Đêm ấy, Cận Tịch thấy tôi không dùng bữa liền bưng một bát ngân nhĩ tới, ôn tồn khuyên nhủ: “Nương nương tốt xấu gì cũng nên ăn một chút, kẻo lại hại đến thân”, sau đó lại khẽ thở dài buồn bã. “Vương gia có thể bình yên quay về tất nhiên là chuyện tốt, có điều… ông trời thực cố ý trêu ngươi.”
Hoán Bích ôm gối ngồi cạnh giường, nụ cười bên khóe miệng đã bị thay thế bằng những nỗi âu sầu và lo lắng vô tận trong đôi mắt. “E là Vương gia đang thương tâm lắm. Tiểu thư…” Muội ấy nhìn tôi, khóe miệng hơi máy động, rốt cuộc không nói gì thêm nữa.
Tôi cầm đũa gảy nhẹ mấy miếng ngân nhĩ trắng ngần trong bát, cảm thấy con người chẳng khác gì ngân nhĩ, bị mặc ý đùa bỡn, căn bản không có lấy một chút tự do. Một hồi lâu sau, tôi khẽ nói: “Ta đâu phải không biết muội rất muốn ta đi khuyên nhủ y, nhưng việc đã tới nước này rồi, giải thích thì có ích gì? Cho dù y biết được những nỗi khó xử kia của ta, chẳng lẽ còn có thể vãn hồi mọi chuyện?”
Hoán Bích dè dặt đưa mắt liếc tôi. “Thất nhật thất hồn tán hiện vẫn ở chỗ Cận Tịch…” Ngập ngừng một chút, muội ấy cắn môi nói tiếp: “Nếu tiểu thư uống vào, mặc kệ là thánh chỉ hay gì khác đều không cần để tâm tới nữa.”
Lòng tôi thầm máy động, không kìm được đứng bật dậy, nhưng ngay sau đó đã lập tức cả kinh. “Ta giờ đã là phi tử được sắc phong, còn y thì là sứ giả sắc phong, nếu ta qua đời vì bạo bệnh, sao y có thể thoát khỏi mối liên quan? Ngay đến muội và Cận Tịch cũng sẽ mắc tội hầu hạ không chu đáo.” Tôi ủ rũ ngồi xuống, đưa tay chống cằm. “Ta đã không còn là một phế phi chẳng ai thèm quan tâm đến nữa rồi, một khi ta mắc bệnh, Hoàng thượng nhất định sẽ phái rất nhiều thái y đến thăm khám, tới lúc đó Ôn Thực Sơ cũng sẽ bị liên lụy. Hơn nữa, hiện giờ ta có bao nhiêu người không thể vứt bỏ chứ?” Nói xong, lòng tôi lại càng phiền muộn, chỉ biết nắm chặt chiếc khăn tay mà im lặng.
Hoán Bích dường như còn có chút không cam tâm. “Tiểu thư…”
“Trong thiên hạ này không chỉ có mình Vương gia là đáng để bận lòng, Bích cô nương thử nghĩ đến Cố Giai Nghi xem.” Cận Tịch đưa tay xoa nhẹ lưng tôi, ôn tồn nói: “Nương nương ngàn vạn lần chớ nên tự làm mình rối loạn, mà hãy tự vấn lại xem, nương nương có thể vứt đạo thánh chỉ đó qua một bên, không thèm để ý tới không? Nếu nương nương cảm thấy có thể buông bỏ tất cả, vậy nô tỳ sẽ lập tức đi thu dọn hành lý cho nương nương, bất kể là chân trời góc bể gì cũng chỉ cần đi theo Vương gia là được, dù sau này có bị bắt và ban cho cái chết thì hãy cứ vui vẻ sống những ngày được sống trước đã, coi như không uổng kiếp này. Còn nếu nương nương để tâm tới sức nặng của đạo thánh chỉ đó, vậy thì cần phải suy nghĩ thật kĩ rồi hẵng hành động.”
Đó là một cuộn giấy lụa màu vàng mỏng manh, bên trên có bức hình lưỡng long tranh châu được thêu bằng chỉ xanh và chỉ vàng, mỗi đường nét đều vô cùng sống động, thể hiện rõ sự uy nghi của hoàng gia. Nội dung bên trong chỉ có mấy hàng chữ Khải ngắn ngủi, nhưng vì muốn thể hiện sự trịnh trong nên mỗi một chữ đều là Huyền Lăng chính tay viết chứ không phải do quan viên bộ Lại thay bút. Đầu ngón tay tôi lướt nhẹ qua, bất giác run lên khe khẽ, bên trong đó chỉ có mấy hàng chữ ngắn ngủi, vậy nhưng lại ấn định vận mệnh cuộc đời tôi, nếu muốn quay đầu, nếu muốn lùi bước… Đôi mắt tôi chừng như sắp nhỏ máu đến nơi.
Cận Tịch nắm lấy bàn tay tôi, nhìn qua phía Hoán Bích, rồi lại nhìn tôi. “Sự lo lắng của Bích cô nương không phải là không có lý, Vương gia thương tâm như vậy, lại đang trong cơn giận dữ, có một số lời nương nương không thể nói được, nhưng có một số lời nếu nói ra ít nhiều gì cũng có thể khiến Vương gia bớt đau lòng hơn, đồng thời cắt đứt tình cảm với nương nương. Bằng không sau này mà gặp mặt trong cung, hai bên ắt sẽ đều vô cùng khó xử, việc gì phải như vậy chứ.”
Hoán Bích đẩy cửa sổ ra, một làn gió đêm đột ngột thổi vào mang theo ánh trăng lạnh toát. Muội ấy tựa người bên cửa sổ ngắm trăng, rặng núi trập trùng phía xa như một con thú lớn đang rình rập, chỉ chờ nuốt chửng người ta vào bụng. Hoán Bích chợt khẽ thở dài một tiếng, bên trong chan chứa nỗi thê lương. “Lúc này chắc Vương gia đang thương tâm lắm!”
Tôi ngẩn ra, nếu thật sự được như lời Cận Tịch, y có thể cắt đứt tình cảm với tôi, có lẽ sẽ không còn thương tâm nữa.
Tôi đột nhiên ngoảnh đầu nhìn Hoán Bích chăm chú, khẽ nói: “Hoán Bích…”
Sau khi Lý Trường truyền chỉ, bên ngoài chùa Cam Lộ đã có mấy chục binh sĩ canh gác. Cận Tịch sớm đã dặn dò người bên ngoài rằng Hoán Bích phải tới đỉnh Lăng Vân mang một ít đồ cũ về đây.
Hoán Bích đi rồi trở lại, mang theo một bọc đồ lớn. Cận Tịch tiện tay mở ra, sau đó liền ghé tới bên cửa sổ mà cau mày nói lớn: “Cô nương làm sao vậy, có đi lấy chút đồ thôi mà cũng không đúng. Nô tỳ nhờ cô nương đi lấy mấy bộ đồ mặc trong mùa hè của nương nương, vậy mà cô nương lại mang về quần áo của mùa đông, thật đúng là…”
Hoán Bích có chút giận dỗi, cũng lớn tiếng nói: “Không phải chỉ là lấy nhầm chút đồ thôi sao? Ta đi thêm chuyến nữa là được chứ gì”, sau đó liền ghé tai tôi, nói khẽ: “Nô tỳ đã mời Vương gia tới chờ bên bờ sông rồi, tiểu thư mau đi đi.”
Tôi khoác lên người chiếc áo choàng mà Hoán Bích mặc vừa rồi, lại để xõa tóc như một người đang giận dỗi, hậm hực chạy ra ngoài. Tôi và Hoán Bích vốn có vóc dáng tương tự nhau, lúc này trời lại đang tối mịt, đám thị vệ bên ngoài biết Hoán Bích là thị nữ hầu cận của tôi nên tất nhiên không ngăn cản, để mặc cho tôi rời đi.
Con đường tới bờ sông tôi đã đi qua vô số lần, nhưng chưa từng có lần nào khó khăn như hôm nay. Từng làn gió đêm thổi tới khiến chiếc áo choàng bay lất phất, trái tim tôi không ngừng đập thình thịch, lúc này tôi vừa muốn được gặp y ngay, lại vừa chẳng có mặt mũi nào để gặp y cả.
Gặp một lần thì thương tâm một lần, đời người chính là như vậy, có lúc gặp nhau còn chẳng bằng không gặp.
Ngay từ xa đã nghe thấy tiếng nước sông chảy rì rào, đưa mắt nhìn đi, bóng dáng y dưới vầng trăng vằng vặc toát ra một vẻ cô độc tột cùng, xiết nỗi tang thương.
Trong khoảnh khắc nhìn thấy y, tự đáy lòng tôi bỗng trào dâng muôn vàn hồi ức ngọt ngào, đã có biết bao lần y chờ tôi như thế. Chỉ là, tư thế của y trong những lần đó chưa bao giờ giống như hôm nay.
Khuôn mặt y vốn vô cùng ảm đạm, nhưng vừa nhìn thấy tôi đã lập tức sáng bừng, như một ngọn lửa lớn đột ngột được thắp lên, sau nháy mắt đã chiếu rọi tới tận chân trời. Y bước mấy bước lên phía trước, thở phào một hơi nhẹ nhõm. “Nàng rốt cuộc vẫn chịu gặp ta.”
Tôi lạnh lùng nói: “Thấy ngài bình an, ta mới có thể không thẹn với lòng, rồi sau đó yên tâm về cung.”
Y thoáng ngây ra một chút, nụ cười dần trở nên nguội lạnh. “Chỉ vì thế thôi sao?”
Cố nén nỗi đau đớn trong lòng, tôi khẽ cười, nói: “Bằng không Vương gia nghĩ vì chuyện gì mà ta phải đến đây vào lúc nửa đêm thế này?”
Y nhìn tôi chăm chú, ánh mắt chưa từng rời khỏi tôi. “Xa nhau lâu ngày như vậy, nàng không hỏi xem ta đã đi những đâu sao?”
“Điều đó quan trọng lắm ư?” Tôi cố tỏ vẻ hờ hững để kéo dãn khoảng cách giữa tôi và y. “Sau khi ta về cung, có lẽ Hoàng thượng sẽ rất vui lòng kể với ta chuyện này. Huống chi dù có hỏi hay không, ta và ngài đều không thể thay đổi được gì. Mọi việc giờ đã ngã ngũ, có thể nhìn thấy ngài bình yên đứng ngay trước mắt, ta cũng không còn gì vương vấn nữa rồi.”
Đôi mắt ảm đạm của y bỗng hơi lóe sáng, tựa như có một ngọn lửa bùng lên. “Ta bình yên vô sự nàng mới không còn điều gì vương vấn nữa, vậy tức là khi ai cũng ngỡ rằng ta đã chết, nàng hẳn đã ngày đêm lo lắng cho ta đúng không? Hoàn Nhi…”
Lòng tôi thầm hoảng hốt, chỉ mong có thể trốn biệt vào trong chiếc áo choàng, đồng thời vội vàng xoay người né tránh y. “Từ lâu đã nghe nói Vương gia hay cả nghĩ, hôm nay ta mới biết đó là sự thực.”
Y nôn nóng nói: “Hoàn Nhi, hai ta sớm đã lòng thấu hiểu lòng, hôm nay nàng đột ngột về cung, lại cố ý tỏ vẻ lạnh nhạt với ta. Hoàn Nhi…”
Lúc này đang là đầu hạ, hoa đồ mi nở rộ như những đám mây trắng xóa. Hoa đồ mi còn có tên khác là Phật kiến tiếu, do đó được trồng rất nhiều ở khu vực xung quanh chùa Cam Lộ, dưới màn đêm dìu dịu lúc này, những khóm hoa mọc khắp núi non ấy nhìn như một mảng tuyết trắng mênh mang. Tôi không thể không ngăn lời y lại, lạnh lùng nóHoa đồ mi nở, duyên tình tàn phai. Thanh, duyên phận giữa chúng ta thực sự đã hết rồi.”
Đêm đến, gió núi lại càng mạnh hơn, thổi vù vù qua bên má tôi, tựa như bàn tay ai đó đang cào cấu, mang tới từng cơn bỏng rát. Sau một thoáng im lặng, y cất giọng lạnh lùng: “Trước đây, nàng từng nói trong chuyện tình cảm nam nữ, nàng chưa bao giờ tin vào duyên phận, chỉ những người yếu đuối, không chịu cố gắng tranh thủ mới dùng hai chữ duyên phận để làm cái cớ, khi nào thân mật thì nói là duyên phận sâu dày, còn khi muốn kết thúc mối tình thì lại nói là duyên phận đã hết.”
Gió mang theo những làn hương đồ mi thoang thoảng bay tới, mùi hương đó chính là sự vùng vẫy trong vô vọng khi sự việc từ thịnh chuyển suy. Tôi hờ hững nói: “Ta cũng từng nói, có lẽ tới khi nào thực sự không còn đường để đi nữa, ta mới chịu nói rằng, duyên phận đã hết rồi.” Tôi cố kìm nén nỗi đớn đau đang cuồn cuộn trào dâng nơi đáy lòng. “Thanh, muội chỉ muốn nói với huynh, muội muốn cắt đứt tình ý giữa muội và huynh.” Tôi đặt tay lên bụng, thấp giọng nói: “Chắc Lý Trường cũng nói với huynh rồi, muội đã có thai được ba tháng. Ba tháng, huynh chắc cũng biết đứa bé này không phải là của huynh.”
Y buồn bã ngoảnh đầu, giọng nói lộ rõ vẻ đớn đau và tuyệt vọng: “Đúng thế, ba tháng, tức là mới hơn một tháng sau khi ta đi, nàng đã trở lại bên cạnh hoàng huynh rồi.” Y cầm lấy bàn tay tôi, tay y thật lạnh quá chừng, cảm giác giá lạnh từ nơi đầu ngón tay y truyền thẳng tới tận trái tim tôi. “Hoàn Nhi, mọi người đều cho rằng ta đã chết, nhưng việc đó không quan trọng. Nàng muốn tự bảo vệ mình cũng không có gì là sai, ta chỉ thương nàng thôi, nàng từng một lần rời khỏi Tử Áo Thành với trái tim đã chết, việc gì còn phải trở lại chốn thương tâm đó mà vất vả làm lại từ đầu nữa? Ta thực không đành lòng… Bây giờ ta chỉ mong mình là Ôn Thực Sơ để có thể chăm sóc cho nàng cả đời thôi. Ít nhất, y cũng đối xử thực lòng với nàng.”
“Ôn Thực Sơ?” Tôi khẽ cười tự giễu. “Thứ mà muội muốn có, chỉ có hoàng huynh của huynh là cho muội được, đó là tính mạng của cha anh muội, là con đường sống của nhà họ Chân, là sự vinh hoa phú quý muội muốn có. Mấy năm ở chùa Cam Lộ muội đã phải chịu đủ sự nhục nhã, muội không muốn phải sống cảnh mình là cá thịt, người ta là dao thớt nữa! Những ngày tháng đó muội đã phải chịu đủ rồi, bây giờ muội muốn mình là dao thớt, còn người ta là cá thịt…”
Y nhìn tôi chăm chú, đôi mắt màu hổ phách kia dường như có thể nhìn thấu mọi sự ngụy trang của tôi. Tôi không kìm được ngoảnh đầu đi, né tránh ánh mắt đăm đăm của y. “Muội nói cái gì khác ta đều tin, nhưng Hoàn Nhi, từ khi nào mà muội lại để tâm tới vinh hoa phú quý vậy? Muội dùng những lời này để hạ thấp bản thân, há chẳng phải là hạ thấp luôn tình ý mà ta dành cho muội hay sao? Nữ tử mà Huyền Thanh ta thật lòng thương yêu đâu phải là loại người như thế chứ!”
Tôi cố dằn lòng, ép mình nở một nụ cười đầy vẻ kiêu ngạo và khinh thường. “Vương gia, có lẽ ngài thực sự đã nhìn nhầm người rồi. Chân Hoàn cũng chỉ là phàm phu tục tử, cô ấy muốn sống, muốn sống thật tốt, muốn những người bên cạnh mình cũng được sống thật tốt, không bị bất cứ người nào chà đạp, giày vò nữa.”
Hồi lâu sau, y khẽ thở dài buồn bã, đôi mắt ảm đạm dường như đang ngước nhìn về phía chân trời xa xăm. Sắc mặt thấp thoáng vẻ ngẩn ngơ và say đắm, y thấp giọng nói: “Ngày đó ta gặp nàng lần đầu, nàng đang rửa chân bên dòng suối. Trông nàng mới đẹp làm sao, tựa như một bông anh đào đang nở rộ tại nơi đình viện thâm sâu, lại tựa như một chú cáo nhỏ xinh xắn có bộ lông trắng muốt.”
Tôi cúi đầu nhìn, đôi giày gấm thêu hình hoa sen dưới chân đã thấm đẫm nước sương, dưới ánh trăng dìu dịu, mấy giọt nước đậu trên những sợi chỉ thêu màu vàng trở nên vô cùng long lanh, rực rỡ. Chân tôi giờ đã không còn đi giày cỏ, ngay đến mỗi sợi chỉ vàng cũng như đang nhắc nhở tôi về thân phận của mình hiện giờ, tôi đã không còn là Chân Hoàn tự do tự tại trên đỉnh Lăng Vân thuở trước. Tôi nắm chặt bàn tay, lạnh lùng nói: “Có lẽ Chân Hoàn lạnh lùng, tàn nhẫn của ngày hôm nay sớm đã không còn là con cáo trắng xinh xắn trong lòng huynh thuở nào nữa rồi.” Tôi gượng cười chua chát ngẩng lên nhìn y. “Kỳ thực huynh nói cũng không sai, muội vốn gian ngoan, xảo quyệt như một con cáo mà.”
Bàn tay đang nắm cổ tay tôi của y dường như đã đông cứng lại, chẳng hề động đậy chút nào. Gió đêm thổi mạnh làm hoa đồ mi rơi rụng rất nhiều, tạo thành từng mảng trắng muốt xuôi dòng trôi chầm chậm giữa dòng sông. Giọng nói của y vang lên nghe vô cùng trống trải, tựa bầu trời đêm tịch mịch giữa vùng núi non hiện giờ. “Ngày đó con thuyền của ta bị chìm giữa sông Đằng Sa, nước sông lại chảy xiết, tất cả mọi người đều bị cuốn đi. Nếu không vì từ nhỏ ta đã biết bơi, e rằng cũng phải chết chìm ở sông Đằng Sa rồi. Ta khó khăn lắm mới bơi được tới bờ nhưng sớm đã cạn kiệt sức lực, bị gian tế Hách Hách mai phục sẵn ở đó bắt sống. Vì sợ ta phản kháng, suốt dọc đường bọn họ đều bắt ta uống Thập hương nhuyễn cân tán, mang ta đi một mạch từ Điền Nam tới Hách Hách.” Y đưa mắt nhìn tôi. “Nam tử mà ta và nàng gặp ở Huy Sơn lần trước, nàng có biết hắn là ai không?”
Tôi trầm ngâm một chút rồi mới đáp: “Nhìn lối ăn mặc cùng khí độ của hắn thì nhất định là một người rất có uy vọng ở Hách Hách…” Lòng tôi chợt máy động, vội nhìn qua phía Huyền Thanh. “Lẽ nào…”
“Đúng vậy! Hắn chính là Hãn Vương Ma Cách của Hách Hách. Ngay từ lúc ở Huy Sơn, hắn đã đoán ra ta là một nhân vật quan trọng trong triều, lại vừa khéo gặp lúc hoàng huynh phái ta tới Điền Nam, thế là bèn giăng bẫy khiến ta bị trúng ám toán.” Huyền Thanh nghiến răng nghiến lợi, đôi hàng lông mày nhíu chặt. “Hắn biết thân phận của ta, vì vậy liền mang ta về Hách Hách, định dựa vào đó để uy hiếp hoàng huynh hòng khống chế Điền Nam.”
Tôi chẳng chút nghĩ ngợi, buột miệng nói ngay: “Hoàng thượng sẽ không đồng ý đâu!”
Trong mắt Huyền Thanh ánh lên một nét âm trầm. “Y tất nhiên sẽ không đồng ý. Trong mắt y, một người huynh đệ sao có thể so sánh với giang sơn tươi đẹp, huống chi… người huynh đệ đó còn là ta.”
Tôi khẽ thở dài một tiếng nhưng lập tức chìm nghỉm giữa tiếng sóng nước rì rào. “Chỉ e nếu người Hách Hách thực sự giết chết huynh, y sẽ lại càng thư thái vì buông bỏ được một tảng đá lớn trong lòng.”
Y khẽ gật đầu. “Sau khi biết được thân phận và lai lịch của ta, người Hách Hách liền cảm thấy ta như một miếng gân gà, vứt thì tiếc mà ăn thì không được, liền bỏ hẳn ý định dùng ta để uy hiếp hoàng huynh. Có lẽ bọn họ cũng chỉ đợi đến lúc hai quân giao chiến thì mang ta ra trước trận làm con tin, có thể kiếm được bao nhiêu lợi ích thì tốt bấy nhiêu. Ta bị giam ở Hách Hách, hôm ấy thừa lúc đám người canh gác không đề phòng, liền cướp lấy một con ngựa chạy đi bất kể ngày đêm, đến lúc về tới Thượng Kinh mới coi như được bình an.” Y gượng cười một tiếng. “Khi đó, mọi người trong nước đều ngỡ là ta đã chết ở Điền Nam, binh lính Thượng Kinh còn cho rằng ta hiện hồn trở về. Ta sợ nàng thương tâm nên lập tức lên đường về kinh ngay, vốn định bái kiến hoàng huynh xong sẽ tới gặp nàng, ai ngờ trong ngày về kinh, hoàng huynh lại giao cho ta một việc, đó là giúp y đến chùa Cam Lộ đón một sủng phi mới về cung.” Thần sắc y lộ rõ vẻ đau đớn và chua xót. “Ta thật không sao ngờ được vị sủng phi đó của hoàng huynh lại chính là nàng.”
Tôi buồn bã không thôi, trong sự buồn bã còn chất chứa nỗi oán hận với sự trêu ngươi của ông trời. Sống trên đời này, con người giống như một quân cờ vậy, dù chẳng thể nắm giữ vận mệnh của bản thân nhưng lại không thể không tiến bước lên phía trước.
Tôi nhìn y, nỗi xót xa trong mấy tháng vừa rồi hóa thành hai hàng lệ nóng tuôn rơi trong câm lặng.
Y đưa tay giúp tôi lau đi những giọt nước mắt bên má, hết mực dịu dàng. Đó là đôi tay vừa có thể cầm bút vừa có thể cầm kiếm, nếu không vì Ma Cách dùng Thập hương nhuyễn cân tán để khống chế y, có lẽ y sớm đã quay trở về bên tôi rồi, và cũng sẽ không có những chuyện chua xót về sau xảy ra nữa. Thế nhưng… “nếu” và “có lẽ” là những từ ngữ chất chứa nhiều nỗi cay đắng biết bao nhiêu, trên đời này nếu thực sự có nhiều chữ “nếu” như vậy, đời người đã chẳng còn điều gì nuối tiếc nữa rồi.
“Hoàn Nhi, nàng vẫn chịu rơi lệ vì ta.” Y giữ chặt lấy bàn tay tôi, dịu dàng nói: “Ta chỉ hỏi nàng một câu này thôi, có thật là nàng đã cạn tình với ta rồi không?”
Hơi thở trở nên dài biết mấy, tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt y, không ngờ lại chẳng thể nói nổi lời nào.
Dù đã phải trải qua những sự tranh đấu tàn nhẫn trong cung suốt bao năm nhưng tôi chưa từng dừng sự truy cầu với tình cảm. Nhưng giờ đây, tôi đã ngưng bước, hơn nữa còn phải tự tay cắt đứt mọi tình cảm giữa hai chúng tôi.
Không biết qua bao lâu sau, y ôm tôi vào lòng, vòng tay của y ấm áp biết mấy, dường như có thể giúp tôi ngăn cản mọi nỗi gian truân trong cuộc đời này. Ngay đến hơi thở của y cũng giống hệt trước đây, điềm đạm, nhẹ nhàng và thấp thoáng mang theo mùi hoa đỗ nhược, khiến người ta chỉ muốn chìm đắm cho tới cuối đời. Giọng nói của y vang lên bên tai tôi, triền miên da diết như làn mưa xuân rả rích: “Hoàn Nhi, bây giờ hãy còn kịp, chỉ cần nàng chịu theo ta, ta bằng lòng vứt bỏ thân phận hoàng thân quốc thích này, cùng nàng làm một đôi vợ chồng áo vải, sống với nhau đến đầu bạc răng long.”
Đi theo y, sống với y đến khi đầu bạc, đó là ước nguyện duy nhất của tôi bấy lâu nay.
Thế nhưng bây giờ, những lời mà y vừa nói ra kia thật chẳng khác gì một chậu nước lạnh giội xuống đầu tôi, khiến toàn thân tôi tột cùng buốt giá.
Tôi thảng thốt giãy ra khỏi lòng y, không đành lòng nhìn vẻ mặt ngẩn ngơ chứa chan nỗi thất vọng của y, đau xót nói: “Còn tình cảm thì sao? Hết tình cảm thì sao? Con người sống trên đời không phải chỉ có một chữ tình.” Tôi đưa mắt nhìn về phía An Tê quán ở hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nghiêm túc nói: “Nếu muội đi theo huynh, đầu tiên là sẽ làm liên lụy tới Thái phi vốn lánh đời tu hành. Dù huynh mang theo cả Thái phi, vậy còn những người khác thì sao? Chúng ta có thể mang theo toàn bộ bọn họ sao?” Giọng nói của tôi trở nên hơi run rẩy: “Thanh, chúng ta không thể vì tình yêu của mình mà không để tâm tới những người bên cạnh, chúng ta không thể hy sinh bọn họ để thành toàn cho chúng ta.” Tôi nhìn y chăm chú: “Muội không thể làm như thế, huynh cũng không thể làm như thế được.”
Vẻ bi thương của y càng lúc càng đậm, thế nhưng trong sự bi thương ấy tôi đã nhìn ra được vẻ tán đồng và thấu hiểu của y. Y là một người cao thượng, y sẽ không vì mình mà làm liên lụy tới bất cứ ai, đây là điểm yếu của y, cũng là tính cách vô cùng đáng quý của y.
Tôi đưa mắt nhìn đi giữa hai hàng lệ nóng, vầng trăng kia vẫn treo cao giữa bầu trời, như thể chẳng hề biết tới nỗi đau khổ giữa thế gian, lúc nào cũng đẹp tươi sáng tỏ, chiếu rọi xuống khiến nỗi bi thương và kìm nén của chúng tôi chẳng còn biết tránh vào đâu.
Nước mắt chảy nhiều biết mấy, đã lâu lắm rồi tôi không được thỏa thuê khóc lóc thế này. Đôi chân bỗng trở nên mềm nhũn, tôi khẽ tựa đầu vào vai y, để mặc cho trái tim rối như tơ vò, cố ép bản thân phải đẩy chút bình tĩnh còn sót lại ra ngoài miệng: “Nếu có thể vứt bỏ tất cả mà đi theo huynh, sao muội lại không muốn chứ? Nhưng nếu muội đi rồi, cha mẹ muội biết phải làm sao đây? Thái phi biết phải làm sao? Sau khi chúng ta rời đi, người phải chịu tai họa chính là bọn họ!” Những giọt nước mắt khiến cổ họng tôi trở nên tắc nghẹn: “Trước đây thì còn có thể.” Tôi ngẩn ngơ nhìn quanh bốn phía. “Nhưng bây giờ, chúng ta còn có thể đi đâu được nữa? Thiên hạ này tuy rộng lớn nhưng chẳng chứa nổi một Huyền Thanh, chẳng chứa nổi một Chân Hoàn, mà dù thiên hạ này có chứa nổi chúng ta thì cũng chẳng thể chứa nổi trái tim ngập đầy nỗi hối hận sau khi bỏ mặc tất cả mà đi của chúng ta. Thanh, chúng ta không còn lựa chọn nào khác nữa rồi… Mà không, chúng ta xưa nay vốn chưa từng có lựa chọn nào cả.”
Y giữ chặt lấy hai bờ vai tôi, cất giọng nặng nề như một cơn mưa rào dữ dội: “Hoàn Nhi, cho dù nàng nói với ta rằng nàng đã cạn tình với ta, ta cũng không bao giờ tin. Nhưng khi nàng nói với ta những lời này, ta thực sự đã hiểu được, hiểu được rằng nàng sẽ không bao giờ trở về bên ta nữa.”
Giữa màn đêm vô biên vô tận, những ký ức ngọt ngào thuở xưa lần lượt hiện về trước mắt tôi như vô số bông hoa đẹp tươi rực rỡ.
Thế nhưng, tôi lại chỉ có thể trơ mắt nhìn chúng lần lượt úa tàn.
“Huynh xem kìa, nơi này lá vẫn xanh, hoa vẫn đẹp như xưa, nhưng Huyền Thanh, hai chúng ta xa nhau bốn tháng, bãi bể sớm đã biến thành nương dâu mất rồi.” Bàn tay của ông trời làm mưa làm gió, thỏa thích đùa vui với những tâm trạng từ bi thương tới hoan lạc của con người, tôi chỉ biết dằn lòng mình mà xót xa khẽ nói: “Thanh, tất cả mọi chuyện đều đã thay đổi rồi.”
Hai bàn tay y nắm chặt, trán khẽ cụng nhẹ vào trán tôi. “Hoàn Nhi, hãy để ta ôm nàng thêm lần nữa, chỉ một lát thôi. Từ nay về sau, ta có thể ôm tất cả mọi người trên thế gian này, nhưng chỉ duy có nàng là sẽ không bao giờ còn ở trong lòng ta nữa.”
Trong khoảnh khắc ấy, sự yếu đuối nơi đáy lòng tôi bất giác trào dâng, tôi nghẹn ngào lẩm bẩm: “Thanh, gặp được huynh muội có cảm giác như đang nằm mơ vậy. Muội thật mong mình có thể mãi mãi không tỉnh khỏi giấc mơ này. Những ngày tháng vui vẻ nhất cuộc đời muội đều là ở trong mơ, đều là do huynh mang tới cho muội.”
Y khẽ hôn lên má tôi. “Cảm giác của ta cũng nào có khác gì.” Y dịu dàng nhìn tôi chăm chú, dường như muốn khắc sâu hình bóng của tôi vào đầu. “Có câu nói này của nàng, ta coi như không uổng kiếp sống này.”
Tôi không kìm được đưa tay tới nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt y, xót xa nói: “Việc gì phải nói ra những lời như vậy chứ? Thanh, rồi huynh sẽ tìm được một nữ tử thật lòng yêu thương huynh, nguyện lòng chung sống với huynh tới khi đầu bạc. Bọn huynh sẽ có rất nhiều con cháu, sẽ sống rất tốt, sẽ được vui vẻ cả đời.” Tôi ngước mắt nhìn y. “Thanh, sau này muội sẽ ngày ngày thắp hương lễ Phật, cầu khấn cho huynh mãi mãi không gặp phải điều gì trắc trở.”
Y đưa tay bịt miệng tôi lại, trong mắt chừng như thấp thoáng những giọt lệ long lanh, nhìn còn sáng hơn cả vầng trăng giữa trời. Y khẽ nói: “Nàng nói những lời như vậy là muốn khiến ta đau lòng sao? Tất cả tâm ý của ta đều nằm trong tấm thiệp hợp hôn đó rồi. Lòng ta chỉ có một mình nàng thôi, sẽ không có thêm bất cứ người nào khác cả.”
Tôi không nén nổi những giọt nước mắt, giậm chân nói: “Chính những lời của huynh mới khiến muội đau lòng ấy…” Từ phía xa bỗng có mấy tiếng lạch phạch vang lên, thì ra là tiếng vỗ cánh của mấy con quạ đêm về muộn, lúc này vầng trăng đã ngả dần về phía tây rồi.
Thời gian đã chẳng còn được bao nhiêu.
Thật nhẹ nhàng và chậm rãi, tôi đẩy tay y ra, rơm rớm nước mắt nói: “Huynh xem kìa, vầng trăng đã ngả về tây, chỉ một canh giờ nữa thôi là trời sẽ sáng.”
Y khẽ lắc đầu, sắc mặt ảm đạm như màn đêm, không còn chút ung dung rạng rỡ của ngày trước nữa. “Ta bỗng có cảm giác mình giống như cô hồn dã quỷ, trời vừa sáng là đại hạn sẽ tới, dù không cam lòng đến mấy cũng phải để cho nàng đi.”
Màn đêm dần dần lùi đi, tôi chỉ còn biết cúi đầu buồn bã. “Đại hạn kỳ thực đã tới rồi. Muội ra ngoài đã rất lâu, nếu còn không quay về, chỉ e Cận Tịch và Hoán Bích sẽ không ứng phó nổi.” Tôi từ từ rút tay ra khỏi lòng bàn tay y, dường như đã phải dùng hết sức lực toàn thân. “Cùng ngồi với nhau, ngắm mây trên trời, nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im, hưởng thụ sự bình yên trong những phút giây ngắn ngủi.” Tôi buồn bã nói: “Thanh, ước mơ ấy thật đơn giản biết bao, nhưng giờ đây nó đã trở nên xa xăm quá mức rồi.”
Thời gian lẳng lặng trôi qua, để lại trong tâm khảm mỗi người những ký ức khó có thể xóa nhòa, nhưng khi gặp lại, tôi và y sẽ phải trở về thân phận thuở xưa, cắt đứt hết những sợi tơ tình da diết.
Giữa màn đêm, những bông hoa vẫn chưa ngớt buông rơi, tựa một bầy chim gãy cánh, hoàn toàn mất đi sự tự do và linh động lúc bay lượn giữa bầu trời, chỉ còn lưu lại một mảng thê lương, nhấn chìm mọi niềm hy vọng.
Giữa đêm khuya, trong phòng chỉ thắp một ngọn đèn leo lắt, Cận Tịch khoác thêm áo ngồi lặng im trên ghế, Hoán Bích ngủ gật kề bên, có điều đã lập tức bị tiếng bước chân của tôi làm giật mình thức dậy. Nhìn thấy tôi quay về, muội ấy bất giác cả kinh, nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Tiểu thư muộn thế này mới quay về, nô tỳ còn tưởng…”
Tôi hờ hững nói: “Tưởng rằng ta sẽ không về nữa sao?”
Cận Tịch rót cho tôi một chén trà, ôn tồn nói: “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ về mà.”
Trên mái tóc nàng ta vẫn còn dính nước sương chưa khô, tôi để ý một chút, thấy nơi mũi giày của nàng ta cũng đã bị nước sương làm cho ướt đẫm, bèn hỏi: “Vừa ra ngoài sao?”
Cận Tịch khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ về, do đó mới thay nương nương tới một nơi.” Thấy tôi thoáng lộ vẻ khó hiểu, nàng ta bèn chỉ tay về hướng hậu sơn.
Tôi lập tức hiểu ra. “Vương gia quay về là việc mừng, đúng là nên báo cho Thái phi biết.” Hơi dừng một chút, tôi lại tiếp: “Thái phi là người thông minh, tất nhiên biết sự thực về đứa bé này không thể nói cho y biết, bằng không sẽ xảy ra một phen phong ba rất lớn.”
Cận Tịch chậm rãi nói: “Nương nương đoán đúng rồi, Thái phi cũng nghĩ như vậy, bởi nói cho Vương gia biết việc này chỉ là hại Vương gia thôi.”
Ta đưa tay vuốt ve khuôn mặt đầy vẻ mỏi mệt của Hoán Bích, dịu giọng nói: “Muội yên tâm, Vương gia sẽ không thương tâm quá lâu đâu. Mau ngủ đi.” Hoán Bích khẽ gật đầu, nhưng vẻ âu lo và sợ hãi trên mặt vẫn không sao tan đi được.
Tôi chẳng thấy buồn ngủ chút nào, liền lấy cây trâm bạc đang cài trên búi tóc xuống, khẽ khều vào bấc lửa cho nó sáng hơn một chút, như thể làm vậy sẽ có thể soi rọi trái tim của tôi. “Cận Tịch.” Tôi khẽ nói: “Hồi nhỏ, cha thường khen ta thông minh, làm việc gì cũng dễ hơn người khác. Nhưng dù ta thông minh đến mấy thì cũng chẳng thể hiểu thấu được một chữ tình. Cận Tịch, nếu có thể, ta thực sư mong mình cả đời này chẳng biết ái tình là gì, cả đời chỉ là một nữ tử tầm thường phàm tục, có lẽ như thế sẽ vui vẻ, dễ chịu hơn một chút.”
Cận Tịch giúp tôi cởi áo choàng, giũ đi những hạt sương bên trên, lại khoác cho tôi một chiếc áo mới sạch sẽ, động tác rất dịu dàng và nhanh nhẹn. Ánh trăng chiếu xuống mái tóc dài tha thướt của tôi, làm phản chiếu những tia sáng lấp lánh như ánh lệ.
“Những nữ tử dịu dàng thường mang số mệnh của kẻ mày râu cứng cỏi, dù thông minh tuyệt đỉnh cũng khó thắng nổi một chữ tình. Là thân con gái, ai mà có thể nhìn thấu được chữ tình, cho dù là…” Nàng ta khẽ thở dài một tiếng. “Sự khác biệt chẳng qua là ở chỗ đã tuyệt vọng hay chưa tuyệt vọng mà thôi.”
Tôi yếu ớt tựa người vào cửa sổ. “Trước đây ta xem vở kịch Mẫu Đơn đình, thấy Đỗ Lệ Nương vì Liễu Nhược Mai mà chết rồi sống lại, cứ ngỡ rằng tình có thể gặp thần giết thần, gặp Phật giết Phật. Bây giờ mới hiểu, kịch dù sao cũng chỉ là kịch mà thôi.”
“Do đó trước đây nô tỳ mới nói lửa cháy ngang mày, nhìn ngay trước mắt. Nhưng bây giờ tình hình đã khác rồi, tất nhiên cần phải nhìn trước ngó sau, tính toán cẩn thận mới được.”
Tôi lặng im, bỗng nhớ lại hồi nhỏ khi xem vở kịch Mẫu Đơn đình từng thấy một câu thế này: “Tình chẳng iết từ đâu mà có, càng lúc càng sâu. Khi sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống.” Hồi còn nhỏ tôi luôn có cái nhìn rất rạch ròi về tình cảm, yêu tức là yêu, không yêu tức là không yêu, rõ ràng như là sống và chết vậy. Mà chỉ cần yêu rồi, ngay đến việc sống chết cũng có thể vượt qua, vạn vật giữa thế gian này đều không thể ngăn cản.
Nhưng hóa ra, khi tình cảm đã đậm sâu rồi, có rất nhiều việc nếu chỉ dựa vào chút sức lực yếu ớt của chúng tôi thì không thể nào ngăn cản được.
Tôi cầm chén trà lên, đau đớn cười nói: “Người ta hay nói nhất túy giải thiên sầu, nhưng giờ đây ta có muốn say cũng chẳng thể.” Dứt lời, tôi liền ngẩng đầu uống một hơi cạn sạch trà trong chén. Trong khoảnh khắc dòng nước trà ấm nóng chảy xuống cổ họng, tôi bỗng cảm thấy đắng chát vô chừng, dường như có một nỗi bi thương tột độ đang chảy vào trái tim, khiến tôi lệ tuôn thành hàng, bất giác ngoảnh đầu qua nhìn Cận Tịch. “Đến nước này rồi, dù ta được hưởng bao nhiêu vinh hoa phú quý thì cũng chỉ còn lại một kiếp sống thương tâm mà thôi.”