Ngồi trong xe, tôi chậm rãi vén rèm, thò đầu ra ngoài hỏi: “Là ai vậy?”
Dưới ánh tà dương, những cánh chim mỏi đều đã về rừng, mặt sông lóng lánh màu đỏ rực, ngập tràn cảm giác tang thương, tựa như đang đè nặng lòng người. Lăng Dung thân hình gầy guộc, chỉ dắt theo Bảo Quyên, ôm một bọc hành lý nhỏ, nói: “Tỷ tỷ xin dừng bước.”
Tôi buồn bã mỉm cười, lắc đầu, nói: “Muội đến đây tiễn ta sao? Vào lúc này hà tất phải đến tận nơi đưa tiễn như vậy, thực bắt mắt quá, cuộc sống của muội sau này ắt sẽ khó khăn hơn.”
Nụ cười của Lăng Dung nhu mì và hiền dịu, rất phù hợp với thân hình liễu yếu đào tơ của nàng ta. Chậm rãi bước lại gần, Lăng Dung khẽ cất tiếng: “Muội không đến để tiễn tỷ tỷ.” Nàng ta ôm chặt bọc hành lý nhỏ trước ngực, nói tiếp: “Muội đã bẩm báo với Hoàng thượng, xin được cùng tỷ tỷ đến ở tại Vô Lương điện rồi!”
Tôi chấn động không thôi, trong lòng dâng trào một cảm xúc khó tả. “Muội nói gì cơ?”
Vẻ mặt Lăng Dung hững hờ mà bình tĩnh. “Hoàng thượng đã đồng ý để muội và tỷ tỷ cùng tới Vô Lương điện rồi.”
Nỗi cảm động như dòng thủy triều tràn khắp toàn thân, sự chấn động của tôi chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, rất nhanh đã tỉnh táo trở lại. “Không được nói năng bừa bãi. Vô Lương điện là nơi nào chứ, nếu muội cùng ta đến đó thì tiền đồ trong cung coi như chấm dứt luôn rồi!” Sắc mặt đầy vẻ buồn bã, tôi nhìn nàng ta, nói tiếp: “Huống chi lần này ta tới đó, bề ngoài thì nói là để suy nghĩ lỗi lầm, kỳ thực cũng không rõ lúc nào có thể quay về, chưa biết chừng có thể phải ở lại Vô Lương điện suốt đời. Muội hà tất phải cùng ta tới đó mà chịu khổ.”
Đêm ngày Mười lăm tháng Bảy, vì tôi ăn mặc hơi đơn sơ mà có chút không chịu nổi những làn gió đêm giá lạnh. Tôi đột nhiên nhớ ra, hôm nay là ngày Tết Quỷ trong truyền thuyết, ngay đến gió đêm cũng có chút âm u, mang theo một chút oán khí và sát khí. Sắc mặt Lăng Dung có chút thê lương, mà ngoài cái vẻ thê lương ấy còn thấp thoáng đôi phần nhẹ nhõm khó mà diễn tả bằng lời. Giữa làn gió rít, giọng nàng ta vang lên không được rõ ràng cho lắm: “Lăng Dung gần đây đã đắc tội với quá nhiều phi tần, tỷ tỷ lại có ơn nặng như núi với muội, so với việc tiếp tục ở lại trong cung mà lục đục đấu đá, chịu đủ nỗi ghẻ lạnh khổ sở, muội thà đi bầu bạn với tỷ tỷ, hai bên chiếu cố lẫn nhau.”
Tôi khẽ thở dài, gió thổi lọn tóc mai cọ vào bờ má, mang tới cảm giác hơi ngứa ngáy, khóe mắt bất giác đỏ hoe.
Lời của Lăng Dung quả là thực,ừ sau khi được sắc phong làm tần, sự ân sủng của Huyền Lăng đối với nàng ta kém hẳn trước kia, dăm ba ngày chẳng được gặp lấy một lần. Hơn nữa, vì nàng ta chưa có phong hiệu chính thức nên tuy được liệt vào hàng chính ngũ phẩm nhưng về mọi mặt đều kém mấy người Điềm Tần một bậc. Mà sau chuyện sắc phong đó, mọi người trong cung ngoài đố kỵ cũng hiểu được rằng tình cảm của Huyền Lăng với nàng ta chỉ có vậy mà thôi, lại thấy giờ đây Huyền Lăng đối xử với nàng ta như vậy, thế là càng ngấm ngầm giễu cợt không thôi, khiến cuộc sống của nàng ta quả thực chẳng dễ chịu gì.
Lăng Dung thấy tôi vẫn hơi do dự thì buồn bã nói: “Tỷ tỷ hãy thành toàn cho muội đi!” Nàng ta đưa bọc hành lý tới trước mặt tôi, có chút ương bướng nói: “Ngay cả hành lý muội cũng đã chuẩn bị xong xuôi rồi, nếu tỷ tỷ không đồng ý, muội sẽ không về Ngọc Nhuận đường nữa, chỉ có thể ở lại Nghi Phù quán này trông coi phòng ốc cho tỷ tỷ thôi.”
Nàng ta chịu làm như vậy cũng có thể coi như là bằng hữu chung hoạn nạn với tôi rồi. Mà đi với tôi, đối với nàng ta mà nói, cũng không phải là không có lợi.
Tôi khẽ nắm bàn tay Lăng Dung, đón lấy bọc hành lý, nói: “Chỉ cần muội muội không ngại Vô Lương điện hoang vu, vắng vẻ, không có người hầu hạ là được.”
Lăng Dung mỉm cười, vẻ mừng rỡ trên mặt khó mà giấu giếm. “Muội chỉ cần có tỷ tỷ ở bên thôi!”
Vô Lương điện không hề xa, ở trên một hòn đảo giữa hồ Phiên Nguyệt, sau khi đổi sang thuyền nhỏ, trong khoảng thời gian hai tuần hương là có thể tới nơi. Có điều, ngoài đi thuyền thì không còn cách nào khác để tới Vô Lương điện.
Rời thuyền lên đảo, chúng tôi cùng tới Vô Lương điện. Đây là tòa cung điện mà Hoàng đế khai quốc xây dựng làm nơi nghỉ mát cho Hoàng hậu, bên trong không có xà, chỉ có bốn ô cửa sổ lớn nên tầm nhìn rất rộng, mà những thứ nhìn thấy được ngoài cỏ cây xanh mướt chỉ có nước hồ mênh mang, dập dềnh sóng biếc.
Hoán Bích ngó nghiêng khắp trong ngoài một lượt, không kìm được mừng rỡ, thở phào một hơi, nói: “Tuy không thể so được với Nghi Phù quán nhưng may mà không đến mức cũ nát, hoang tàn quá!” Nói xong liền cùng Cận Tịch, Lưu Chu, Bảo Quyên và Tiểu Doãn Tử bắt tay vào làm việc, đặt các thứ rương hòm vào phòng ngủ.
Lăng Dung bước vào, mừng rỡ nói: “Muội còn tưởng Vô Lương điện sớm đã tồi tàm, tan hoang lắm rồi, không ngờ vẫn sạch sẽ chỉnh tề như vậy. Xem ra Hoàng thượng tuy nghe lời Hoa Phi nhưng cũng không đến mức bạc đãi tỷ tỷ.”
Tôi nghe nàng ta nói vậy thì lòng thầm máy động, quay sang nói với Lý Trường đã đưa chúng tôi đến đây: “Vô Lương điện tuy hẻo lánh, hoang vu nhưng lại được thu dọn chỉnh tề như vậy, bản cung biết công công đã phải hao tốn không ít công sức, xin có lời cảm tạ tại đây!”
Lý Trường hiểu ý, khom người thưa: “Khi xưa nương nương đã để tâm chiếu cố đến nô tài, bây giờ nương nương gặp nạn, nô tài chỉ có thể tỏ chút tâm ý của mình thôi, mong rằng sau này còn có cơ hội hầu hạ nương nương.” Tôi thầm cảm thấy tức cười, gã này đúng là cơ trí thật, tiếp lời không có chút sơ hở nào.
Lăng Dung mỉm cười, nói: “Tỷ tỷ trước kia đối xử chân thành với người khác, hôm nay rốt cuộc đã có sự hồi báo, muội muội thành ra may mắn được nhờ.”
Tôi chỉ khẽ cười, Lý Trường vội vàng nói: “Nô tài không thể ở lại đây lâu, sau này mọi sự cung ứng đều sẽ phái người đưa tới, những chiếc thuyền này không thể để lại được. Sắc trời đã tối, nương nương và tiểu chủ nghỉ ngơi sớm đi.”
Tôi không khỏi buồn bã ra mặt. “Làm phiền công công rồi, xin cáo từ!”
Thấy Lý Trường đã rời đi, Lăng Dung nói: “Tỷ tỷ đừng buồn quá, Hoàng thượng chỉ nhất thời mờ mắt mà thôi, trong lòng nhất định vẫn còn rất thương yêu tỷ tỷ, chưa biết chừng ngày nào đó sẽ lại đón tỷ tỷ trở lại.”
Tôi vỗ nhẹ bàn tay Lăng Dung, an ủi: “Ta không sao, chỉ khổ cho muội cũng phải đến đây thôi!” Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Sao muội chỉ mang theo một mình Bảo Quyên, Cúc Thanh đâu? Một cung nữ thì đủ sai bảo làm sao được?”
Lăng Dung nở một nụ cười ngọt ngào, đáp: “Bảo Quyên là a hoàn muội mang theo từ nhà, tuy tay chân vụng về nhưng sai bảo đã quen. Cúc Thanh là cung nữ tỷ tỷ tặng cho muội, muội sao nhẫn tâm đưa đến đây, nên đã để nàng ta ở lại trông coi Ngọc Nhuận đường rồi.” Nàng ta mỉm cười vuốt ve bàn tay tôi, nói tiếp: “Tỷ tỷ yên tâm, muội cũng biết một chút về may vá, thêu thùa, có việc gì thì tự mình động tay động chân là được.”
Tôi thấy nàng ta nói như vậy, không khỏi có chút cảm khái: “Thực làm khó cho muội rồi.”
Cuộc sống ở Vô Lương điện diễn ra một cách yên ả mà cô quạnh, xung quanh chỉ có mấy cung nữ và thái giám, việc có thể làm chỉ là thêu thùa hoa lá, xem ít sách vở, trò chuyện giải sầu với Lăng Dung, thỉnh thoảng vui vẻ thì cùng nhanghiên cứu cách làm mấy món ăn mới, hoặc dựa theo sách cổ pha chế một số loại hương liệu đơn giản, tìm niềm vui.
Những tháng ngày này thật giống với lúc tôi và Lăng Dung còn chưa vào cung, ngày ngày ở bên nhau như hình với bóng, không bị ước thúc bởi những thứ nghi lễ cung đình khô khan, nhạt nhẽo. Cuộc sống này tưởng như rất yên bình và chẳng còn tranh đấu nhưng tôi lại thầm cảm thấy bất an. Sự bất an này không phải là vì bản thân thất sủng và bị giam lỏng ở nơi này, mà bởi một nỗi lo lắng không tên tại nơi sâu thẳm trong nội tâm.
Huyền Lăng vẫn khỏe chứ? Ca ca giờ thế nào rồi?
Mới thoắt đó đã hơn mười ngày trôi qua, trời chừng như sắp lạnh. Mỗi ngày tôi đều ngồi một mình nơi rìa đảo chừng một, hai canh giờ, nhìn những tòa cung điện dày đặc bên bờ hồ Phiên Nguyệt đằng xa, trông về hướng Huyền Lăng trong Thủy Lục Nam Huân điện, mong rằng y không gặp điều gì trắc trở.
Trong nỗi lo lắng về tình hình chính sự, thỉnh thoảng tôi lại có chút ngẩn ngơ. Những bông hoa sen nở rộ khắp hồ đã sắp đến ngày tàn lụi, khiến tôi nhớ lại cảnh hoa sen trong hồ Thái Dịch năm xưa, khi đó y đã lẳng lặng chở thuyền đưa tôi về Đường Lê cung. Cũng chính là y, vào dịp tháng Tư đã khiến sen trắng nở rộ để mừng sinh nhật tôi, thực là dụng tâm biết mấy.
Mà lần này đến Thái Bình hành cung, tôi dường như không còn nhìn thấy bóng dáng y nữa, cũng không muốn hỏi tới, chỉ loáng thoáng nghe người ta nói Huyền Lăng đã phái y tới biên quan, bề ngoài là để hiệp trợ các tướng lĩnh ở đó, kỳ thực là tìm cơ hội cho y đi du sơn ngoạn thủy, mà y cả ngày say rượu trong quân, Nhữ Nam Vương cũng chẳng hề để ý tới. Do đó, người trong hoàng thất mỗi lần nhắc tới y quá nửa đều cười khà khà nói rằng đó chỉ là một vị vương gia nhàn tản, kế thừa cái dung mạo đẹp đẽ của cha mẹ mà thôi, ngoài chút văn tài thì kỳ thực là người trói gà không chặt.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ, mũi tên sắc bén xuyên qua cặp mắt của Hải đông thanh lần đó chính là do y bắn ra.
Huyền Lăng nuôi binh ngàn ngày, ắt có một giờ nào đó cần dùng tới.
Mỗi lần thấy tôi ngẩn ngơ nhìn mặt hồ, Lăng Dung đều không kìm được có chút lo lắng hỏi: “Tỷ tỷ đang nhớ đến ai sao?”
Tôi lẳng lặng quay đầu: “Đâu có ai mà nhớ, chỉ nghĩ về bản thân mình mà thôi.”
Lăng Dung vén váy bước đến, ngồi xuống bên cạnh tôi, từng làn gió lạnh thổi tới như khiến tấm dung nhan mỏng manh, thanh tú của nàng ta nhăn lại. Lăng Dung hờ hững nói: “Hoàng thượng chắc đã quên chúng ta rồi nhỉ?”
Đầu tháng Tám, Lý Trường đích thân tới một chuyến, đưa quần áo và đồ đạc vụn vặt dùng trong mùa thu, tôi liền sai người đi nhận và sắp xếp cẩn thận.
Lý Trường thấy tôi có vẻ hơi gầy đi, bèn nói: “Nương nương vẫn khỏe chứ? Hoàng thượng rất nhớ nương nương đấy.”
Tôi khẽ gật đầu. “Ta khỏe, xin công công hãy nói với Hoàng thượng là không cần lo lắng gì cho ta.”
Tôi giả bộ cất bước đi dạo, tới rìa đảo, thấy xung quanh không có người mới cất tiếng hỏi: “Hoàng thượng khỏe chứ?”
Lý Trường mỉm cười đáp: “Hoàng thượng vẫn khỏe.”
Tôi vẫn chưa yên tâm, lại hỏi thêm: “Mọi việc đều thuận lợi chứ?”
Y cúi đầu thưa: “Chỗ Hoàng thượng mọi việc đều tiến hành thuận lợi, nương nương xin hãy yên tâm.” Tôi nghe thế thì thở phào một hơi, sắc mặt cũng có vẻ nhẹ nhõm hơn nhiều.
Lý Trường lại khom người, nói: “Lần này nô tài tới đây là để nói với nương nương, ngày mai Hoàng thượng sẽ hồi cung.”
Tôi thầm lo lắng về những tình cảnh mà y có thể gặp phải ở kinh thành, ngoài miệng thì chỉ hờ hững “ồ” một tiếng, nói: “Phiền công công hãy chăm sóc Hoàng thượng cho tốt.”
Tôi ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy một mảnh mênh mang, trời nước một màu nối liền, khiến người ta chẳng rõ đâu là điểm tận cùng. Lý Trường bước lại gần tôi, nhỏ giọng nói: “Hoàng thượng đã hạ chỉ, phượng thể của Thái hậu còn chưa hết bệnh, cuộc tuyển chọn tú nữ năm nay sẽ dời ngày cử hành.”
Sự khoan khoái của tôi bất giác lan tỏa khắp toàn thân.
Hoa Phi đắc sủng, Nhữ Nam Vương lăm le hành động, lúc này tôi tự lo cho mình còn chẳng xong, nếu lại có thêm người mới vào cung làm mưa làm gió, khó tránh khỏi xuất hiện cảnh lo cái này, mất cái kia.
Huyền Lăng cũng hiểu điều này, sau lưng các phi tần tiến cung đều có thế lực riêng, vào thời khắc mấu chốt này sẽ chỉ khiến thế cục càng phức tạp, cho nên thêm một chuyện chẳng bằng bớt một chuyện.
Tôi khẽ đưa tay phủi bụi trên áo, nói: “Việc trong cung xin phiền Hoàng hậu để mắt nhiều cho.”
Lý Trường gật đầu, thưa: “Dạ, nương nương cố gắng chịu ấm ức thêm một thời gian nữa vậy.” Y lấy từ sau lưng ra một bọc vải bông, nói: “Thứ này là do Thẩm Tiệp dư giao cho nô tài. Tiệp dư nói thời tiết đang lạnh dần, Hoàng thượng lại không cho phép nương nương hồi cung, ngoài hồ gió lớn, do đó mới dặn nô tài mang bọc đồ này tới.”
Trong lòng tôi trào dâng cảm giác vừa ấm áp vừa chua xót, bất kể có hiềm khích thế nào, trong lòng My Trang rốt cuộc vẫn có tôi.
Trước lúc đi, Lý Trường nói thêm: “Ngày mai nô tài phải đi rồi, đồ đệ của nô tài là Tiểu Vưu khá thông minh, cơ trí, sau này việc đưa đồ tới cho nương nương sẽ do y đảm nhận.”
Y vừa đi được mấy bước, tôi đã đuổi theo, nôn nóng nói: “Lỡ như về đến kinh thành mà xảy ra chuyện gì không hay, nhất định phải phái người thông báo cho ta biết đấy!”
Lý Trường khuyên nhủ: “Hoàng thượng vì lo nương nương đứng mũi chịu sào gặp điều không hay nên mới để nương nương tạm lánh một thời gian, nương nương cứ yên tâm.”
Tôi khẽ gật đầu, trong lòng thầm mong mọi việc sẽ thuận lợi.
7
Sau khi Huyền Lăng và các phi tần rời đi, Thái Bình hành cung lại trở nên tịch mịch. Tôi chưa từng được bình tâm ngắm khu lâm viên hoàng gia đẹp đẽ này vào thời điểm như hiện tại, thì ra sau một hồi ồn ào, rộn rã, nó lại vắng lặng đến mức này.
Cuộc sống sau khi rời xa kinh thành và hậu cung thực giống như bị ngăn cách với đời nhưng dù là như vậy, vẫn có một số tin tức vụn vặt ở triều đình được truyền tới chỗ tôi qua miệng Tiểu Vưu. Có lúc tôi mừng rỡ, có lúc lại âu lo nhưng đa số thời gian vẫn là quan tâm và lo lắng.
Hoa sen khắp hồ đều đã lụi tàn, mưa thu lất phất bay, rơi xuống lá sen khô, phát ra những âm thanh vụn vỡ khiến tôi trằn trọc không sao ngủ nổi.
Lá phong đã rực đỏ, hoa cúc đã nở rộ, chim nhạn đã bay về phương Nam. Những làn gió thu cũng dần trở nên lạnh lẽo, vẻ tiêu điều ngày một nồng đậm, hai tháng trôi qua mà tưởng như trong nháy mắt. Trong thời gian này, việc mừng lớn nhất là tẩu tẩu đã sinh hạ được một bé trai bụ bẫm, trắng trẻo ở Tiết phủ. Nhà họ Chân có người nối dõi, tôi cũng cảm thấy yên tâm hơn nhiều.
Đêm khuya hôm ấy, tôi và Lăng Dung cùng ngồi dưới cửa sổ. Nàng ta cúi đầu may một chiếc áo bông chuẩn bị mặc vào mùa đông, tôi thì chong đèn lật xem sách sử. Lưu Chu đã rất mệt mỏi, ngủ gà ngủ gật một bên, tiếng thở có hơi nặng nề, ngoài ra trong phòng chỉ còn tiếng lật sách sột soạt, bên ngoài có tiếng nước vỗ bờ, hình như trời đang mưa nhỏ.
Nét mực trên những trang giấy đã ố vàng vẫn toát ra mùi thơm thoang thoảng, từng lời từng chữ đều là chuyện của tiền nhân nhưng lại thấp thoáng ẩn hiện ở nơi này. Sách sử phần lớn đều là lịch sử của nam nhân, tạm chưa nói đến những việc huynh đệ trở mặt, phụ tử thành thù ở thời loạn thế như Xuân Thu Chiến Quốc hay Nam Bắc giao tranh, ngay cả trong khi thịnh trị cũng có “cái loạn bảy nước[1]” ở thời Hán Cảnh Đế, “biến cố Huyền Vũ Môn[2]” ở thời Đường Thái Tông, “tiếng rìu bóng nến[3]” ở thời Tống Thái Tông, nguyên một bộ sách sử đều là do máu, nước mắt và bóng đao, ánh kiếm viết thành.
[1] Chỉ việc bảy vua chư hầu nhà Tây Hán làm phản, bảy vị vua này đều là người trong hoàng thất, có họ gần với Hoàng đế.
[2] Chỉ việc Đường Thái Tông giết hết các anh em ở Huyền Vũ Môn rồi ép cha nhường ngôi.
[3] Chỉ về nghi án thời nhà Tống về việc Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa giết chết anh ruột là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn để đoạt ngôi.
Trái tim tôi bỗng run rẩy, bàn tay mềm nhũn, để cuốn sách rơi xuống đất.
Lăng Dung ngẩng lên, ngạc nhiên cất tiếng hỏi: “Tỷ tỷ sao vậy?”
Tôi sợ bị nàng ta nhìn ra tâm sự của mình, vội nở nụ cười che giấu. “Không có gì, cầm sách lâu quá nên tay hơi tê mỏi thôi!”
Lăng Dung bật cười khúc khích, nói: “Muội thật không hiểu, sao tỷ tỷ lại thích xem sách như thế chứ, muội cứ nhìn những con chữ nhỏ như con kiến đó là lại cảm thấy đau đầu.”
Tôi khom người nhặt sách lên, mỉm cười, nói: “Chẳng qua là để giải sầu mà thôi.”
Tôi vẫn tiếp tục lật sách nhưng người đã lại ngẩn ngơ. Bất kể tôi có ở bên cạnh Huyền Lăng hay không, y vẫn là tất cả của tôi, sự vinh nhục, sống chết, sang hèn của tôi đều là do y quyết định, mặc kệ tôi có toàn tâm toàn ý yêu y hay không, có cam tâm tình nguyện bầu bạn bên y hay không, chúng tôi vẫn sẽ là một thể. Khi y vinh quang, tôi chưa chắc đã được vinh quang nhưng khi y nhục nhã thì tôi nhất định sẽ nhục nhã.
Y mất công trù tính một thời gian dài như vậy, nhất định không thể thua được. Lỡ như, tôi không dám suy nghĩ đến cái sự lỡ như ấy, nhưng nếu y không còn trên đời này nữa…
Suy nghĩ này vừa xuất hiện, tôi bỗng cảm thấy hoang mang lạ thường, lồng ngực như nghẹn lại, chỉ muốn bật khóc. Thì ra, tôi lại sợ y chết đến vậy, thì ra, tôi vẫn còn một chút chân tình với y.
Tới bây giờ tôi mới biết rõ mối quan hệ giữa mình và Huyền Lăng, thì ra ngoài lợi ích vẫn còn có cả tình cảm nữa.
Đang lúc ngơ ngẩn, Lăng Dung khẽ đẩy tôi một cái, hỏi với giọng quan tâm: “Tâm thần tỷ tỷ dạo này luôn bất định, có phải tỷ có tâm sự gì không?”
Tôi khẽ lắc đầu, đang định trả lời thì ngọn nến đỏ trên bàn chợt phát ra một tràng dài những tiếng nổ lốp bốp ở chỗ tim nến, giữa bầu không khí tịch mịch, nghe vang vọng vô cùng.
Lăng Dung bật cười, nói trước: “Tim nến nổ, việc mừng tới. Bất kể tỷ tỷ có tâm nguyện gì, nhất định đều có thể thành sự thực.”
Tôi biết rõ lời này căn bản không đáng tin, nhưng nghe thấy vẫn cảm thấy thư thái hơn nhiều, khóe miệng bất giác nở một nụ cười mỉm.
Đang trò chuyện, Cận Tịch bưng một chậu than đi vào, gọi Lưu Chu dậy, cười nói: “Trời vừa mới lạnh, Chu cô nương đã ham ngủ hơn rồi.” Cận Tịch bước tới, nắm lấy bàn tay tôi, nói: “Tay nương nương lạnh quá!” Sau đó, nàng ta liền lấy lò sưởi cầm tay, để vào trong lòng tôi, hào hứng nói: “Nô tỳ đã vùi mấy củ khoai sọ vào trong chậu than, chắc bây giờ cũng ăn được rồi.”
Lưu Chu mơ màng tỉnh ngủ, Lăng Dung thì vui mừng ra mặt, nói: “Trước đây ở nhà, ta cũng hay ăn thứ này, thoắt đó đã mấy năm trôi qua, bây giờ mới ngửi thôi đã thấy thơm rồi!” Thế rồi, nàng ta bèn ngồi bên chậu than, vừa ăn vừa nói cười trò chuyện. Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng nói cười của bọn họ, nhưng trái tim đã bay tới tận Tử Áo Thành.
Tin tốt truyền tới đúng vài ngày trước khi thật sự vào đông, hôm đó trời nắng đẹp, tôi nhìn Lưu Chu và Hoán Bích lấy chăn đệm ra phơi, thỉnh thoảng lại lấy tay đập xuống mấy cái, bụi bặm lập tức bốc lên mù mịt, đám bụi như múa may dưới ánh nắng vàng, khiến người ta hơi nghẹt thở.
Tôi hơi nheo mắt tránh ánh nắng chói chang. Cuộc sống của tôi vẫn đang diễn ra trong bình lặng nhưng còn Huyền Lăng, y có thể thành công được không? Nhữ Nam Vương quả thực không dễ gì đối phó.
Đang nghĩ ngợi, phía đằng xa trên mặt hồ có một đội thuyền bơi tới, cờ phướn tung bay. Trái tim tôi bỗng nghẹn lại, không biết phúc họa thế nào, bàn tay vô thức luồn vào trong vạt áo, cầm chặt con dao găm nhỏ.
Đêm trước hôm bị trách phạt, Huyền Lăng và tôi cùng đứng trong sân, y khẽ vuốt ve bờ má tôi bằng bàn tay có chút thô ráp, lại đặt một con dao găm nhỏ vào lòng bàn tay tôi, cất giọng nặng nề nói: “Việc tồn vong lần này trẫm không dám nắm chắc, lỡ như có điều sơ sẩy, nàng… có thể dùng nó phòng thân.”
Tôi trịnh trọng nhận lấy và cất nó vào trong người. “Hoàng thượng là con Trời, mọi việc ắt sẽ đều thuận lợi như ý nguyện.” Sau đó kiên định nói: “Nếu tà thực sự thắng chính, thần thiếp quyết chẳng ham sống nhục trên đời.”
Huyền Lăng kéo lấy bàn tay tôi, im lặng tựa như một vì sao trên trời.
Tôi tỉnh táo trở lại, nếu Huyền Lăng thật sự thất bại, không còn quyền lực và tính mạng nữa, vậy tôi cũng chẳng thể tự bảo vệ mình. So với việc rơi vào tay Nhữ Nam Vương và Hoa Phi để phải chịu đủ sự giày vò, tôi thà chết luôn tại đây.
Nỗi sợ hãi về cái chết rất nhanh đã kéo đến gần biết mấy, tôi không biết trong khoảnh khắc kế tiếp, mình còn có thể thở được nữa hay không. Lỡ như đội thuyền kia là do Nhữ Nam Vương phái đến… Một ý niệm sắc bén đột ngột trào dâng, tôi dằn lòng, nghĩ thầm dù có chết thì cũng phải chết một cách oanh liệt. Nếu Huyền Lăng thật sự bỏ mạng trong tay hắn, tôi ít nhiều cũng phải kéo mấy kẻ đi cùng, không thể chết một cách vô ích được.
Suy nghĩ như vậy, tôi bất giác cảm thấy bình tĩnh hơn một chút. Đây đã là dự tính xấu nhất rồi, dù sự việc diễn ra thế nào thì cũng không thể xấu hơn được nữa, thành ra tôi chẳng còn cảm thấy sợ hãi.
Cuối cùng người xuất hiện trước mặt tôi là Tiểu Vưu, y mặt mày phấn chấn, chỉ nói ra ba từ: “Thành công rồi!”
Tôi cả mừng, thân thể bỗng mềm nhũn, con dao găm “keng” một tiếng rơi xuống đất. “Hoàng thượng vẫn bình yên chứ?”
Tiểu Vưu vội vàng quỳ xuống, dập đầu thưa: “Hoàng thượng không gặp điều sơ sẩy, long thể an khang.”
Nước mắt tuôn rơi lã chã, nhưng đó là những giọt nước mắt mừng vui, mối họa Nhữ Nam Vương rốt cuộc đã bị diệt trừ rồi. Tiểu Vưu mừng rỡ nói: “Đây là việc mừng lớn, nương nương cớ sao lại khóc? Hoàng thượng đã ra khẩu dụ sai nô tài đi đón nương nương và An Tần tiểu chủ về cung, chúng ta mau khởi hành thôi!”
Tôi đưa tay lau dòng nước mắt trên má, gật đầu một cái thật mạnh.
Đêm đầu tiên sau khi về cung, Huyền Lăng nghỉ lại ở Đường Lê cung của tôi, y nâng khuôn mặt tôi lên, nhìn ngắm không ngừng, cất giọng thương xót: “Xa cách gần trăm ngày, Hoàn Hoàn, nàng gầy đi nhiều quá!”
Tôi khẽ vuốt ve bờ má, nói: “Vô Lương điện hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, thần thiếp ngày đêm luôn lo lắng cho Tứ lang.”
Y đột nhiên nhớ tới điều gì đó, ôn tồn nói: “An Tần và nàng quả đúng là tình sâu nghĩa nặng, biết nàng sắp bị giam lỏng ở Vô Lương điện mà vẫn khóc lóc van xin trẫm cho phép đi cùng để bầu bạn với nàng. Đồng cam dễ, cộng khổ khó, cái ân tình tặng than giữa trời tuyết rơi này thực đáng quý vô cùng.”
Trong giọng nói của y mang đầy vẻ tán thưởng, tôi thấp giọng nói: “An muội muội quả đúng như lời Hoàng thượng nói, nhưng thần thiếp vẫn không dám nói chân tướng với muội ấy, việc này ít người biết vẫn là tốt nhất.” Thấy y gật đầu, tôi chăm chú nhìn y. “Hoàng thượng vẫn khỏe chứ?”
Y kéo tôi vào lòng, cười đáp: “Sau khi hồi cung, nàng đã hỏi câu này nhiều lần lắm rồi đấy!”
Tôi ngẩn ra, khẽ nói: “Vậy sao? Đến bản thân thần thiếp cũng không biết nữa.”
Y dịu dàng xoa bờ vai tôi. “Không sao, bây giờ mọi việc đã qua rồi.”
“Mọi việc đã qua rồi sao?” Tôi lẩm bẩm nói.
“Đúng vậy”. Huyền Lăng cảm khái nói: “Người của lục đệ đã đoạt lấy binh quyền của Nhữ Nam Vương ở các nơi, giam cầm các tướng lĩnh thuộc phe hắn lại.”
Lòng thầm máy động, tôi khẽ “ồ” một tiếng vẻ nghi hoặc nhưng lại không nói gì. Huyền Lăng đoán ra suy nghĩ của tôi, bèn cười, giải thích: “Nàng nghĩ lục đệ thật sự chỉ kết giao với những văn nhân mặc khách sao? Hơn nữa, bản thân lục đệ cũng không phải là hạng thư sinh trói gà không chặt.”
Tôi mỉm cười, nói: “Thì ra Tứ lang sớm đã an bài rồi, mọi việc trước đó chẳng qua chỉ là để mê hoặc bọn họ mà thôi!” Ngoài mặt thì cười nhưng trong lòng tôi lại lo lắng, Huyền Thanh tuy trợ giúp cho Huyền Lăng nhưng lần này, y tham gia vào phen chính biến đã khiến Huyền Lăng biết rằng y có tài cầm quân, chỉ e sẽ bị Huyền Lăng nghi kỵ. Có vết xe đổ là Nhữ Nam Vương rồi, mà thân mẫu của Huyền Thanh lại là Thư Quý phi, bản thân y lại là đứa con được tiên đế coi trọng, chỉ sợ sự nghi kỵ của Huyền Lăng sẽ còn nhiều hơn.
Y cười, nói: “Huynh trưởng nàng cũng góp công rất lớn, nếu không nhờ có y đưa tới danh sách những người thuộc phe Nhữ Nam Vương, lại dẫn Vũ Lam quân khống chế phủ Nhữ Nam Vương, việc lớn không thể hoàn thành nhanh như vậy được.”
Tôi thoáng ngạc nhiên: “Nhữ Nam Vương không phản kháng gì sao?”
Y ra vẻ tự đắc nói: “Việc này diễn ra hết sức đột ngột, ngay đêm trước đó, Thái hậu còn mời Vương phi và Thế tử của y vào cung thăm Công chúa, đồng thời giữ bọn họ lại nghỉ ngơi trong cung.”
Tôi khẽ thở dài. “Hắn đã suy nghĩ cho vợ con của mình.”
Huyền Lăng nói: “Không suy nghĩ cho vợ con cũng không được, trong tay hắn không có binh lực để điều động, dựa vào các gia tướng trong phủ thì chỉ kháng cự được nhất thời. Hắn là người hiểu chuyện!”
Lòng tôi thầm máy động, cho dù Nhữ Nam Vương có ôm lòng tạo phản, nhưng đối với vợ con, hắn vẫn rất trân trọng, huống chi ham muốn quyền lực của hắn đa phần là tới từ những nỗi ấm ức phải chịu thời niên thiếu. Tôi không kìm được, cất tiếng hỏi: “Vậy Nhữ Nam Vương bây giờ thế nào rồi?”
Huyền Lăng trầm mặt đi, nói: “Bị nhốt trong Cấm phủ của tông thất. Trẫm đã cho Lục bộ cùng nghị tội hắn rồi.”
Tôi không nói gì, cáchử trí như vậy cũng coi như là hợp tình hợp lý, chỉ còn chờ xem tội trạng của Nhữ Nam Vương được phán xét thế nào. Sắc mặt Huyền Lăng dần hòa hoãn lại, y hỏi tôi: “Đã biết việc tẩu tẩu nàng sinh được một bé trai chưa?”
Tôi cười nói: “Thì ra Tứ lang cũng đã biết rồi!”
Y cười khà khà một tiếng: “Sự việc đã kết thúc, cũng đến lúc để vợ chồng huynh trưởng của nàng được đoàn viên rồi. Lần này huynh trưởng của nàng đã tan nát thanh danh, đến thời khắc con trai ra đời cũng không thể có mặt.”
Tôi mỉm cười, nói: “Có thể góp sức cho quốc gia và Hoàng thượng là điều vinh quang tột bậc, một chút ấm ức ấy có tính là gì.”
Y khẽ nở một nụ cười thư thái, trong Đường Lê cung, nến đỏ sáng trưng, khói thơm nghi ngút, khác hẳn với sự lạnh lẽo bên ngoài.
Ngay sáng sớm ngày hôm sau, tôi đã đi thỉnh an Hoàng hậu. Hoa Phi vẫn còn nguyên ngôi vị, chỉ là thần sắc ủ rũ, sớm đã khác hẳn ngày xưa. Tôi cũng không nôn nóng, việc ở tiền triều không tiện dính dáng đến hậu cung, năm xưa huynh trưởng của Ngọc Ách phu nhân là Bác Lăng Hầu mưu phản, tiên đế cũng không hề phế truất bà ta, chỉ ghẻ lạnh mà thôi. Dù tôi không nói gì thì Hoàng hậu cũng chẳng chịu tha cho nàng ta. Sau khi chào hỏi theo nghi lễ, mọi người chỉ trò chuyện với nhau vài câu rồi giải tán.
Mọi người đều rời đi, Hoàng hậu chỉ giữ tôi ở lại, ôn tồn nói: “Quý tần đã phải chịu vất vả rồi!”
Tôi vội mỉm cười, nói: “Hoàng hậu nương nương bầu bạn bên Hoàng thượng, chăm lo mọi điều mới thực là vất vả, thần thiếp xin đa tạ nương nương.”
Trong mắt nàng ta ngợp đầy nét cười sâu sắc. “Bản cung và Quý tần đều mang lòng phân ưu cho Hoàng thượng, sao có thể không tận tâm tận sức được.”
Nàng ta giữ một mình tôi lại tất nhiên không phải để tán gẫu những chuyện vu vơ thế này. Hoàng hậu chậm rãi vuốt ve hộ giáp, nói: “Địa vị của Hoa Phi sớm muộn cũng bị mất, e là người ở bên cạnh nàng ta cũng sẽ bị liên lụy, không xét tới những người đã chết hay bị điên, trong cung đã chẳng còn bao nhiêu phi tần nữa rồi.”
Lòng tôi bất giác giá lạnh nhưng bề ngoài vẫn tươi cười, nói: “Nương nương muốn tuyển chọn tú nữ cho Hoàng thượng sao? Đây vốn là việc nên làm, chẳng qua bị trì hoãn mà thôi.”
Hoàng hậu ngồi nghiêm trang, nói: “Tú nữ thì nhất định phải tuyển chọn, nhưng không phải bây giờ. Trước mắt mọi sự đang rắc rối, thực không thể chia bớt tâm lực ra làm việc này được. Ý của Hoàng thượng là…” Nàng ta hơi nheo mắt, nhìn ánh dương nhàn nhạt trải khắp mặt đất bên ngoài cửa sổ, nói: “Trong việc bình định Nhữ Nam Vương lần này có không ít thần tử có công.”
Hoàng hậu không nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn tôi, trong mắt không có lấy một tia xao động. Tôi đã hiểu ý nàng ta, liền hít sâu một hơi, nói: “Trong nhà những vị công thần đó nếu có nữ tử nào hợp tuổi có thể chọn vào cung là tỷ muội thì thực là tốt quá, tần thiếp tin họ đều là những tiểu thư khuê tú, cử chỉ đoan trang.”
Hoàng hậu nở nụ cười hài lòng. “Thì ra Hoàng thượng, bản cung và Quý tần đều có chung suy nghĩ, vậy bản cung sẽ chọn ngày tốt để đón những người thích hợp vào cung.”
Tôi hơi khom người hành lễ, mỉm cười nói: “Hoàng hậu nương nương là chủ của hậu cung, nương nương tự quyết định chủ ý là được.”
Hoàng hậu cầm chén trà lên, khẽ thổi một hơi, chậm rãi cất tiếng: “Có điều, nói đi cũng phải nói lại, Quý tần cũng là nữ tử xuất thân từ gia đình công thần đấy.”
Mấy ngày sau, Lục bộ đã xác định xong tội trạng của Nhữ Nam Vương Huyền Tế, tổng cộng có mười điều: Miệt thị quân thượng, bội bạc tiên hoàng, kéo bè kết cánh, quấy rồi triều chính, ngăn cản ngôn luận, ẩu đả đại thần, tham ô tư lợi, lòng mang dị tâm, lạm dụng vũ lực, tham giữ quân quyền. Mỗi điều đều là đại tội đáng chém.
Huyền Lăng chuẩn tấu, nhưng hạ chỉ tuyên rằng: “Niệm tình Nhữ Nam Vương chiến công không nhỏ, dốc sức nhiều năm, lại là huynh đệ thủ túc, trẫm thực không nỡ giết chết mà khiến vong linh tiên đế không được yên nghỉ. Nay triệt bỏ tước vương, biếm làm thứ dân, giam cầm cả đời trong Cấm phủ của tông thất, không có chiếu chỉ thì không ai được vào thăm.”
“Vậy còn Vương phi, Cung Định Công chúa và Thế tử thì sao?” Tôi hỏi.
Y hờ hững nói: “Tất cả đều biếm làm thứ dân, có điều trẫm cho phép bọn họ được tiếp tục ở lại trong phủ đệ cũ của Nhữ Nam Vương”, rồi lại tiếp: “Đây cũng là ý của Thái hậu.”
Tôi thầm buồn bã, trong những cuộc tranh đấu quyền lực của nam nhân, nữ nhân luôn là những con cờ nhỏ bé, không thể quyết định vinh nhục của bản thân. Bây giờ thứ dân Hạ th trở về phủ cũ, nhìn cảnh suy bại hôm nay mà nhớ về sự vinh hoa phú quý ngày xưa, liệu sẽ mang tâm trạng thế nào?”
Thế nhưng sự buồn bã ấy chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc. Tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, nếu hôm nay người thất bại là Huyền Lăng, e rằng kết cục của tôi còn chẳng được bằng Hạ thị. Nàng ta ít ra còn có chỗ yên tâm, còn tôi chỉ e đến chỗ để vùi thây cũng chẳng có.
Nhữ Nam Vương đã bị trị tội, tất nhiên tiếp theo sẽ đến việc tru diệt vây cánh của hắn. Những việc này Huyền Lăng vốn đã rất thuần thục, bây giờ lại càng xe nhẹ đường quen, kẻ thì giết, kẻ thì cách chức, kẻ thì lưu đày. Gia tộc Mộ Dung vốn là thân tín quan trọng nhất của Huyền Tế, toàn tộc tất nhiên đều bị liên lụy.
Có đại thần dâng tấu, khuyên Huyền Lăng nên dùng hình phạt nghiêm khắc để trị vì thiên hạ, đề phòng lại có cơn biến loạn xảy ra, đặc biệt đối với những kẻ từng nắm binh quyền như gia tộc Mộ Dung, nhất định phải tru di cửu tộc, giết gà răn khỉ.
Huyền Lăng chậm rãi nhấp một ngụm trà, bộ dạng vô cùng thư thái, đưa bản tấu chương cho tôi, nói: “Nàng cũng xem thử đi!”
Tôi cẩn thận xem xong, không kìm được hỏi: “Ý của Hoàng thượng là…”
Y nói: “Cũng coi như có mấy phần đạo lý.”
Tôi gấp bản tấu chương lại, cung kính đặt trước mặt y, chỉ hỏi: “Hoàng thượng cảm thấy Văn Cảnh[4] thời Hán thế nào? Cha con Tần Thủy Hoàng thì sao?”
[4] Chỉ Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế – ND.
Y đáp: “Văn Cảnh là hình mẫu của việc trị vì thiên hạ, ấy là bởi Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế khoan dung độ lượng, tu tâm đức của bậc đế vương; còn cha con Tần Thủy Hoàng…” Y khẽ cười, nói tiếp: “Đều là kẻ bạo quân, đất nước hỗn loạn cũng vì thế, quân chủ đời sau tất phải lấy đó làm điều răn.”
Tôi đứng trong ánh dương dìu dịu, mỉm cười, nói: “Văn Đế, Cảnh Đế thương xót lê dân, do đó từng nhiều lần giảm nhẹ hình phạt, còn Tần Thủy Hoàng và Tần Nhị Thế thì dùng hình nghiêm khắc, thường xuyên gây cuộc giết chóc, khiến lòng dân hoang mang. Cái đạo của bậc đế vương là dùng đức chứ không dùng hình, sao có thể bỏ lối Văn Cảnh mà học theo cha con Tần Thủy Hoàng được?”
Đang trò chuyện, bên ngoài chợt có tiếng khóc lóc của nữ nhân vang lên, Lý Trường đi vào bẩm báo: “Khởi bẩm Hoàng thượng, Hoa Phi nương nương cầu kiến.”
Huyền Lăng thoáng ngẩn ra, đoạn lạnh lùng nói: “Không gặp.”
“Việc này…” Lý Trường khó xử nói: “Hôm nay Hoa Phi nương nương đã cầu kiến ba lần rồi, lần này còn dập đầu đến sứt cả trán nữa.’
Huyền Lăng thản nhiên xoay người lại. “Nói với nàng ta, dù có cầu kiến ba trăm lần cũng vô dụng. Tìm người tới băng bó vết thương cho nàng ta, bảo nàng ta hãy ngoan ngoãn ở yên trong cung của mình.” Lý Trường vâng lệnh rời đi, Huyền Lăng quay sang nói với tôi: “Chúng ta nói tiếp chuyện của chúng ta.”
Tôi cẩn thận liếc nhìn sắc mặt y. “Dạ. Thần thiếp cảm thấy chỉ trong thời loạn thế mới nên dùng hình phạt nặng. Nếu sát sinh quá nhiều, lòng dân sẽ khó mà ổn định.”
Y vừa chậm rãi bước đi vừa thoáng trầm tư, nói: “Trong lần biến cố này, trẫm sẽ chỉ trừng phạt những kẻ thủ ác, những người còn lại thì tạm lưu cho họ một con đường sống.”
Tôi thầm cảm thấy nhẹ nhõm, tươi cười nói: “Hoàng thượng thánh minh!”
Huyền Lăng cầm bút phê vào phía sau bản tấu chương. “Phế bỏ toàn bộ tước vị của gia tộc Mộ Dung. Chém Mộ Dung Quýnh, Mộ Dung Thế Tùng, Mộ Dung Thế Bách, những nữ quyến chưa đủ mười bốn tuổi thì đưa vào trong cung làm nô tỳ, số người còn lại thì cho đi đày ở Lưu Cầu, cả đời không được trở về.”
Trái tim tôi bất giác trở nên bình lặng. Việc ở tiền triều, Huyền Lăng tất nhiên sẽ lo liệu ổn thỏa, còn hậu cung, cũng đến lúc phải dọn dẹp một chút rồi.
Hoa Phi, ngươi bây giờ đã cô độc một mình, không còn ai để mà nương tựa nữa.