Giới gật gù :
- Tốt lắm! Ngươi xuống dưới làm nhiệm vụ đi! Lát nữa lão phu sẽ thử quan sát đối phương!
Tây Môn Lục đi rồi. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lên tiếng :
- Lão phu đã bấm thử một quẻ bói xem hung cát của Tư Đồ thiếu hiệp! Tượng quẻ rất kỳ lạ, có cả quỷ khí lẫn sinh khí. không sao hiểu nổi.
Tây Môn Giới nóng ruột đứng phắt dậy :
- Để lão phu xuống nhìn là rõ ngay!
Lão đang cải trang thành chủ nhân khách điếm nên có thể ung dung xuất hiện trước mọi người. Tầng ba ngay sát tầng chót. Tây Môn Giới chỉ xuống hết cầu thang gỗ là đến căn phòng đang mở rộng cửa.
Tấm lưng rắn chắc quen thuộc làm lão chấn động tâm thần, rảo bước vào chào hỏi :
Lão phu họ Hoàng, là chưởng quỹ của khách điếm này rất vinh hạnh được tiếp đón ngọc giá! Dám hỏi tôn huynh là cao nhân của giáo phái nào mà lại ăn chay?
Tư Đồ Sảng nghe giọng nói biết ngay là nghĩa phụ của mình, liền giả vờ lạnh lùng đáp :
- Tại hạ là người của Thánh Hỏa giáo, tôn giá hài lòng chưa?
Thánh Hỏa giáo tức Ma giáo, một giáo phái đã từng một thời hùng mạnh nhất võ lâm. Đến giữa thời nhà Minh thì yếu đi, chỉ còn lại vài ngàn giáo chúng ở quanh vùng núi Hoàng Sơn, thuộc phủ An Khánh.
Tây Môn Giới nghe giọng đối phương khàn khàn, già nua rất chân thực và cũng đủ thơi gian nhìn ngắm kỹ lưỡng nên chăng còn nghi hoặc, lặng lẽ bỏ lên lầu Bọn Chiêu Hương xúm lại hỏi han thì lão bực bội bảo :
- Lão họ Tề này đúng là hình dáng của Sảng nhi sau bốn mươi năm nữa! Tổ bà nó, chẳng lẽ Tư Đồ lão trang chủ có con rơi?
Lúc này Tư Đồ Sảng đã ăn xong, đóng chặt cửa, đi qua tấm bình phong gỗ vào chỗ đặt giường ngủ.
Trên giường có một nữ lang áo trắng đang ngồi bó gối đợi chờ. Bạch Phụng cười khúc khích :
- Tướng công đóng địch giỏi đấy!
Tư Đồ Sảng ngồi xuống giường thở dài bảo :
- Nhìn đôi mắt đỏ ngầu và dáng đi thiểu não của can gia, ta biết người đã rất thống khổ nên chỉ muốn thú thực.
Bạch Phụng ôn tồn can gián :
- Tướng công hãy cố ẩn nhẫn thêm một thời gian nữa. Gia phụ bảo rằng vận hạn chàng đang hồi u ám, nếu gần gũi người thân sẽ mang tai họa đến cho họ.
Tư Đồ Sảng cười buồn :
- Nàng chẳng phải ái thê của ta đấy sao?
Bạch Phụng dịu dàng đáp :
- Thiếp đã ở ngoài luân hồi, khác với loài người. Chàng quên thiếp là chồn sao?
Dường như có chút gì cay đắng, xót xa thân phận trong câu nói ấy khiến Tư Đồ Sảng bất nhẫn. Chàng kéo nàng ngồi vào lòng mình rồi hôn hít, Bạch Phụng yêu chàng say đắm, khao khát được trở thành người bình thường để làm vợ Tư Đồ Sảng mà không được nên xem trọng từng phút giây gần gũi. Nàng thè chiếc lưỡi thơm tho mềm mại, liếm mắt môi tình quân, mời gọi ái ân.
Xiêm y rơi vãi trên sàn phòng và thân thể mượt mà, tuyệt diệu của Bạch Phụng hiện ra trọng mùi hương thơm quyến rũ.
Tư Đồ Sảng từng có ba cô vợ đẹp nên không mê đắm vì nhan sắc của Bạch Phụng mà là vì tấm lòng chân thành của nàng, cũng như sắc mầu huyền ảo của mối tình yêu mị. Chàng thức ngộ rằng mình ngày càng thêm yêu mến ả hồ ly tinh này.
Chàng biết sự gần gũi, ôm ấp lâu ngày sẽ giúp Bạch Phụng đủ dương khí mà lột xác ngay cả lúc ban ngày, nên không hề tiếc sức cho những cuộc mây mưa liên tiếp, thường xuyên. Hơn nữa, Tư Đồ Sảng lại là một nam nhân có bản năng tính dục rất mạnh mẽ, xem giao hợp là điều tự nhiên, không thể thiếu.
Chàng rất biết ơn Bạch Phụng khi nàng luôn biến hóa thành Phi Tuyết hoặc Phi Hồng để chàng thỏa lòng thương nhớ.
Và đêm nay, khi tỉnh giấc vu sơn, chàng lại nghe Bạch Phụng nói :
- Tướng công! Thiếp chắc rằng Mạc Chiêu Hương đang có mặt ở tầng trên, cuối canh ba, thiếp sẽ dùng phép Mộng Du thần pháp đưa nàng xuống đây tương hội với chàng.
Tư Đồ Sảng băn khoăn đáp :
- Ta cũng rất nhớ Hương muội, song chỉ sợ có ai phát hiện thì lộ chuyện mất. Vả lại, vận mạng ta đang hồi xui xẻo, liệu có nên gần gũi Chiêu Hương hay không?
Bạch Phụng gạt bàn tay chàng khỏi ngực mình rồi ngồi lên, nói với giọng tự tin :
- Tướng công chớ lo! Thiếp đã ra tay thì không thể sơ xuất được!
Còn việc vạ lây thì gặp nhau vài lần cũng không đến nỗi nào!
* * * * *
Sáng ngày rằm tháng mười, nửa vạn hào kiệt Trung Thổ lại hội ngộ trên bình đài đỉnh núi Thấp Vô Danh Sơn, bên cạnh núi Ngũ Nhũ.
Trời Thu tháng mười không đẹp như ngày Trùng cửu. Trên cao lững lờ mây xám, cúc dại nơi bãi cỏ đã héo tàn, thôi nở hoa.
Lôi đài đã được dựng lại như mới và không còn tấm ván bít quanh chân. Quần hùng yên tâm, cho rằng chẳng ai có thể gài hỏa dược được nữa. Tuy nhiên, nếu họ chú tâm quan sát một chút sẽ nhận ra hàng ghế đầu tiên, của các bô lão, nhân sĩ, đã lùi xa lôi đài hơn trước nửa trượng.
Qua đầu giờ Thìn, quần hùng xôn xao vì sự xuất hiện của Hạo Thiên cung. Đi đầu đoàn người là một lão nhân áo vàng, râu ba chòm đen nhánh, ngũ quan đoan chính, anh tuấn và đầy nét văn nhã.
Những hào kiệt Tứ Xuyên nhận ra ngay Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh, bậc danh sư ở núi Thiên Thư, phía Bắc Phủ Quảng Nguyên, gần ranh giới Thiểm Tây.
Họ Lăng tính tình thanh đạm, lấy sách vở và cầm kỳ thi họa làm lẽ sống, nổi tiếng là người tài ba, uyên bác nhất vùng Tây Thục. Nhưng lão chưa hề giao đấu với ai nên thiên hạ không biết rõ bản lãnh võ công cao cường đến đâu.
Giờ đây, cứ xem cách đối xử cung kính của đám đệ tử Hạo Thiên cung thì người ta cũng đoán ra rằng Lăng Quân Vĩnh đã trở thành Cung chủ Hạo Thiên cung. Quần hùng vô cùng thắc mắc và có người không chịu nổi đã bước đến hỏi ngay khi Thiên Thư Tú Sĩ vừa an tọa :
- Này Lăng thí chủ! Ba năm trước bần đạo vân du đất Quảng Nguyên, từng ghé núi Thiên Thư quấy quả thí chủ mấy ngày, lòng vẫn cứ áy náy mãi! Hôm nay, thấy lại tôn nhan, bần đạo vui mừng khôn xiết, vội đến để vấn an!
Lăng Quân Vĩnh đã sớm đứng lên thủ lễ. Lão vòng tay vui vẻ đáp :
- Vài chén rượu nhạt chẳng đáng để Chân nhân phải bận tâm! Sau này có dịp, kính thỉnh Chân nhân ghé qua Hạo Thiên cung để cùng nhau đối ẩm!
Tam Dương chân nhân giả vờ kinh ngạc :
- Sao lại là Hạo Thiên cung? Chẳng hay Lăng thí chủ quan hệ thế nào với họ?
Lăng Quân Vĩnh lộ sắc buồn, ôn tồn giải thích :
- Tại hạ chính là tình lang của cố Cung chủ Lăng Song Tường và là thân phụ của Lăng Khải Trạch. Do Môn qui khắc nghiệt của Hạo Thiên cung nên tại hạ phải xa lìa thê tử, và không được nhìn nhận mối quan hệ ấy! Nay nghe tin vợ con đều chết thảm, tại hạ đành phải xuất đầu lộ diện, đảm đương cơ nghiệp Hạo Thiên cung để vong thê nơi chín suối được an lòng!
Quần hùng xôn xao bàn tán và tỏ vẻ thông cảm hoàn cảnh đáng thương của Thiên Thư Tú Sĩ. Nhưng Hí Nhân cư sĩ lại đứng lên hỏi với giọng diễu cợt :
- Này Lăng Tú sĩ! Bí mật này chỉ có Tôn giá và Lăng cung chủ biết!
Vậy tôn giá lấy gì để chứng minh thân phận ấy với đệ tử Hạo Thiên cung? Hay là Lăng cung chủ đã viết cho tôn giá giấy chứng nhận Nhất dạ Trượng phu!
Cử tọa cười ồ lên tán thành mặc dù câu nói của Cổ Quí Sinh hơi tàn nhẫn. Sau cuộc phát chẩn Thủy tai sông Hoài, danh tiếng của Hí Nhân cư sĩ và Trương Thiên Sư đã nổi như cồn, người người ca tụng.
Thiên Thư Tú Sĩ không hề lộ sắc giận điềm đạm đáp :
- Cổ lão huynh thắc mắc cũng phải! Nhưng thực ra việc chứng minh mối quan hệ kia chẳng hề khó khăn vì tại hạ chính là kẻ đã dạy cho vong thê công phu Lô Hỏa thần chỉ!
Toàn trường kinh ngạc, không ngờ Lăng Quân Vĩnh lại khéo giấu bản lãnh như vậy! Lão dám dạy nghề cho Lăng Song Tường thì bản thân phải đạt trình độ cao hơn!
Đúng lúc này, phái đoàn Hải Hoa bang tiến vào khiến mọi người chú ý mục tiêu mới. Họ hơi ngạc nhiên khi chỉ thầy một mình Bang chủ Giáp Vô Yên thống lĩnh đệ tử chứ không có Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc.
Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân cư sĩ muốn nắm rõ cục diện võ lâm nên bước đến chào và vui vẻ hỏi :
- Giáp bang chủ! Vì sao lệnh sư không có mặt ở thịnh hội này? Phái chăng Tiên ông pháp thể bất an sau lần chạm trán lão thanh y Mông Diện ở Đại Hồ sơn?
Giáp Vô Yên nghiêm nghị đáp :
- Đa tạ Cổ cư sĩ đã có dạ quan hoài! Gia sư vẫn khang kiện nhưng chán cảnh hồng trần nên tìm đảo hoang yên tịnh và ẩn tu rồi!
Hí Nhân cư sĩ nói giả lả :
- Thiện tai! Thiện tai!
Rồi ông quay về chỗ ngồi, lòng thắc mắc vì sao Kỳ Lân bang chưa đến, dù đã đến giờ khai mạc Đại hội?
Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, thượng đài nói qua loa về mục đích của đại hội võ lâm và công bố danh sách ban giám khảo. Lần này, ngoài sáu vị Chưởng môn còn có thêm bậc danh sĩ đất Tín Dương là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, ân nhân của mấy chục vạn tai dân vùng phía Bắc sông Hoài! Tất nhiên, quần hùng đồng thanh tán thành và còn cất lời ca ngợi bậc Đại thiện nhân!
Bảy vi giám đại cúi chào khán giả rồi tựu vị. Sau đó, Đàm Vân Tử tiến hành thủ tục đăng ký danh sách ứng cử viên. Người đầu tiên lên báo danh Hải Hoa bang chủ Giáp Vô Yên, kế đến là tân Cung chủ Hạo Thiên cung, Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh.
Quần hùng rất phấn khởi, cho rằng cuộc chạm trán giữa hai đại cao thủ này sẽ vô cùng quyết liệt và hấp dẫn.
Nhưng người thứ ba đã làm cho họ phải ôm bụng cười bò! Ứng viên này là một nhà sư áo vàng cao lêu nghêu, đầu đội mũ dẹp, chóp mũ viền những chùm tơ, trông như bờm lừa! Nhờ vậy, người ta mới biết vị Hoà Thượng ấy là một nhà sư Tây Tạng!
Ông ta tuổi độ bốn mươi, da đen sạm, mang đủ tướng Ngũ lộ, song không có nét gì thông thái trí tuệ, như đức Khổng Phu Tử và ngược lại, nghĩa là kẻ ngốc nghếch hiện ra lỗ lộ!
Nhưng chẳng ai nhẫn tâm cười cợt những người có dung mạo khờ khạo như thế. Quần hùng cười vì hành vi của vị khách phương xa.
Thay vì đường bệ nện gót trên những cầu thang gỗ mà thượng đài thì nhà sư Tây Tạng ấy lấy đà, tung mình nhảy lên để khoe tài! Khổ thay, khi đáp xuống sàn gỗ, nhà sư lại ngã chỏng gọng, dơ bốn vó lên trời, trước cái cảnh vẽ Hổ thành Chó ấy ai mà chẳng tức cười?
Vị Tạng tăng xui xẻo ấy gượng ngùng đứng dậy xoa mông, toét miệng cười hề hề và phân bua bằng tiếng Bắc Kinh ngượng nghịu nhưng giọng nói vang rền như chuông đống :
- A di đà Phật! Bình thường bần tăng chẳng bao giờ bị ngã cả! Song hôm nay, bần tăng quên mình là đang cõng cái của nợ nặng hai mươi cân trên vai nên bị nó làm cho mất thăng bằng.
Nói xong, ông ta tháo tay nải nơi vai trái xuống, đưa lên cao để chứng minh. Đương nhiên, quần hùng chẳng hề biết trong bọc hành lý bằng vuông vải màu đen ấy có cái gì và nặng hay nhẹ? Họ chỉ nhìn thấy bàn tay như nải chuối cùng với đoạn cẳng tay to khoẻ. Té ra nhà sư này có khung xương rất lớn nên dù người không béo mập mà dáng vóc vẫn lực lưỡng. Xương to là biểu hiện của một sức khoẻ bẩm sinh.
Quần hùng đang định đòi nhà sư thích khoe mẽ kia trương ra cái gọi là của nợ nhưng Đàm Vân Tử đã lên tiếng trước, ông tủm tỉm bảo :
- Phiền Đại sư báo danh tính, niên kỷ và sư thừa để bần đạo ghi chép.
Vị Tạng tăng lộ vẻ đắc ý, thay vì nói với Đàm Vân Tử thì lại quay xuống nhìn cử toạ :
- A di đà Phật! Kính cáo toàn thể anh hùng hào kiệt Trung Nguyên, bần tăng chính là một thiền sư đạo hạnh cao thâm của chùa Bố Đà La Thành Lã Sa. Năm nay bần tăng vừa tròn tứ thập và xuất gia đã hơn bốn mươi năm.
Nghe đến đây, cử tọa không còn nhịn nổi, vừa cười vừa thét lên :
- Nói láo!...
Vị Tạng tăng ngơ ngác hỏi lại :
- Bần tăng suốt đời không dám vong ngữ, sao chư vị thí chủ lại nói oan cho bần tăng như thế?
Một người ngồi ở hàng ghế đầu bực bội đứng lên mắng :
- Con bà nó! Hòa thượng ngươi bảo rằng mới tròn tứ thập thì sao lại có thể xuất gia đã hơn bốc chục năm?
Nhà sư Tây Tạng thản nhiên giải thích :
- Té ra chư vị thí chủ thắc mắc về điểm ấy! Bần tăng dám nói như thế vì gia phụ là hòa thượng còn gia mẫu là ni cô, họ lấy nhau mà sinh ra bần tăng. Do đó, ngay từ lúc còn là bào thai, bần tăng đã ở đong chùa rồi, có thể gọi là xuất gia từ trong bụng mẹ.
Quần hùng ôm bụng cười đến nôn ruột, chẳng khác gì Đại hội năm ngoái có gã dốt Triển Phi Hoan.
Đàm Vân Tử cố nín cười, tằng hắng rồi bảo :
- Phiền Đại sư báo ngay danh tính và pháp hiệu, đừng làm mất thì giờ của Đại hội nữa.
Như kẻ háo danh có cơ hội đứng trước đám đông, nhà sư Tây Tạng chẳng hề gấp gáp, tiếp tục dài dòng huênh hoang với cử tọa :
- Kính cáo chư vị thí chủ! Bần tăng tu hành từ trong bụng mẹ nên không có tục danh, chi có pháp danh là Thiện Đề đại sư. Nhưng là người võ nghệ cao cường nên bần đăng đã chọn cho mình một mĩ hiệu là “Thần Phủ Lang Quân!”.
Lập tức, mấy ngàn hào kiệt trẻ tuổi đùng đùng nổi giận, ngoác miệng chửi rủa Thiện Đề. Sau khi giết Hạo Thiên cung chủ Lăng Song Tường và bị ám toán chết oan dưới vực sâu. Tư Đồ Sảng đã trở thành thần tượng của lớp thanh niên trong võ lâm. Họ ca ngợi chàng và vô cùng thương tiếc! Nay có kẻ đám xúc phạm đến Tư Đồ Sảng, bằng cách chiếm đoạt danh hiệu bảo sao mọi người không tức tối!
Thiên Đề sợ hãi và hoang mang. Chẳng hiệu vì sao, cứ trố đôi mắt lồi ra nhìn cứ tọa với vẻ ngạc nhiên tột độ?
Đàm Vân Tử vội ra hiệu cho quần hùng im tiếng rồi nghiêm nghị hỏi Thiện Đề :
- Bần đạo muốn biết vì sao đại sư lại chọn mĩ hiệu “Thần Phủ Lang Quân”?
Thiện Đề thản nhiên đáp :
- Bần tăng đùng búa làm vũ khí! Dứt lời, gã mở tay nải, lấy ra chiếc túi da hươu hình tròn, trong chứa một khối thép đen sì. Gã loay hoay một lúc thì khối thép hóa thành một cây búa hai lưỡi rồi dơ cao lên.
Đàm Vân Tử thảng thốt hỏi lớn :
- Vì sao đại sư lại có cây Giáng Ma phủ này?
Quần hùng cũng nghe rõ nên rất kinh ngạc, lắng nghe nhà sư Tây Tạng giải thích. Thiện Đề dường như đã lấy lại sự tự tin, nói oang oang :
- Kính cáo chư vị thí chủ? Thanh Giáng Ma Thần Phủ này vốn là bảo vật của Bố Đà La Tự, bị một cao thủ người Hán là Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng lấy trộm đã hơn trăm năm. Sau này, Thần Phủ thuộc về cháu ngoại năm đời của Võ Hồng là một vị thí chủ họ Tư Đồ! Trưởng lão Bổn tự, Trát Thập thiền sư, nhờ Phật Tổ giáng mộng mà biết được việc ấy, vào Trung Thổ truy tìm và gặp được Tư Đồ thí chủ. Vị thí chủ nọ là người chính trực nên đã hoàn trả Thần phủ cho bổn tự.
Trương Thiên Sư liền ngắt lời Thiện Đề :
- Bần đạo xác nhận là có chuyện đó! Nhưng ngày ấy Trát Thập thiền sư bảo rằng Pháp bảo của nhà Phật phải được đem về gắn vào bàn tay của pho tượng Kim Cương, đặt cạnh cửa chính đại điện. Vậy, nay vì lẽ gì mà Đại sư mang vào Trung Nguyên làm vũ khí tùy thân?
Quần hào nghe xong càng bội phần cảm phục nhân cách của Tư Đồ Sảng. Trăm năm là quãng thời gian khá dài, đủ để chàng từ chối không hoàn trả bảo vật. Trong khi, Thần Phủ lại là vũ khí thành danh của chàng!
Thiên Đễ lộ vẻ bẽn lẽn, ấp a ấp úng :
- Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng bị đuổi khỏi Bố Đà La Tự, chẳng biết đi đâu nên lần vào Trung Thổ. Bần tăng rất uất ức vì bị kết án oan nên lấy trộm thanh Giáng Ma Thần Phủ, đem giao lại cho Tư Đồ thí chủ để kiếm vài trăm lượng làm vốn mưu sinh! Nào ngờ, khi đến Lạc Dương thì nghe tin y đã từ trần, lòng vô cùng thương xót. Bần tăng liền nảy ra ý định kế nghiệp Tư Đồ thí chủ mà giáng ma vệ đạo. Sẵn dịp có đại hội võ lâm này, bần tăng quyết lên làm Minh chủ để thanh danh của Thần Phủ Lang Quân được rạng rỡ.
Sắc diện của Thiện Đề rất thành thực khiến mọi người cảm động, không còn ghét gã nữa.
Đàm Vân Tử cười hỏi :
- Thế Đại sư đã phạm lỗi gì mà bị Bố Đà La Tự trục xuất vậy?
Thiện Đề bị hàm oan nên giờ đây tức tối biện bạch :
- Bẩm lão Đạo trưởng! Bần tăng làm phúc mà phải tội! Hôm rằm tháng ba, khách thập phương đến lễ chùa rất đông, xả rác bừa bãi. Bần tăng thấy thế liền mang chổi ra quét sân. Nào ngờ, có một nữ thí chủ đi ngang qua, vô ý vấp phải chổi mà ngã xuống, bần tăng sợ nạn nhân bể đầu, vì sàn chùa lát toàn đá núi, nên buông chổi đỡ lấy! Chỉ có thế mà các tăng lữ trong chùa kết tội bần tăng phạm sắc giới, thế có ức không chứ?
Đàm Vân Tử cau đôi mày bạc :
- Lạ thực! Chẳng lẽ chư tăng ở quí tự lại hẹp hòi đến thế sao?
Ông chợt nhận ra vẻ lấm lét của đối phương, liền hỏi thêm :
- Đại sư hãy kể rõ xem đã đỡ người bị nạn như thế nào?
Thiện Đề khổ sở đưa hai tay đặt lên vú mình rồi ngượng ngùng biện bạch :
- Bần tăng chẳng hề cố ý nhưng không hiểu sao song chưởng lại chụp trúng phóc hai quả tuyết lê to tướng của vị nữ thí chủ ấy.
Nửa vạn người phá lên cười sặc sụa, không sao nín được. Cả những bậc trang nghiêm, đạo mạo cỡ Phương trượng Thiếu Lâm tự hay Chưởng môn nhân phái Võ Đang cũng vậy.
Đàm Vân Tử ôm bụng thở hổn hển, vừa cười vừa nói đứt đoạn :
- Được rồi! Đại sư có... thể hạ... đài!
Thiện Đề xuống rồi, những thí sinh khác tiếp tục đăng ký. Đến giữa giờ Thìn thì Ban giám khảo đã chọn ra được ba mươi tám đối thủ đủ tư cách đạo đức chưa hề có tiếng xấu. Người thứ ba mươi tám chính là Tề Thanh Tuyệt, một kẻ vô danh tiểu tốt chưa hề được ai biết đến.
Hí Nhân cư sĩ, tức Tây Môn Giới vô cùng thất vọng khi nhận ra trong ba mươi tám ứng viên kia không ai có thể là lão áo xanh bịt mặt cả. Tuy nhiên, phải chờ đến lúc họ giao đấu thì mới có thể khẳng định được. Kẻ nào thi triển Ngưng Huyết Huyền Băng thần chưởng sẽ chính là hung thủ! Sự xuất hiện bất ngờ của Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh có vẻ đáng nghi. Nhưng lão ta lại giỏi môn Lô Hỏa thần chỉ, một loại công phu hoàn toàn trái ngược với Huyền Băng chân khí! Hơn nữa, người áo xanh đã từng bị lăng Song Tường và bốn vị Thiên Long vây đánh chí chết ở Đại Hồ sơn!
Riêng Tư Đồ Sảng, tức Tề Thanh Tuyệt, nghĩ gì mà lại đăng ký thượng đài? Phải chăng chàng muốn trở thành Minh chủ võ lâm? Thực ra, nguyên nhân là Tư Đồ Sảng đã sinh lòng nghi ngờ Thiên Thư Tú Sĩ.
Trước khi rơi xuống vực thẳm chàng đã đối diện với Thanh Y Nhân và suốt đời không quên được cặp mắt của lão ta!
Giờ đây, vóc dáng và cặp mắt của Lăng Quân Vĩnh cũng tương tự khiến chàng phải cảnh giác? Hơn nữa, chàng đã từng được nghe sư phụ là Ly Giang Tiên Ông nhận xét về Thiên Thư Tú Sĩ: “Gã họ Lăng này thông minh tuyệt thế, cơ trí thâm trầm như biển lớn, có thể trở thành bậc kỳ nhân, nhưng cũng có thể là một đại ác nhân! Sau này, nếu ngươi thấy y xuất đầu lộ diện thì phải tiểu tâm đề phòng!”
Tiên Ông một lòng vì sự thanh bình của võ lâm nên trước khi tọa hóa đã điểm mặt những tai họa tiềm ẩn cho học trò được rõ. Ông biết rằng khi mình vắng bóng thì tà ma sẽ nhất tề trỗi dậy.
Tư Đồ Sảng đăng ký xong bước xuống đất. Chàng nhận ra chiếc ghế dựa bên cạnh Huyết Báo không người ngồi liền thản nhiên an tọa! Mé bên kia họ Liễu chính là Mạc Chiêu Hương.Với danh phận là vợ góa của Thần Phủ Lang Quân, nàng được mọi người trọng vọng, dành cho một ghế danh dự. Huyết Báo là sư huynh kiêm vệ sĩ của nàng nên cũng chiếm một ghế. Còn vị trí mà Tư Đồ Sảng đang chễm chệ là của Hí Nhân cư sĩ. Lão được mời làm giám khảo nên ghế bỏ trống.
Liễu Mộ Hào đã mấy lần chạm mặt Tề Thanh Tuyệt trong Đăng Phong Đệ Nhất khách điếm nên cũng có thể gọi là quen. Có lẽ vì họ tề giống Tư Đồ Sảng nên huyết báo bất giác có cảm tình, mặc dù song phương chưa hề nói chuyện hoặc cười đùa với nhau. Tề Thanh Tuyệt mặt lạnh như tiền, chẳng bao giờ cười cả.
Hôm nay, thấy họ Tề ngồi bên cạnh mình, Huyết Báo lặng thinh, không lưu ý đến. Vả lại, trận đấu khai mạc đại hội đã bắt đầu. Cũng như năm ngoái, ban giám khảo đã cho hai đấu thủ sừng sỏ nhất đánh trận đầu. Đó là Cung chủ Hạo Thiên cung Lăng Quân Vĩnh và Hải Hoa bang chủ Giáp Vô Yên.
Họ Lăng áo vàng, họ Giáp áo đen, đôi bên đều đẹp lão, râu ba chòm oai vệ, ra dáng quân sư. Quân Vĩnh dùng kiếm, Vô Yên sử dụng đao, hai loại vũ khí đứng đầu trong làng binh khí.
Lăng Quân Vĩnh sáu mươi lăm tuổi còn Giáp Vô Yên sáu mốt nên họ Giáp được quyền xuất thủ trước.
Quần hùng rất hồi hộp, không hiểu công phu Tán Kình trảo pháp ở tay tả Vô Yên có chống lại được Lô Hỏa thần chỉ hay không? Năm ngoái, tuyệt học của Định Phương chân nhân đã gần như vô hiệu hóa được Ngưng Huyết Băng thần chưởng của Tần Cốc Lý. Và lần ấy, nếu không có vụ nổ hỏa dược thì họ Giáp đã trở thành Minh chủ rồi.
Nhưng hiện tại, Thiên Thư Tú Sĩ vẫn chưa thi thố thần chỉ mà dùng một pho kiếm pháp ảo diệu và lạ mắt để đối phó với Cửu Huyền đao pháp của Vô Yên.
Lạ mắt vì bảo kiếm của Lăng Tú Sĩ mạ vàng sáng như gương. Kiếm quang rực rỡ dưới nắng thu, chớp lên những vệt kiếm ảnh thon dài tựa lá liễu vậy.
Chỉ có Tư Đồ Sảng và các bậc cao niên mới biết đấy là pho Kim Liễu kiếm pháp của Diệp tiên sinh đất Giang Nam, thời Bắc Tống.
Tuyệt học này đã thất truyền trước khi quân Mông Cổ chiếm được Khai Phong, vậy mà, không hiểu sao Lăng Quân Vĩnh lại học được. Hậu thế chẳng thể biết Kim Liễu kiếm pháp lợi hại đến dường nào, chỉ nghe truyền thuyết rằng thuở ấy Hoàng Diệp tiên sinh chưa hề gặp kiếm thủ xứng tay.
Giờ đây, khi xem Lăng Quân Vĩnh thi triển, mọi người mới hiểu cha ông nói chẳng hề sai. Kim Liễu kiếm pháp không chỉ đẹp mắt nhờ ánh hoàng kim chói lọi mà còn lợi hại phi thường.
Những chiếc lá liễu vàng óng như bị gió thu thổi bay vế phía Giáp Vô Yên, bao trùm cả thượng hạ tả hữu, chẳng chỗ nào không có! Chúng liên tục chạm vào màn đao quang xanh biêng biếc, tìm một chỗ sơ hở mà len qua!
Quần hùng ngây ngất chiêm ngưỡng, thứ kiếm sang cả mà diễm lệ ấy miệng trầm trồ tán thưởng. Bọn tiền bối cao niên, kiến văn uyên bác, càng bội phần thán phục Lăng Quân Vĩnh vì nhận ra rằng phép khoái kiếm của họ Lăng đã đến mức thượng thừa. Đường gươm của lão ta phải thật nhanh mới dệt nên được màn kiếm ảnh dầy đặc đến thế!
Nhưng ngược lại, người ta cũng phải tắc lưỡi khen dồi trước đao pháp thần sầu quỉ khốc của Giáp Vô Yên. Rõ ràng là họ Giáp đã đạt đến tinh túy của Cửu Huyền đao pháp, trình độ chẳng kém gì Nam Hải Tiên Ông.
Đường đao của lão ta trầm ổn, kín đáo và mãnh liệt như sóng dữ biển Nam. Giáp Vô Yên ung dung giải phá những chiêu kiếm diêm dúa của đối thủ, khiến muôn ngàn chiếc lá liễu rụng rơi như chạm phải bức tường thành kiên cố vậy!
Đao nặng nề và chỉ sắc một bề nên tư thế của người đánh đao uyển chuyển, hơn người cầm kiếm. Đao thủ thường phải uốn mình, dùng cả sức của vai và lưng thì lực đạo của đường đao mới xứng với lời khen tặng của TàoThực, con trai Tào Tháo thời Tam Quốc. Trong bài Ngọc Đao Phú. Tào Tử Kiến đã có câu tả uy lực của Đao như sau: “Trên bộ chém được voi, tê giác. Dưới nước chặt được cả thuyền rồng!”
Do đó, tư thế, dáng điệu của người đánh đao rất oai vệ, dũng mãnh, tấn công thì như rống thiêng múa vuốt, phòng thủ thì tựa mãnh hổ thu mình.
Việc Giáp Vô Yên tăng tiến về mặt đao pháp không làm cho Hội đồng võ lâm kinh ngạc bằng lớp cương khí xanh nhạt đang bao quanh cơ thể lão ta! Hiện tượng ấy chứng tỏ tu vi của họ Giáp còn cao hơn cả Nam Hải Tiên Ông.
Lần này, để phá kế thay mận đổi đào Ban giám khảo đã thực hiện thủ tục khám xét các ứng viên lâm trận. Về danh nghĩa thì là kiểm tra, xem họ có lén mặc bảo y, áo giáp hay không, song đồng thời tạo điều kiện để Tây Môn Giới, trong vai Hí Nhân cư sĩ, giáp mặt quan sát mà tìm dấu vết hóa trang! Tây Môn Giới là tổ sư trong nghề dịch dung, đã khẳng định rằng Giáp Vô Yên là thực.
Nhưng việc Nam Hải Tiên Ông đột ngột ẩn cư đã khiến Tây Môn Giới nghi ngờ, ông xuất thân Hắc Đạo nên hiểu rõ lòng dạ và thủ đoạn của kẻ ác. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói nhỏ với sáu vị Chướng môn :
- Lão phu đoán rằng Nam Hải Tiên Ông tự lượng không địch lại người áo xanh bịt mặt nên đã hi sinh tính mạng, truyền cho Giáp Vô Yên vài chục năm công lực, chỉ có giả thuyết ấy mới giải thích được lý đo vì sao hiện nay họ Giáp sở hữu đến hơn hoa giáp tu vi.
Trương Thiên Sư nghi hoặc hỏi lại :
- Lẽ nào một kẻ tham lam danh vọng và quyền lợi như Ninh Hoàng Lạc lại dám hi sinh vì người khác như thế?
Tây Môn Giới mỉm cười :
- Lão phu đã điều tra ra một bí mật kinh người! Giáp Vô Yên là cháu gọi Ninh Hoàng Lạc là cậu ruột, nhưng Vô Yên còn là con của Nam Hải Tiên Ông. Thủ hạ lão phu tình cờ gặp được nhũ mẫu của Vô Yên mới biết rằng Ninh lão quỉ loạn luân với bào muội.
Sáu vị Chưởng môn lắc đầu thở dài, ngao ngán cho luân thường đạo lý suy đồi.
Nhắc lại, Thiên Thư Tú Sĩ đã đem hết pho Kim Liễu kiếm pháp ra sử dụng mà không thắng nối Giáp Vô Yên nên bắt đầu thi triển Lô Hỏa thần chỉ.
Từ trong đám kiếm ảnh hình lá liễu vàng vọt kia bỗng bắn ra một đạo chỉ phong xanh biếc tựa lửa lò rèn. Nghĩa là, Lăng Quân Vĩnh đã đạt đến cảnh giới Lô Hỏa Thuần Thanh, chỉ kình từ đỏ chuyến thanh xanh, có thể làm mềm cả sắt.
Tuy đã cảnh giác đề phòng từ đầu trận mà Hải Hoa bang chủ vẫn thất cơ! Theo bản năng, Giáp Vô Yên dùng bàn tay tả thi thố Tán Kình trảo pháp đế hóa giải đạo Lô Hỏa thần chỉ của đối phương, che chở cho vùng ngực trái. Nào ngờ, bản lãnh họ Lăng cao thâm hơn cố Cung chủ Hạo Thiên cung Lăng Song Tường vài bậc nên luồng chỉ phong này như mũi dùi thép nóng bỏng, phá vỡ lực tán kình, xuyên thủng lòng bàn tay Vô Yên.
Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến Giáp Vô Yên choáng váng, khiếp sợ phải tung mình nhảy về phía sau. Nhưng lão chẳng cam tâm nhận bại, quyết lợi dụng ưu thế vế vũ khí mà chiến đấu đến cùng. Pho Cửu Huyền đao pháp của lão có uy lực hơn hẳn Kim Liễu kiếm pháp của đối phương.