[1] Tên một bài thơ trong Kinh thi, thuộc tập Trịnh phong trong phần Quốc phong, nghĩa đen là “ra khỏi cửa đông” – ND.
Trung thu năm nay tôi vốn nghĩ sẽ lại trôi qua trong sự cô đơn và tịch mịch như trước, cùng lắm cũng chỉ là tôi với Cận Tịch và Hoán Bích chia nhau ăn bánh Trung thu.
Đến giờ cơm tối, các ni cô trong chùa đều lên núi ngắm trăng, chỉ có tôi, Cận Tịch và Hoán Bích là ở lại trong phòng, không ra ngoài.
Chợt nghe bên ngoài có tiếng chuông ngựa vang lên, tôi thính tai nghe thấy, bèn nói: “Không biết là ai tới đây vào giờ này, để ta ra ngoài xem thử.”
Mở cửa ra ngoài, tôi nhìn thấy A Tấn tay xách một giỏ hoa quả nhảy xuống từ trên lưng ngựa, cười hì hì, nói: “Tiểu nhân biết ngay lúc này các ni cô trong chùa Cam Lộ đều đã đi ngắm trăng rồi mà. Vương gia vốn muốn đích thân tới, tiếc bây giờ trong cung đang mở tiệc, Thái hậu cũng có mặt, thành ra không thể tranh thủ tới đây được.” Y đưa giỏ hoa quả cho Hoán Bích, nói tiếp: “Đây là những thứ hoa quả mà thường ngày nương tử thích ăn, Vương gia dặn tiểu nhân đặc biệt chuẩn bị cho nương tử, khi ngắm trăng dù sao cũng phải ăn gì đó.”
Hoán Bích mỉm cười, đón lấy. “Vương gia quả là có lòng, ta xin thay tiểu thư nhà ta tạ ơn Vương gia.”
Tôi trêu: “Cứ tưởng ngươi sẽ không dám đến gặp bọn ta nữa cơ, không ngờ bây giờ lại lon ton chạy đến đây thế này.”
Hoán Bích giậm chân thẹn thùng nói: “Tiểu thư lại trêu nô tỳ rồi.”
A Tấn gãi đầu gãi tai, xấu hổ giải thích: “Việc lần trước đã nói rõ ràng rồi, nô tài chỉ coi Hoán Bích như muội muội thôi.”
Tôi mỉm cười, quay sang nói với Cận Tịch: “Không phải chúng ta cũng có bánh Trung thu sao, lấy mấy cái ra đây cho A Tấn, coi như là chúng ta cùng đón Trung thu.”
A Tấn nghe tôi nói như vậy, trong mắt chợt lóe lên một tia nghịch ngợm, mỉm cười, nói: “Nương tử nói đến bánh Trung thu, vừa hay Vương gia nhà nô tài cũng bảo nô tài mang bánh tới cho nương tử đấy.”
Tôi thấy có chút khó hiểu, nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên. “Là loại bánh Trung thu đặc biệt gì mà phải bảo ngươi mang tới đây vậy?”
A Tấn cười tủm tỉm, nói: “Nương tử cứ xem rồi khắc biết, Vương gia đã dặn đi dặn lại nô tài rằng nhất định phải đưa bánh tới tận tay nương tử mới được.”
Tôi nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói với y: “Trịnh trọng như vậy, xem ra nhất định là loại bánh Trung thu hiếm có rồi.”
A Tấn lấy từ trong ống tay áo ra một chiếc bọc nhỏ, mở lần lượt từng lớp giấy và vải lụa bọc bên ngoài ra, cẩn thận đưa tới trước mặt tôi. “Nương tử hãy tự xem đi.”
Đó chẳng qua chỉ là một chiếc bánh bình thường, không có chỗ nào đặc biệt, Hoán Bích đứng bên cạnh không kìm được nghi hoặc, cười hỏi: “Không phải chỉ là một chiếc bánh bình thường thôi sao?”
Tôi cũng thấy hơi nghi hoặc, bèn bẻ đôi chiếc bánh ra xem. Thì ra chiếc bánh này rỗng ruột, bên trong có một mảnh giấy nhỏ, tôi mở mảnh giấy ra xem thì thấy bên trên có viết bốn chữ “hữu bị vô hoạn[2]” hết sức ngay ngắn, nắn nót.
[2] Đây là một câu thành ngữ, ý nói có phòng bị trước thì sẽ tránh được tai họa – ND.
Tôi nhất thời không nhìn ra được điều gì, bèn hỏi A Tấn: “Thế này là ý gì vậy?”
A Tấn cười hì hì, nói: “Vương gia nói hôm nay là tết Trung thu, phải ngắm đèn lồng đoán câu đố, do đó bèn bảo nô tài mang lời giải đố này đến cho nương tử, nói nương tử thông minh hết mực, nhất định có thể đoán ra câu đố.”
Hoán Bích đứng bên cạnh cũng không đoán ra được gì, bèn cười oán trách: “A Tấn, Vương gia nhà ngươi đúng là cổ quái, người ta bình thường đều là đi đoán lời giải đố, ai lại cho lời giải để đoán câu đố như vậy bao giờ.”
A Tấn xòe tay, nhún vai vẻ hết cách. “Đây là ý của Vương gia, ta là kẻ nô tài, chỉ có thể nghe lệnh, sao dám cãi lại câu nào”, rồi lại quay sang cười, nói với tôi: “Nương tử đã phải nhọc lòng rồi!” Nói xong, lại không cười nữa mà khẽ thở dài một hơi. “Vương gia nhà nô tài đang không vui nhưng vẫn muốn giành được một nụ cười của nương tử.”
A Tấn xưa nay vốn mau mồm mau miệng, con người cũng thông minh nhanh trí, đột nhiên nói như vậy nhất định là có nguyên do. Tôi cũng không nói gì, chỉ thoáng đưa mắt liếc qua phía Hoán Bích.
Hoán Bích cười, nói: “Đây nhất định là lời đùa cợt rồi, Vương gia thân phận tôn quý, là tấm thân ngàn vàng, dù có ai đắc tội thì cũng chỉ cần đánh cho một trận là được, cớ gì mà lại không vui chứ.”
A Tấn nghiêm túc nói: “Lời này thực sai lắm, thứ nhất Vương gia nhà ta không phải người như vậy, thứ hai, Vương gia phiền lòng là do ý của Thái hậu. Thái hậu nói Vương gia không còn nhỏ nữa và đã giúp ngài chọn được một vị tiểu thư để làm Thanh Hà Vương phi rồi. Thái hậu có vẻ rất hài lòng về vị tiểu thư đó, nói hôm nào sẽ an bài cho Vương gia gặp mặt.”
Lòng tôi thầm chấn động, không kìm được nhìn qua phía Hoán Bích. Hoán Bích cũng tỏ ra hết sức bất ngờ, thốt lên: “Thật thế sao?”
A Tấn cau mày, rầu rĩ nói: “Tất nhiên là thật rồi, nếu không tại sao Vương gia lại không vui chứ. Thời gian qua, Thái hậu giục rất gấp nói Vương gia đã hai mươi tư tuổi rồi, làm gì có ai đến tuổi này mà còn chưa nạp phi, Vương gia thì thậm chí đến một người thiếp cũng không có, chẳng ra thể thống gì cả. Lần này, Thái hậu đã chọn được tiểu thư nhà Bái Quốc công, tên gọi Vưu Tĩnh Nhàn, nghe nói vô cùng dịu dàng, hiền thục, ngay đến mấy vị thái phi cũng không ngớt lời khen.”
Tự đáy lòng tôi chợt dâng trào từng cơn giá lạnh khó mà miêu tả bằng lời, tựa như giữa ngày đông có ai đó thò bàn tay vừa ngâm trong nước lạnh tới, nắm chặt lấy trái tim tôi để sưởi ấm. Tôi biết rõ cảm giác này là khó hiểu và không nên có, vội mỉm cười bình tĩnh để che giấu. “Đây là việc tốt, ở tuổi của Vương gia, nếu đổi lại là người khác chỉ e đã con cái thành đàn, vào lúc này Vương gia quả cũng nên cưới một vị Vương phi về để quản lý việc nhà rồi.”
Hoán Bích khẽ gọi: “Tiểu thư…”
Tôi mỉm cười đưa mắt nhìn qua, nói: “Vương gia chuẩn bị nạp phi là việc tốt, hơn nữa cặp mắt Thái hậu xưa nay vẫn luôn nhìn người rất chuẩn, chúng ta nên chúc mừng Vương gia mới đúng chứ!”
A Tấn nghe tôi nói vậy liền khẽ “hừm†một tiếng, trong giọng nói thấp thoáng vẻ không vui: “Vương gia nhà ta đang vì chuyện này mà sầu não không thôi, ta vốn nghĩ Vương gia coi nương tử như tri kỷ, nương tử nhất định cũng hiểu được tâm tư của Vương gia, không ngờ nương tử lại nói ra lời chúc mừng Vương gia như thế, A Tấn không thích nghe chút nào, xin được cáo từ.” Sau đó liền hậm hực tung người nhảy lên lưng ngựa, giục ngựa rời đi.
Gió ngừng thổi tự lúc nào, bốn phía đều chìm trong tịch mịch. Bàn tay tôi vẫn cầm chặt mảnh giấy nhỏ lấy từ trong chiếc bánh Trung thu ra. Hoán Bích bước tới đỡ lấy cánh tay tôi. “Đêm hơi lạnh rồi, chúng ta mau vào trong thôi.”
Tôi thấy giọng Hoán Bích đầy vẻ buồn bã, khác hẳn với thường ngày, liền ngoảnh đầu nhìn, phát hiện trên khuôn mặt xinh đẹp kia quả nhiên thấp thoáng nét hụt hẫng. Tôi thở dài một tiếng, khẽ nói: “Hoán Bích, muội trách ta đã nói những lời vừa rồi sao?”
Hoán Bích khẽ lắc đầu, lát sau lại gật đầu, nói: “Tiểu thư thật lòng chúc mừng cho Vương gia sao? A Tấn không hiểu, nhưng sao nô tỳ không hiểu cho được chứ!”
Nỗi ưu sầu của tôi như thảm cỏ xuân lan tràn khắp nơi. Tôi cố không để ý tới việc này, hỏi lại Hoán Bích: “Vậy muội cảm thấy ta nên nói thế nào? Ngoài lời chúc mừng ra, ta chẳng thể nói được gì khác.”
Đầu ngón tay Hoán Bích hơi giá lạnh, tựa như giọt sương trên lá. “Đây là việc mừng, nhưng không phải ai cũng vui mừng”, rồi lại hơi cúi xuống. “Không phải A Tấn đã nói rồi sao? Vương gia cũng không vừa ý.”
“Vừa ý hay không vừa ý thì Vương gia cũng đã đến tuổi rồi, đây lại là ý của Thái hậu, lẽ nào thật sự có thể làm trái?”
Tôi bước qua bên cạnh, chậm rãi thắp một nén đàn hương, mùi khói lửa trộn lẫn mùi thơm dìu dịu của đàn hương khiến lòng tôi bình lặng hơn một chút nhưng đồng thời lại càng cảm thấy thê lương.
Hoán Bích tựa người vào cửa, chăm chú nhìn động tác của tôi, buồn bã nói: “Khi sầu muộn, tiểu thư thường thích thắp đàn hương thế này.”
Bàn tay tôi hơi run rẩy nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Muội thấy ta đang sầu muộn sao?”
Hoán Bích chỉ khẽ lắc đầu, mỉm cười, nói: “Một khi Vương gia có gia thất, nhất định sẽ không được tự do tự tại như trước nữa, cũng không thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”
Tôi hít một hơi thật sâu, chầm chậm nhấm nháp mùi thơm dìu dịu của đàn hương trong không khí, hồi lâu sau mới nói: “Muội rất mong được gặp Lục Vương gia sao?”
Cuối cùng, Hoán Bích không chịu nói gì thêm.
Mười lăm trăng sáng, Mười sáu trăng tròn, hôm nay, trong lúc các ni cô đi tụng niệm, Huyền Thanh bước đi giữa những ánh trăng màu trắng sữa tới thăm tôi. Mãi đến khi chiếc bóng dài của y xuất hiện trong tầm mắt, tôi mới giật mình phát hiện y đã tới.
Thoáng kinh ngạc, tôi rất nhanh đã đứng dậy, nói: “Vương gia trước giờ chưa từng tới đây, sao hôm nay lại tới thế?”
Dáng vẻ y rất ung dung, tựa như chẳng có việc gì, bước tới gần tôi, mỉm cười nói: “Đang làm gì thế?”
Tôi gác cây bút trong tay qua một bên, khẽ cười, nói: “Còn có thể làm gì được, chép kinh Phật cho Thái hậu thôi. Mấy ngày nữa Phương Nhược sẽ lại tới lấy!”
Y “ồ” một tiếng, lẳng lặng đọc tập kinh văn mà tôi vừa chép, hồi lâu sau mới chậm rãi nói: “Chữ của nàng lại tiến bộ hơn rồi, chỉ là…” Sau đó, y vừa chỉ tay vào chữ vừa nhìn tôi, nói: “Hình như tâm thần nàng không yên, do đó mấy chữ này có hơi nghiêng ngả.”
Tôi hờ hững đưa mắt liếc qua, làm bộ thản nhiên nói: “Vương gia tinh mắt thật, mấy việc này ta đều chẳng thể giấu được ngài.” Thấy Hoán Bích bưng trà bước vào, tôi mới mỉm cười, nói: “Đa tạ Vương giaôm qua tặng bánh, ta nhất thời cao hứng nên chữ viết mới thành ra như vậy.”
Hai mắt bỗng hơi lóe sáng, Huyền Thanh mỉm cười, ôn tồn hỏi: “Nương tử đã đoán được rồi sao?”
Loại trà mà Hoán Bích pha mang tới là trà cúc Hàng bạch, những bông hoa màu vàng nhạt nổi bồng bềnh trên mặt nước, phía dưới là một mảng màu xanh trong vắt. Tôi hơi cúi đầu, lập tức ngửi thấy một mùi thơm thanh tân dễ chịu.
Tôi hiểu rõ dụng tâm của Hoán Bích, hôm qua nghe thấy những lời đó của A Tấn, tôi tất nhiên không vui; còn A Tấn xưa này vốn mau mồm mau miệng, sau khi quay về nhất định sẽ nói hết những lời của tôi với Huyền Thanh, như thế Huyền Thanh ắt sẽ càng không vui, do đó Hoán Bích mới chọn trà cúc Hàng bạch, giúp tâm trạng hai chúng tôi phần nào bình tĩnh hơn.
Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà, cười tủm tỉm, nói: “Lời giải đố là ‘hữu bị vô hoạn’, muốn dựa vào đó để đoán ra câu đố quả không dễ dàng gì. Ta đã phải nghiền ngẫm suốt hồi lâu mới nghĩ tới truyện Tam Quốc, từ đó đoán ra đáp án, nhưng cũng không biết mình đoán có đúng không, còn phải chờ Vương gia trả lời mới được.”
Y cầm chén trà trong tay, cười nói: “Nương tử cứ nói ta nghe thử.”
“Trong Tam Quốc, ‘bị’ ý chỉ hoàng thúc nhà Hán Lưu Bị. Lưu Bị dốc hết tâm sức cả đời, lập quốc ở Thục Trung, trở thành chủ nhân nước Thục. Còn ‘vô hoạn’ có nghĩa là bình an.” Ngón tay tôi búng nhẹ vào chiếc chén làm bằng sứ, vang lên những tiếng “tách tách” vui tai, nụ cười bên khóe miệng đầy vẻ thư thái. “Thục Trung và Xuyên Bách ở rất gần nhau, hẳn là Vương gia muốn nói với ta, cha mẹ và muội muội ta ở vùng Xuyên Bắc đều bình an, khỏe mạnh.”
Y nở một nụ cười vui mừng, nói: “Nàng đoán đúng lắm, người mà ta phái đi đã quay về bẩm báo rồi, cha mẹ nàng đều khỏe mạnh, không đau bệnh gì, hơn nữa hai năm nay cha nàng hưng tu thủy lợi, mở rộng kênh mương, giúp việc giao thông thêm thuận lợi, chính tích khá tốt, hơn nữa còn được nhân dân yêu quý.”
Xuyên Bắc là nơi đất đai cằn cỗi, cha mẹ đều khỏe mạnh, tôi cũng yên tâm hơn phần nào. Tôi thầm cảm động, giọng nói cũng bất giác dịu dàng hơn: “Đa tạ Vương gia nói với ta những việc này”, rồi lại lo lắng nói: “Nơi đó giá lạnh, chân cha ta xưa nay luôn yếu, nhỡ bị đau nhức thì phải làm sao đây?”
Huyền Thanh bật cười, đôi mắt nheo lại thành hình hai vầng trăng non rất đẹp. “Sau Trung thu là tới mùa đông rồi, chỉ e thời tiết sẽ càng lúc càng lạnh. Hôm qua được biết có sứ giả vào Xuyên, ta liền nhờ Ôn thái y tìm cho một ít thuốc cao đặc trị những bệnh hay mắc ở nơi ẩm thấp, đặc biệt là về xương, sau đó nhờ sứ giả mang tới cho Chân đại nhân rồi.”
Lòng tôi thầm thư thái, lại càng cảm kích sự chu đáo của y. “Thực làm phiền Vương gia phải tổn hao tâm trí.”
Y cười vang, nói: “Ta đâu có gì mà hao tâm tổn trí, người hao tâm tổn trí là Ôn thái y kìa. Vừa nghe nói ta muốn đưa thuốc tới cho Chân Viễn Đạo đại nhân, suốt đêm đó, y liền chọn những loại nguyên liệu tốt nhất để chế tạo ra một loại thuốc cao mới, rồi đích thân đưa tới phủ của ta, ta chẳng qua chỉ thuận nước dong thuyền mà thôi.”
Nơi đáy lòng tôi thầm buông tiếng thở dài, cũng rất cảm kích. Ở trong cung may còn có Ôn Thực Sơ. Nhưng tôi không muốn để Huyền Thanh nghĩ nhiều, vì vậy chỉ mỉm cười, nói: “Ôn thái y là cố giao lâu năm với nhà ta, nhưng bây giờ vẫn chịu giúp đỡ như thế cũng thực là hiếm có.” Tôi bất giác thấy hơi buồn bã, trên thế gian này việc thêu hoa trên gấm thì nhiều, tặng than giữa trời tuyết rơi thì ít, tâm ý của Ôn Thực Sơ thực đáng quý vô cùng.
Thế nhưng tôi rất nhanh đã tỉnh táo trở lại, ra vẻ trách cứ, nói: “Có điều, câu đố lần này của Vương gia lòng vòng trắc trở, muốn đoán ra được quả là chẳng dễ dàng gì.”
“Nếu quá đơn giản, với sự thông minh của nương tử nhất định sẽ đoán ra được ngay, như thế thì còn gì thú vị nữa.” Y búng ngón tay cười khẽ, tựa như đang nhấm nháp chén trà hoa cúc trong tay. “Hôm qua là Trung thu, ta đoán nàng nhất định sẽ nhớ nhà, do đó mới cố ý chọn một câu đố khó đoán như vậy, hy vọng có thể giúp nàng xua bớt nỗi nhớ mong.”
Huyền Thanh cứ luôn như vậy, mang tới cho tôi sự cảm động trong lặng lẽ. Đó không phải là những cơn sóng dữ cuộn trào, mà là từng làn gió nhẹ buổi đêm, hết sức dịu dàng và mềm mại, khiến tôi không cách nào nổi lên ý niệm kháng cự.
Trong lòng tôi trào dâng từng tia ấm áp, tựa như những bông hoa cúc bị ngâm trong nước trà kia, dần dãn nở từng chút.
Đột nhiên tôi nhớ tới câu nói của Hoán Bích hôm qua: “Một khi Vương gia có gia thất, nhất định sẽ không được tự do tự tại như trước nữa, cũng không thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”
Muốn thỉnh thoảng gặp một lần cũng không được, với y là thế, với tôi cũng thế.
Nghĩ tới đây, tôi lại càng buồn bã, khuôn mặt dần xuất hiện vẻ hụt hẫng.
Đúng lúc này, Hoán Bích ôm theo một bó cúc lớn bước vào, chẳng qua trông hết sức tự nhiên, trắng tinh thuần khiết, thanh nhã vô cùng.
Hoán Bích đứng lẳng lặng bên cạnh ô cửa sổ phía nam, cẩn thận thay hoa mới vào bình. Vì có muội ấy ở đây, tôi nhất thời không tiện nói gì, mà Huyền Thanh cũng không nói nửa lời, hai chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau, im lặng uống trà.
Lát sau, Hoán Bích ôm theo bó hoa cúc vàng đã lụi tàn quá nửa rời đi, vì có hơi vội vã nên mấy cánh hoa rơi xuống sàn, màu sắc đều đã đen thui, còn hơi xoăn vào, tựa một trái tim đã hoàn toàn suy sụp.
Hôn sự của y, nếu y không nhắc tới, tôi cũng sẽ chẳng đề cập một từ nào, chỉ làm như không biết mà thôi, bởi tôi cũng đâu thể nói được gì.
Hồi lâu sau, trà nguội hẳn, rốt cuộc y cũng lên tiếng: “Hôm qua, A Tấn làm nương tử giận sao?”
Tôi lắc đầu, nụ cười hờ hững mà xa cách một mực hiện diện trên khóe môi. “A Tấn xưa nay luôn nhanh nhẹn, thẳng thắn, dù y có nói gì thì ta cũng không tức giận đâu.”
Y hơi khép mắt lại vẻ mỏi mệt, khẽ cất tiếng: “Y rất lắm lời”, suy nghĩ một chút lại nói thêm: “Như vậy, nàng đã biết rồi đúng không?”
Tôi hờ hững vạch qua vạch lại ngón tay trên mặt bàn, nói: “Đúng vậy, nhưng ta chỉ thấy mừng thay Vương gia thôi!”, rồi lại chậm rãi nói tiếp: “Tiểu thư của Vưu phủ đương nhiên là một sự lựa chọn tốt, huống chi Thái hậu lại thích nàng ta nữa.” Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, để dòng nước giá lạnh chảy qua đầu lưỡi. “Năm xưa, Bái Quốc công từng cùng Thái tổ Hoàng đế chinh chiến sa trường, vào sinh ra tử nên mới có được công danh như thế, tất cả đều là dùng đao thương mà đổi lại. Bái Quốc công gia thế hiển hách, đã phong quang được mấy trăm năm, tuy bây giờ chẳng còn thực quyền trong tay nhưng gia giáo rất tốt, con gái trong một gia đình như vậy nhất định là bậc đại gia khuê tú, phong hoa tuyệt trần. Tĩnh Nhàn…” Tôi thoáng trầm ngâm, cười nói: “Vừa nghe đã biết là tên của một cô gái ngoan hiền nền nã, ta xin có lời chúc mừng Vương gia trước.”
Tôi cũng không biết tại sao mình lại thao thao bất tuyệt như vậy, dường như chẳng khống chế nổi bản thân, càng nói nhiều, cảm giác thê lương trong lòng càng nồng đậm, nhanh chóng bao phủ toàn thân tôi.
Thần sắc Huyền Thanh theo từng lời nói của tôi mà càng lúc càng trở nên buồn bã.
Y im lặng hồi lâu, đột nhiên khẽ nở một nụ cười tao nhã, bên trong lại thấp thoáng đôi nét ưu sầu, nhìn tôi, trầm giọng hỏi: “Nàng thật lòng chúc mừng ta sao?”
Có khoảnh khắc nào đó tôi thực sự rất muốn ngoảnh đầu đi, vô cùng muốn, nhưng rốt cuộc tôi vẫn kìm được, cố nở nụ cười dịu dàng nhất có thể. “Đương nhiên là thật lòng chúc mừng rồi!”
Y chỉ im lặng. Tôi không dám nhìn y nhưng chiếc bóng của y in xuống chén trà thực rõ ràng biết mấy, rõ ràng đến mức khiến tôi không thể không nhìn.
Bàn tay y chậm rãi đưa tới, muốn nắm lấy tay tôi. Tôi cả kinh, rụt tay về theo bản năng, không dám ngẩng lên thêm lần nào.
Nụ cười của y lại càng trở nên giá lạnh, tuy đang cười nhưng lại chẳng có chút tâm trạng vui vẻ nào, khuôn mặt tựa như tấm mặt nạ cứng đơ, khiến người ta vừa nhìn là đã có cảm giác như bị một làn gió thu héo hắt thổi qua, chỉ còn lại nỗi cô đơn cùng ánh tà dương tịch mịch.
Bàn tay của y giữ nguyên khoảng cách một tấc với tay tôi, không động đậy, tôi cơ hồ có thể cảm nhận được sự giá lạnh nơi đầu ngón tay y. Giọng y vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh: “Bất kể nàng có nói thực lòng hay không, ta chỉ muốn nói với nàng, ta không hề thích Vưu Tĩnh Nhàn.” Rồi y chậm rãi đứng dậy, chắp tay sau lưng đi tới trước cửa sổ, bó hoa cúc dại kia khoe sắc trước mắt y, ngoài cửa sổ là gốc ngô đồng với rất nhiều phiến lá đang rơi lặng lẽ. “Có mấy câu thơ vừa hay có thể biểu đạt tâm trạng ta lúc này.” Y nói, giọng hơi hờ hững, trong sự hờ hững lại toát ra vẻ kiên định không thể thay đổi: “Bước ra vừa khỏi cửa đông, lắm cô thiếu nữ sắc dung mặn mà. Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình[3]. Dù Vưu Tĩnh Nhàn có tốt đến thế nào, ta cũng không sao yêu thích được.”
[3] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Xuất kỳ đông môn, hữu nữ như vân. Tuy tắc như vân, phi ngã tư tồn – ND.
Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình. Không ngờ y lại dùng đôi câu thơ này để tỏ rõ tâm ý.
Tôi không còn gì để nói, chỉ biết cúi đầu, khẽ thở dài. “Nhưng Thái hậu rất vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu, mà Vương gia quả thực cũng tới tuổi thành hôn rồi, chẳng lẽ cứ định kéo dài mãi hay sao?”
Ánh mắt y nóng bỏng như lửa, sáng rực như đuốc. “Thái hậu không biết, nhưng nàng thì biết rõ, ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình yêu đương[4].”
[4] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Cảo y kỳ cân, liêu nhạc ngã viên – ND.
Lòng tôi chấn động khôn cùng, áo xám khăn đen? Chẳng phải tôi chính là một người tu hành áo xám đó sao? Không ngờ y lại có thể thẳng thắn bày tỏ như vậy, không hề vòng vèo, cũng không hề mềm mỏng. Trong khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên không muốn né tránh nữa, dù tôi hiểu được tâm ý của y thì sao, có thể làm gì được chứ? Thế là tôi bèn nói: “Dù Vương gia không vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu thì Thái hậu cũng sẽ chọn cho ngài những mối hôn sự khác, Vương gia có thể cự tuyệt Vưu tiểu thư nhưng chẳng lẽ có thể cự tuyệt tất cả những người khác hay sao? Ý chỉ của Thái hậu không dễ gì phản kháng được đâu.” Khẽ hắng giọng, tôi lại nói tiếp: “Vương gia vừa mới nói ‘ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình yêu đương’ nhưng người áo xám khăn đen kia vị tất đã có tâm tư gì với Vương gia, Vương gia cớ sao phải tự làm khổ mình?”
Ngoài cửa sổ, lá vàng rơi lả tả, tựa những cánh bướm nhè nhẹ lượn bay, càng tôn lên vẻ tiêu điều của mùa thu. Y đứng trước cửa sổ, chậm rãi lên tiếng: “Dù mẫu hậu nhất định muốn chỉ hôn, ta cũng liều chết phản kháng. Mẫu hậu có kiên trì đến mấy thì rốt cuộc cũng không thể cự lại tâm ý của ta. Ta không phải quân vương, việc hôn nhân không liên quan gì tới vận nước, mẫu hậu ắt sẽ không bức ép ta quá!” Y chăm chú nhìn tôi, ánh mắt nóng bỏng không có lấy nửa phần rụt rè mà còn cuồn cuộn như nước, càng lúc càng mãnh liệt. “Còn về việc người áo xám khăn đen có tâm tư gì với ta hay không, ta nghĩ mình chỉ cần kiên trì chờ đợi nàng là được. Bởi ta tin rằng, chỉ cần đủ lòng thành, sẽ có ngày vàng đá cũng phải nứt ra.”
Đây là lần đầu tiên y thẳng thắn tỏ rõ tâm tư của mình với tôi như vậy.
Tôi hít một hơi khí lạnh nhưng trong người bất giác lại có những tia ấm áp đang dần lan tỏa. Tôi cơ hồ đã hơi xao động nhưng rốt cuộc vẫn cố kìm nén không suy nghĩ thêm, dứt khoát hỏi thẳng: “Đủ lòng thành, có lẽ thực sự sẽ có ngày vàng đá cũng phải nứt ra, nhưng giờ đây lòng ta đã như giếng lặng, thực không muốn nổi lên gợn sóng nào nữa, do đó dù có nhiều lòng thành đến mấy thì cũng vô dụng thôi, Vương gia hà tất phải uổng phí tâm sức.”
Nhưng y lại dùng một nụ cười bình thản để đón lấy vẻ hờ hững của tôi. “Không cần biết vàng đá có nứt ra hay không, Thanh vẫn sẽ dốc hết lòng mình.” Y nhìn tôi chăm chú, nói tiếp: “Thanh chỉ mong nương tử đừng nói hai chữ ‘chúc mừng’ nữa, Thanh quả thực sợ phải nghe thấy hai chữ đó vô cùng.”
Tôi khẽ buông tiếng thở dài buồn bã. “Được, ta sẽ không tùy tiện nói vậy nữa. Chỉ là nếu thực sự có một ngày như thế, Vương gia cũng không để ta được thật lòng chúc mừng sao?” Thấy y hơi cau mày, tôi vội nói: “Được rồi, được rồi, ta không nói nữa.”
Nụ cười của y rốt cuộc đã ấm áp trở lại. “Nàng biết không, hôm qua khi A Tấn quay về nói với ta việc nàng chúc mừng ta, ta thực sự đã tức đến phát điên, chỉ hận không thể bỏ dở bữa tiệc trong cung mà chạy tới đây lý luận với nàng.”
Tôi phỉ phui một tiếng, khẽ nói: “Ta vốn có lòng tốt, ngài hà tất phải tìm ta lý luận làm gì”, rồi lại mỉm cười nói tiếp: “Thanh Hà Vương xưa nay luôn tự phụ là bậc quân tử ung dung, nho nhã, không ngờ cũng có lúc nóng giận đến mức này.”
“Cũng chỉ có nàng mới có thể khiến ta tức giận đến thế thôi!” Y thở dài lẩm bẩm. “Chỉ mình nàng thôi!”
Tôi khẽ cười một tiếng, không nói gì thêm.