Mười một năm trước, khi tôi mới lên mười, mẹ tôi sai tôi đi mang đồ ăn ột ông lão, Ông Ivanovic, sống ở phía cuối con đường nhà chúng tôi.
“Con phải làm việc này, Billie”, bà ấy gắt gỏng khi tôi cứ phàn nàn. “Ông ấy cũng là người Serbia như chúng ta. Ông ấy bảy lăm tuổi rồi, vợ lại chết vài năm trước nên ông ấy không không thể tự nấu bữa tối ình với bệnh viêm khớp nặng như vậy.”
Cứ vài ngày tôi lại mang thức ăn mẹ nấu đến cho ông ấy. Thật sự thì, ông lão ấy không quá tệ. Ông ấy có nhiều câu chuyện thú vị khi ông ấy còn là anh lính ở Yogoslavia. Ông ấy và vợ đã chuyển nhà đầu những năm 90 vì chiến tranh và đến Mỹ như những người tị nạn khác. Không may thay, vợ ông ấy đã mất khi mới chuyển tới đây không lâu.
Hôm đó, tôi đã mua món Pljeskavica và khoai tây cho ông Ivanovic. “Ngồi đi, ta sẽ đem cho cháu ít nước!” Tôi làm như ông ấy bảo và ngồi xuống đi văng. Ông ấy lết bước vào bếp.
Đó cũng là lúc tôi nghe thấy nó. Tiếng gõ nhẹ phát ra từ phía dưới chân tôi. Sau đó xê dịch dần. Nghe như tiếng ông Ivanovic lết chân vậy; tiếng động phát ra từ bàn chân lê trên sàn gỗ mòn và nhám...
“Ông Ivanovic?”, tôi gọi. Không có tiếng trả lời. Tôi bước đến ngăn bếp và thấy ông ấy đã ngã sụp xuống sàn nhà. “Ôi không!”, tôi thở hổn hển. Tôi thấy ngực ông ấy vẫn phập phồng nhưng khóe miệng ông ấy đang trào máu. Tôi gọi 911, hét với người trực tổng đài mau gửi xe cấp cứu tới. Nhân viên trực tổng đài hứa họ sẽ có mặt trong vòng 10 phút.
Ngay khi bỏ điện thoại vào túi, tôi lại nghe thấy âm thanh đó. Lê lết và gõ. Tim tôi đập mạnh nhưng tôi nghĩ mình phải xem thứ gì đang tạo ra âm thanh đó.
Tôi bước đến cánh cửa dẫn xuống tầng hầm nhà ông ấy và đẩy then cửa đang chốt. Tôi đẩy cửa và nó từ từ bật mở, đập vào bức tường. Những bậc thang gỗ biến mất trong bóng tối đen như mực bên dưới. Mùi mốc lạ lùng xộc lên. Tệ hơn nữa, tiếng lê lết ấy lớn dần, lớn dần, gần về phía tôi. Tôi bật công tắc đèn nhưng chẳng có gì xảy ra. ‘Dĩ nhiên rồi’, tôi tự nghĩ một cách bất cần: ‘Phim kinh dị trong đời thực đây. Làm sao đèn sáng được cơ chứ.’
Âm thanh đó vẫn cứ lớn dần lên, và đột nhiên có sự chuyển động. Ngay sau đó tôi đã thấy nó: thứ gì đó, ở chân cầu thang. Mặt nó có vẻ giống con nguời nhưng rõ ràng là nó không phải... nó là một quái vật già cỗi với gương mặt méo mó. Da và mắt nó có màu trắng đục của sữa, miệng mở to, trống rỗng. Với móng vuốt dài, nó đang từ từ bò lên bậc thang, chân tay nó quặt quẹo trông cực kỳ khủng khiếp. Tôi hét lên, đóng sầm cánh cửa và chốt lại. Thứ đó vẫn cứ đập cửa và tôi nghe cả tiếng rên rỉ không hề giống con người. Tôi chạy về nhà mà không cần biết đến việc chờ xe cấp cứu.
Ông Ivanovic không về lại nhà từ sau lần nhập viện đó nữa. Ông ấy đã bị đột quỵ và liệt người. Ông ấy thậm chí không nói đưojc. Cuối cùng, ông ấy cũng qua đời.
Tôi chưa từng kể với ai về những gì tôi đã thấy, và ký ức đó cũng dần phai mờ.
Tuần trước, tôi từ trường đại học về thăm nhà. Bố mẹ tôi mời thêm một người hàng xóm đến ăn tối. Tôi bước vào bàn ăn và nghe họ nói chuyện.
Cô ấy tặc lưỡi “Ờ phải. Cháu trai họ đã đến Mỹ để bán căn nhà đó. Ngay khi chuyển tới, những người chủ mới đã phát hiện ra bà ta ở dưới đó. Đã chết khô lâu rồi. Lão ấy hoàn toàn điên! May là ông ta không làm như vậy với Biljana nhà cậu hồi cậu bảo nó đi đưa thức ăn cho ông ấy đấy.”
Tôi sởn gai ốc ngay lập tức. “Ai cơ?” tôi hỏi. “Họ tìm thấy ai cơ ạ?”
“Vợ của Ivanovic!” cô ấy đáp. “Để cô kể cho nghe. Bà ấy không phải đã chết như ông ấy nói với chúng ta; ít nhất là không phải lúc ông ta còn sống ở đó. Họ không biết chắc lý do ông ta khóa bà ấy dưới tầng hầm như vậy. Ông ấy không bình thường lắm do di chứng thời chiến tranh; chúng tôi từng nghe họ cãi vã suốt. Nhưng sau đó không ai biết về họ nữa, họ cũng không có bà con nào ở Mỹ, nên khi ông ấy bảo vợ đã mất thì mọi người cũng tin. Bà ấy đã ở dưới đó bảy năm, xương bị gãy, cánh tay bà ấy bị bẻ quặt lại và một bên mắt cá chân cũng vậy. Bà ấy bị mù do ở trong bóng tối quá lâu, da thì lở loét hết vì không được tắm rửa. Ông ta cũng đã cắt lưỡi của bà ấy để bà ấy khỏi kêu khóc cầu cứu.”
Cả người tôi lạnh toát, chân cũng không trụ vững nữa. Tôi dựa người rồi ngã luôn xuống ghế. Ký ức về cái thứ quặt quẹo, nhợt nhạt trên bậc thang ấy ập tới.
“Bà ấy chết vì mất nước, một mình sống trong bóng tối, sau khi chồng bà ta đột quỵ và không thể nói cho ai biết rằng bà ấy ở dưới đó”, mẹ tôi vừa nói vừa lắc đầu. “Bà ấy hẳn đã rất cô đơn và sợ hãi. Nhiều lần chúng ta đã tới đó mà chẳng nghe thấy điều gì!”
Mẹ tôi thở dài.
“Giá như có ai đó biết thì.