Công Tôn Giao còn đang giật mình kinh hãi, ‘hoàng đế bệ hạ’ dưới thành đã hô to:
- Các tướng sĩ trên đầu thành nghe rõ đây, trẫm chính là hoàng đế của đế quốc Thu Phong Kính, còn không mau mở cửa thành!
‘Hoàng đế bệ hạ’ vừa dứt lời, lại một bóng người nữa xuất hiện bên cạnh ‘hoàng đế bệ hạ’ hoa tay múa chân giận dữ hét lớn:
- Người trên đầu thành nghe rõ đây, lập tức gọi trưởng quan của các ngươi ra nói chuyện! Bản quan chính là Tể tướng của đế quốc Tiêu Thành Lương, lần này may được tướng quân Thác Bạt Dã của quân Thanh Châu liều chết cứu giúp, bản quan và bệ hạ mới may mắn thoát khỏi miệng hùm, lúc này quân địch đang đuổi sát sau lưng, còn không mau mau mở cửa để chúng ta vào thành!
- Cái gì, quả thật là hoàng đế bệ hạ sao?
Trán Công Tôn Giao đã toát mồ hôi lạnh:
- Còn có Tể tướng đại nhân nữa… Chuyện này…
Đám quân U Châu phía sau Công Tôn nhìn nhau ngơ ngác, hoàng đế bệ hạ ngay trước mắt cho dù có muốn quỳ nhưng chưa có quân lệnh cũng không thể dễ dàng quỳ xuống.
Trong lòng Công Tôn Giao càng thêm phần cảnh giác, vạn nhất hai người bên ngoài thành là giả mạo thì sao? Nếu đây chỉ là âm mưu quỷ kế của quân địch chẳng phải là hỏng cả đại sự hay sao? Nếu như thành Tây Kinh bị quân đoàn Mãnh Hổ dùng kế lừa gạt để mở cửa thành, lại bị quân đoàn Mãnh Hổ công hãm lần thứ hai, lúc ấy chẳng những quân U Châu bị mất sạch thể diện, ngay cả thể diện của đế quốc cũng không còn!
Nghĩ tới đây Công Tôn Giao nghiến răng, lớn tiếng quát hỏi:
- Các ngươi có bằng chứng gì không?
- Bằng chứng?!
‘Tể tướng đại nhân’ dưới thành đột nhiên hoa tay múa chân mắng lớn:
- Hình dáng của bản quan và hoàng đế bệ hạ chính là bằng chứng, chẳng lẽ ngươi không tìm được vài tên quan viên đã từng nhận biết hoàng đế bệ hạ và bản quan hay sao? Bất quá bản quan muốn khuyên các ngươi, quân địch còn cách chúng ta không xa lắm, Thác Bạt tướng quân đang chỉ huy quân Thanh Châu liều chết ngăn cản, xem ra không chống đỡ được bao lâu!
Bên dưới thành, Tiêu Thành Lương đã khóc, đáng thương thay, thật ra từ nãy giờ hắn chưa từng nói nửa lời, những lời nói vừa rồi đều là do tên địch sau lưng hắn nói từng tiếng một! Tên khốn Mạnh Hổ kia quả thật quá ác độc, hắn muốn đem tội lừa gạt mở cửa thành trút lên đầu vua tôi hai người bọn họ, đây là muốn tròng vào cổ hai người vua tôi bọn họ còn đang sống sờ sờ một tội tày trời–giặc bán nước!
Thật ra vì hai tên giặc sau lưng trói chặt rồi cưỡng bức, Tiêu Thành Lương có muốn tự sát cũng không thể được, cho dù hắn giãy dụa thế nào cũng không thoát khỏi. Trong khi Tiêu Thành Lương còn đang giãy dụa, các tướng sĩ U Châu trên đầu thành nhìn thấy chỉ tưởng rằng hắn đang trong tình trạng kiệt sức, rõ ràng là nhờ vào hai tên tướng sĩ ‘Thanh Châu’ phía sau ‘dìu đỡ’ mới có thể đứng vững được, thật là chết người mà…
Trên đầu thành, trán Công Tôn Giao đã toát ra những giọt mồ hôi lạnh to bằng hạt đậu, hắn vội vàng lớn tiếng quát:
- Có ai nhận biết bệ hạ và Tiêu đại nhân hay không, mau bước ra khỏi hàng!
Có một tên cảnh vệ trấn thủ cửa Đông vội vàng bước ra:
- Tướng quân, tiểu nhân may mắn gặp qua bệ hạ hai lần.
- Mau…
Công Tôn Giao không chút suy tư quay đầu lại quát:
- Lấy giỏ treo, dùng giỏ thả hắn xuống dưới đi xem thật giả!
Lập tức có mấy tên tướng sĩ U Châu vào trong tiễn lâu lấy giỏ treo ra, dùng dây dòng tên cảnh vệ kia xuống dưới chân thành. Sau khi xuống dưới chân thành, tên cảnh vệ kia liền nhảy xuống con sông hộ thành bơi qua bên kia, lập tức có vài tên ‘quân Thanh Châu’ kéo hắn dưới sông lên, tên cảnh vệ nọ vừa lên khỏi bờ sông liền thấy vẻ mặt đầy lo lắng của Thu Phong Kính.
Tên cảnh vệ này quả thật đã từng gặp qua Thu Phong Kính, mặc dù lúc này chỉ thấy Thu Phong Kính từ xa, nhưng nhờ nhãn lực của hắn rất tốt, tự nhiên nhận ra người này quả nhiên là hoàng đế của đế quốc Thu Phong Kính. Lập tức hắn sợ hãi đến suýt nữa vãi ra quần, quỳ phịch xuống ngay trước mặt Thu Phong Kính, dập đầu xuống đất không dám ngẩng lên.
Công Tôn Giao trên đầu thành thấy thế nhất thời trong lòng nặng trĩu, xem ra đúng thật là hoàng đế bệ hạ.
Dưới thành Thu Phong Kính vô cùng lo lắng, hắn cố gắng mấp máy môi, nhưng thanh âm vang lên rõ ràng là từ trong miệng tên tướng sĩ của địch cải trang thành quân Thanh Châu vọng ra:
- Thật là đáng ghét, các tướng sĩ trên đầu thành nghe đây, nếu còn chưa mở cửa thành ra, sau khi trẫm vào thành tuyệt đối không tha cho ngươi đâu!
Tiêu Thành Lương bên cạnh cũng tỏ ra lo lắng, miệng mấp máy, vẻ mặt như điên cuồng.
Nhưng những lời từ miệng của tên gian tế quân đoàn Mãnh Hổ phía sau hắn vang lên càng làm cho hắn cảm thấy điên cuồng hơn nữa:
- Đám loạn thần tặc tử khốn kiếp kia, dám ngăn cản ngự giá của bệ hạ, không muốn sống nữa hay sao? Mau mau mở cửa thành ra, còn không chịu mở, vạn nhất bệ hạ bị thương, cả nhà các ngươi sẽ bị đem ra chém!
Trên đầu thành, mồ hôi lạnh trên trán Công Tôn Giao đang chảy xuống tong tong.
Tên cảnh vệ vừa được thả xuống đi nhận diện không thể nào là gian tế của địch, thế nhưng không biết vì sao trong lòng Công Tôn Giao cảm thấy có vẻ không ổn, thuỷ chung hắn vẫn cảm thấy tình hình ngoài thành có vẻ quỷ dị. Có lẽ là do trực giác, có lẽ do cuộc sống thường ngày lăn lộn trong nguy hiểm đã làm cho hắn có cảm giác nhạy cảm với nguy hiểm, tóm lại là trong tình hình này hắn cảm thấy có một tia nguy hiểm.
Bây giờ phải làm sao? Mở cửa thành hay không?
Nếu như mở cửa thành, nếu như đây là bẫy rập của quân đoàn Mãnh Hổ thì sao?
Nếu như không mở cửa, như vậy có thể thật sự làm hại hoàng đế bệ hạ một lần nữa rơi vào trong nanh vuốt của quân đoàn Mãnh Hổ, Công Tôn Giao hắn tuyệt đối không gánh chịu nổi tội lỗi như vậy, nói không chừng cả họ Công Tôn ở U Châu cũng sẽ bị Nguyệt vương điện hạ nhổ đến tận gốc!
o0o
Trong bóng tối ngoài thành.
Có ba bóng người gần như hoà lẫn vào trong bóng tối xung quanh, ba bóng người này chính là Mạnh Hổ, Tất Điêu Tử và Cổ Vô Đạo.
Mắt thấy tên tướng trên đầu thành vẫn còn do dự không quyết, Mạnh Hổ không khỏi thở dài cảm khái:
- Đế quốc Minh Nguyệt quả thật có lắm nhân tài, chúng ta diễn trò đến mức như vầy có thể nói là vô cùng hoàn hảo không có chút gì sơ hở, nhưng tên tướng địch trên đầu thành vẫn chưa chịu mở cửa thành ra. Việc này không thể kéo dài dây dưa, chậm trễ ắt sinh biến, bảo Thác Bạt Dã mau mau ra mặt đi!
o0o
Trên đầu cửa Đông thành Tây Kinh.
Công Tôn Giao còn đang phân vân chưa quyết, trong bóng tối dưới thành bỗng nhiên vang lên một tràng tiếng vó ngựa rầm rập, chợt có mười mấy kỵ binh ‘quân Thanh Châu’ nhanh như cơn lốc vọt tới trước con sông hộ thành. Kỵ sĩ phi ngựa dẫn đầu khoác trọng giáp toàn thân đẫm máu, thoạt nhìn dường như là đại tướng của quân Thanh Châu.
Viên tướng lĩnh Thanh Châu kia đương nhiên là Thác Bạt Dã.
Chuyện đã đến nước này, Thác Bạt Dã cũng không còn con đường nào khác, hắn đã từng ‘biểu lộ tấm lòng’ trước mặt hoàng đế của đế quốc Thu Phong Kính và Tể tướng đế quốc Tiêu Thành Lương. Hiện tại ngoại trừ đường đi theo Mạnh Hổ, hắn không còn con đường nào khác có thể đi, còn việc sau này có được ghi tên vào gia phả của Thác Bạt gia hay không, có được chôn chung phần mộ tổ tiên của họ Thác Bạt hay không, đã không còn nằm trong quyền chủ động của hắn.
- Hây!
Thác Bạt Dã quát ngựa dừng lại, vung thương lên quát:
- Tướng thủ trên đầu thành là ai? Tại sao chưa chịu mở cửa thành?
Công Tôn Giao hít sâu một hơi, tay vịn lỗ châu mai hỏi lại:
- Ngươi là ai?
- Bản tướng quân chính là sư đoàn trưởng sư đoàn số Ba của quân đoàn Thanh Châu Thác Bạt Dã!
Thác Bạt Dã lớn tiếng quát:
- Tại sao không mở cửa thành cho hoàng đế bệ hạ và Tể tướng đại nhân vào thành? Các ngươi cố ý muốn để cho hoàng đế bệ hạ và Tể tướng đại nhân trở thành tù binh của quân đoàn Mãnh Hổ một lần nữa hay sao? Mở cửa cho mau, nếu còn không mở cửa, đừng trách bản tướng quân không khách khí!
Trong lòng Công Tôn Giao đã tin hết chín phần, nhưng vẫn chưa yên tâm hỏi tiếp:
- Vì sao Thác Bạt tướng quân lại ra nông nỗi như vậy?
- Hỏi thừa!
Thác Bạt Dã lớn tiếng quát:
- Nếu không phải vì quân Thanh Châu chúng ta liều mạng tử chiến, hoàng đế bệ hạ và Tể tướng đại nhân làm sao có thể dễ dàng thoát hiểm? Hiện tại Tư Đồ đại nhân đang suất lĩnh tàn binh Thanh Châu liều mạng cùng quân đoàn Mãnh Hổ, ngươi không chịu xuất binh tăng viện đã đành, không ngờ còn muốn ngăn trở hoàng đế bệ hạ và Tể tướng đại nhân vào thành, rốt cục ngươi có ý gì đây?
Công Tôn Giao thở ra một hơi thật dài, trong lòng đã hết hoài nghi, lập tức quay đầu hạ lệnh:
- Mở cửa, lập tức mở cửa thành ra!
Lệnh đã được ban, rốt cục cầu treo đã từ từ hạ xuống, cửa thành đóng chặt cũng chậm rãi mở ra, thanh âm ken két vang lên, đám ‘tàn binh Thanh Châu’ trước con sông hộ thành ôm lấy Thu Phong Kính và Tiêu Thành Lương chen chúc ào vào cửa thành. Rốt cục cửa lớn của thành Tây Kinh lại mở rộng một lần nữa với quân đoàn Mãnh Hổ!
o0o
Hổ Khiếu quan.
Rốt cục quân đoàn U Châu của Công Tôn Hạng đã chạy tới Hổ Khiếu quan, bất quá chuyện làm cho người khác kinh hãi là cửa quan rộng mở, gió thổi lạnh lẽo từng hồi, một bóng người cũng không thấy!
Đại tướng tiên phong của quân đoàn U Châu chính là Công Tôn Ngao con trai lớn của Công Tôn Hạng. Công Tôn Ngao lo lắng đây là kế nghi binh của quân đoàn Mãnh Hổ, cho nên không dám cho đại quân đến quá gần Hổ Khiếu quan, chỉ phái một tiểu đội vào quan thăm dò. Kết quả vượt xa ngoài sức tưởng tượng của Công Tôn Giao, không ngờ trong quan ngay cả một bóng quỷ cũng không có!
Đến giữa trưa, Công Tôn Hạng cũng đã suất lĩnh đại quân chủ lực U Châu chạy tới.
Vừa gặp Công Tôn Ngao, Công Tôn Hạng lập tức hỏi:
- Ngao nhi, tình hình thế nào?
Công Tôn Ngao đáp:
- Phụ thân, lúc hài nhi dẫn quân chạy tới, cửa Hổ Khiếu quan mở toang, trong quan không có bất cứ tiếng động nào. Hài nhi còn lo lắng đây là kế nghi binh của quân đoàn Mãnh Hổ cho nên không dám tới gần, chỉ phái ra một tiểu đội vào quan thăm dò, kết quả phát hiện ra quân đoàn Mãnh Hổ đã sớm bỏ quan mà đi!
- Cái gì?
Công Tôn Hạng ngạc nhiên hỏi lại:
- Quân đoàn Mãnh Hổ bỏ quan rồi sao?
- Đúng vậy!
Công Tôn Ngao gật mạnh đầu:
- Phụ thân, hài nhi đã lục soát cẩn thận từng ngõ ngách nhưng vẫn không phát hiện được gì, quân đoàn Mãnh Hổ quả thật đã bỏ quan.
Ánh mắt Công Tôn Hạng sáng rực, trầm giọng nói:
- Du kỵ binh thám báo của quân ta đã lục soát rất kỹ cả vùng đại bình nguyên Trung Châu, huống chi còn có du kỵ binh thám báo của quân đoàn Sóc Châu. Quân đoàn Mãnh Hổ không phải chỉ có năm ba ngàn người, mà có tới mười vạn đại quân, muốn trốn khỏi tai mắt du kỵ binh thám báo của quân ta tuyệt đối không thể được!
Công Tôn Ngao nói:
- Nhưng quân ta một đường thẳng tới Hổ Khiếu quan quả thật là chưa phát hiện qua hành tung của quân đoàn Mãnh Hổ.
Công Tôn Hạng nói:
- Xem ra quân đoàn Mãnh Hổ của Mạnh Hổ đã chia nhau phá vòng vây, sư đoàn khinh kỵ binh thì kéo quân về hướng Tây, dụng ý vừa là muốn che giấu tai mắt người khác, vừa là dẫn dụ kỵ binh quân đoàn Sóc Châu của Yến Thập Tam. Còn bộ binh chủ lực của quân đoàn Mãnh Hổ thì rút lui sau, ắt đã bỏ quan chạy về phía Đông dọc theo Cực Thiên sơn tiến lên hướng Bắc.
- Tốt, vậy thì quá tốt!
Công Tôn Ngao phấn khích kêu lên:
- Tên khốn Mạnh Hổ kia không biết đại quân chủ lực của Nguyệt vương điện hạ đang dọc theo Cực Thiên sơn xuôi Nam, không ngờ tự mình dâng lên tới cửa. Như vậy chắc chắn quân hai bên sẽ chạm mặt nhau, đến lúc đó phụ thân suất lĩnh quân U Châu thẳng về hướng Bắc ép cho bộ binh chủ lực của quân đoàn Mãnh Hổ trở thành ba ba trong rọ.
Công Tôn Hạng cũng mỉm cười:
- Đúng là Mạnh Hổ tính toán vạn lần ắt phải có một lần lầm lỡ. Nếu như để lại một ít quân đội tử thủ Hổ Khiếu quan cầm chân chúng ta, quân đoàn Mãnh Hổ còn có thể ít nhiều tranh thủ được chút thời gian. Bây giờ thì quá tốt, quân đoàn Mãnh Hổ làm cho đế quốc chịu nhục, rốt cục cũng đã có thể bắt chúng trả giá rồi!
- Phụ thân!
Công Tôn Ngao phấn khởi:
- Chúng ta xuất quan đuổi theo thôi!
- Ừ!
Công Tôn Hạng gật mạnh đầu:
- Truyền lệnh toàn quân nhanh chóng xuyên qua Hổ Khiếu quan, hướng về phía Bắc dọc theo sơn mạch Cực Thiên sơn truy kích quân đoàn Mãnh Hổ!
Bạch Sa hà phát nguồn từ Nộ Thương sơn ở miền Bắc của Trung Châu, sau đó từ Bắc chảy xuống phía Nam băng ngang qua vùng đại bình nguyên Trung Châu cuối cùng rót vào sông Thông Thiên. Bạch Sa hà kéo dài hơn vạn dặm, nếu nói về chiều dài, chiều rộng và lưu lượng nước, Bạch Sa hà chỉ là một cái lạch nhỏ so với sông Thông Thiên mà thôi. Thế nhưng giờ đây Bạch Sa hà đối với sư đoàn kỵ binh của Mã Tứ Phong cũng giống như một lạch trời khó có thể vượt qua.
Mặt Bạch Sa hà không rộng lắm, nhiều nhất chỉ khoảng trăm bước, cũng không sâu, người ngựa cũng có thể đi bộ qua sông. Nhưng năm nay đầu mùa Xuân trời liên tục giáng xuống nhiều trận tuyết lớn, hiện tại tiết trời đã trở nên ấm áp, tuyết tan ra làm cho lượng nước của sông tăng vọt. Chiều rộng của sông cũng tăng lên gấp đôi so với cùng thời điểm này năm ngoái, vốn là năm ngoái người ngựa có thể đi bộ qua sông, hiện tại ngay cả cỡi ngựa cũng không qua sông được.
- Hây!
Sông lớn ngăn đường, Mã Tứ Phong cũng chỉ có thể quát ngựa dừng lại.
Phía sau Mã Tứ Phong, các tướng sĩ quân đoàn Bắc Phương còn sống sót cũng vội vàng thắng ngựa dừng lại. Bạch Sa loan vốn đang yên tĩnh thoáng chốc trở nên huyên náo hẳn lên, nơi nơi đầu ngựa lố nhố, nơi nơi đều vang lên âm thanh ngựa hí người kêu.
Năm tên liên đội trưởng kỵ binh giục ngựa tới phía sau Mã Tứ Phong, tên đi đầu vừa thở dốc vừa nói:
- Tướng quân, chúng ta hết đường chạy rồi!
- Đúng vậy, chúng ta không còn đường nào chạy nữa!
Mã Tứ Phong cũng lấy làm kinh hãi:
- Chung quanh đây hoàn toàn không có thôn trấn nào, bây giờ có muốn quay lại tìm thuyền qua sông cũng đã không còn kịp nữa. Vả lại kỵ binh Sóc Châu cũng sẽ không để cho chúng ta ung dung qua sông!
- Tướng quân!
Một tên liên đội trưởng kỵ binh khác lộ vẻ ảm đạm:
- Sư đoàn số Bốn chúng ta thế là xong!
- Nói bậy bạ!
Mã Tứ Phong đột nhiên biến sắc quát lên:
- Sư đoàn số Bốn chúng ta vẫn chưa xong, quân Sóc Châu của Yến Thập Tam muốn gặm cục xương cứng rắn là sư đoàn số Bốn chúng ta sao, vậy phải xem bọn chúng có đủ bản lĩnh hay không!
- Đúng, liều mạng với bọn khốn Sóc Châu thôi!
- Cho dù chết cũng phải kéo theo vài tên, con bà nó!
Mấy tên liên đội trưởng liền phấn khích thét gào.
Chỉ có tên liên đội trưởng vừa rồi nói ’xong’ tức giận nói, giọng đầy vẻ bất bình:
- Tướng quân, Mạnh Hổ dẫn chủ lực của quân đoàn Mãnh Hổ chạy trốn, lại bắt sư đoàn số Bốn chúng ta chịu chết, ty chức không cam lòng!
- Câm miệng!
Mã Tứ Phong cả giận quát to:
- Ngươi quên chúng ta là quân nhân hay sao, thiên chức của quân nhân chính là phải phục tùng quân lệnh!
Tên liên đội trưởng nọ kêu lên:
- Mạnh Hổ cũng không phải là cấp trên của chúng ta, hắn không phải là Tổng đốc Bắc Phương!
- Nhưng hắn là quan chỉ huy thứ ba của đại quân Tây chinh!
Mã Tứ Phong hùng hổ rút chiến đao ra, lưỡi đao sắc bén gác ngang cổ tên liên đội trưởng kỵ binh kia:
- Mã Lục, niệm tình ngươi đi theo bản tướng quân đã nhiều năm, hôm nay phá lệ tha chết cho ngươi một lần! Lần sau nếu để ta nghe được những lời hỗn láo của ngươi, lúc ấy đừng trách bản tướng quân không niệm tình cũ!
Tên liên đội trưởng kỵ binh tên là Mã Lục nghe vậy kinh hãi im bặt, không dám nói thêm gì nữa.
Đang lúc ấy, tên đội trưởng thám báo giục ngựa phi nhanh tới trước mặt Mã Tứ Phong, cao giọng bẩm báo:
- Tướng quân, kỵ binh Sóc Châu đuổi tới!
Mã Tứ Phong và năm tên liên đội trưởng nghe vậy vội vàng quay đầu nhìn lại, quả nhiên thấy trên vùng bình nguyên hoang dã phía Đông đã xuất hiện một sợi chỉ màu đen nhàn nhạt. Thời gian càng trôi qua, sợi chỉ đen nọ càng ngày càng đậm lên, vả lại kéo dài sang hai bên cánh, mặc dù khoảng cách còn xa, nhưng Mã Tứ Phong có thể mơ hồ nghe thấy tiếng vó ngựa phảng phất như tiếng sấm động từ cuối chân trời truyền đến.
Quét mắt nhìn bốn phía một lần, ánh mắt Mã Tứ Phong nổi lên sát cơ hung tợn. Lúc bắt đầu xuất chinh ở Hổ Khiếu quan, sư đoàn số Bốn có hai vạn khinh kỵ binh, nhưng sau mấy ngày ác chiến với kỵ binh Sóc Châu, binh lực của sư đoàn số Bốn chỉ còn lại hơn tám ngàn mà thôi. Bất quá kỵ binh Sóc Châu cũng không chiếm được chút ưu thế nào, căn bản là hai bên một mạng đổi một mạng.
- Truyền lệnh của ta…
Mã Tứ Phong chậm rãi giơ cao chiến đao vẫn còn vết máu, gằn giọng quát:
- Toàn quân bày trận chuẩn bị nghênh địch!
Mã Tứ Phong vừa ra lệnh, hơn tám ngàn khinh kỵ binh còn lại của quân Bắc Phương vội vàng thắng ngựa quay đầu, dưới âm thanh quát tháo của trưởng quan các cấp nhanh chóng kết thành từng đội kỵ binh chỉnh tề. Chưa hết thời gian ăn xong bữa cơm, trên bờ sông trống trải đã xuất hiện từng hàng khinh kỵ binh chỉnh tề, mà lúc này trên vùng bình nguyên mênh mông, kỵ binh Sóc Châu rốt cục cũng đã ào tới.
- Hây!
Trước trận của kỵ binh Sóc Châu, Yến Thập Tam đột nhiên giơ cao tay phải, cao giọng quát to:
- Tất cả ngừng lại!
Yến Thập Tam vừa ra lệnh, đám kỵ binh Sóc Châu đang dọc theo vùng bình nguyên hoang dã cuốn về phía trước vội vàng thắng ngựa chậm lại, sau đó nhanh chóng triển khai sang hai bên cánh, cuối cùng bày thành đội hình rẽ quạt bao vây hơn tám ngàn quân kỵ binh Bắc Phương tại Bạch Sa loan. Quân kỵ binh Bắc Phương hiển nhiên đã ôm lòng quyết tử tại nơi đây, nên cũng không nóng lòng đột phá vòng vây mà chỉ đứng yên tại chỗ lẳng lặng chờ kỵ binh Sóc Châu tiến lên là lập tức liều mạng.
Yến Thập Tứ giục ngựa chạy tới trước mặt Yến Thập Tam, lớn tiếng hỏi:
- Phụ thân, sao không thừa thế xông lên ép bọn kỵ binh của đế quốc Quang Huy này rớt xuống Bạch Sa hà?
- Không được!
Yến Thập Tam lạnh lùng lắc đầu:
- Một thợ săn giàu kinh nghiệm phải biết rằng, con thú cùng đường không thể nóng lòng đuổi được, nếu không rất có thể bị nó quay đầu lại cắn cho một phát! Đám tàn quân của địch trước mặt đã không còn đường chạy, đã thành con thú bị vây, nếu như chúng ta ép bức quá gấp, ngược lại có thể làm cho bọn chúng sinh lòng liều mạng, lúc ấy mặc dù quân ta có thắng cũng phải chuốc lấy thương vong nặng nề!
Yến Thập Tứ nghe vậy đã hiểu ra, lại hỏi:
- Ý phụ thân muốn nói, muốn tiêu diệt đám quân địch đã bị ta vây khốn trước mặt kia không thể vội vàng hấp tấp sao?
- Đúng, chúng ta không thể vội vàng hấp tấp!
Trên mặt Yến Thập Tam thoáng vẻ vui mừng vì trẻ con dễ dạy, mãn ý gật đầu:
- Truyền lệnh toàn quân lập doanh, chuẩn bị bao vây trường kỳ!
o0o
Thành Tây Kinh, đế đô của đế quốc Minh Nguyệt.
Mặc dù quân đoàn Mãnh Hổ đã lừa gạt mở được cửa thành Tây Kinh, nhưng chiến sự tiếp theo lại không thuận lợi. Tuy rằng Công Tôn Giao tuổi còn trẻ nhưng vô cùng lão luyện, thừa dịp giằng co đã cảnh báo cho quân phòng thủ trong thành đề phòng ngăn không cho quân đoàn Mãnh Hổ kéo hết vào thành.
Quân U Châu chịu trách nhiệm thủ thành cùng với kỵ binh Sóc Châu đã có phản ứng vô cùng nhanh chóng.
Thậm chí Công Tôn Giao đã tổ chức được một đợt phản kích vô cùng mãnh liệt, đám binh sĩ của quân đoàn Mãnh Hổ vừa vào thành còn chưa kịp đứng vững chân, suýt nữa đã bị trục xuất ra khỏi thành. May là có đội cận vệ của Trương Hưng Bá kịp thời xông tới, quân đoàn Mãnh Hổ mới có thể ổn định lại, sau đó, Công Tôn Giao đã tổ chức quân U Châu bám sát từng đường từng hẻm triển khai cuộc chiến ngay trên đường phố với quân đoàn Mãnh Hổ.
Trận chiến này có thể nói là trận chiến kịch liệt nhất của quân đoàn Mãnh Hổ từ lúc bắt đầu Tây chinh cho đến nay.
Cuộc chiến ở Hắc Phong Khẩu quân đoàn Mãnh Hổ thương vong không nhỏ, nhưng chiến sự lúc ấy cũng không lấy gì làm thảm thiết. Bởi vì lúc ấy quân đoàn Mãnh Hổ gần như có thể nói toàn là tân binh, bất luận là lòng quân, đấu chí hay sĩ khí đều không thể so sánh được với bây giờ. Hiện tại quân đoàn Mãnh Hổ đã trải qua bốn trận thắng liên tục, lòng quân, đấu chí và sĩ khí đã gia tăng rất nhiều.
Có thể nói mà không sợ khoa trương, hiện tại quân đoàn Mãnh Hổ là một Hổ Lang Chi Sư chân chính!
Chiến lược tập kích Tây Kinh lần này do Tất Điêu Tử thiết kế có thể nói là diệu kế nhất nhì thiên hạ, thế nhưng quân đoàn Mãnh Hổ tập kích Tây Kinh lần thứ hai lại không thuận lợi gì. Quân U Châu và kỵ binh Sóc Châu có lẽ không phải là những cánh quân tinh nhuệ nhất của đế quốc Minh Nguyệt, nhưng quyết tâm bảo vệ đế đô của bọn chúng lại cực kỳ kiên cường, bọn chúng đã thật sự làm hết chức trách của quân nhân-thà chết không lùi!
Quân U Châu và kỵ binh Sóc Châu bằng vào đường lớn hẻm nhỏ bên trong thành Tây Kinh liều chết kháng cự, mãi đến hai ngày sau, quân đoàn Mãnh Hổ mới chiếm được toàn thành Tây Kinh. Hai vạn quân U Châu Sóc Châu gần như tử trận hoàn toàn, Công Tôn Giao giết chết liên tục hơn trăm quân tinh nhuệ của quân đoàn Mãnh Hổ, cuối cùng bỏ mạng dưới song thiết kích của Trương Hưng Bá, Yến Bắc Phi thì suất lĩnh không tới trăm kỵ binh chạy trốn.
Vì để chiếm được đế đô Tây Kinh của đế quốc Minh Nguyệt lần thứ hai, thực hiện chiến thuật điều động đại quân của đế quốc Minh Nguyệt*, quân đoàn Mãnh Hổ đã trả một cái giá rất nặng nề. Hơn tám ngàn binh sĩ tử trận, trọng thương hơn hai ngàn, quân đoàn Mãnh Hổ vốn có sáu vạn đại quân giờ đây đã không còn đủ năm vạn.
(*Chiến thuật này sẽ được giải thích ngay sau đây).
Mạnh Hổ, Tất Điêu Tử và Cổ Vô Đạo giẫm lên đám thi thể ngổn ngang chậm rãi đi lên đầu thành ở cửa Đông.
Đứng trên đầu thành nhìn xuống, những âm thanh ồn ào huyên náo bên trong thành Tây Kinh đã dần dần lắng xuống. Trên đường phố ngổn ngang thi thể quân sĩ của hai bên, máu chảy gần như đỏ khắp đường lớn ngõ nhỏ, không khí nồng nặc mùi máu tanh tưởi. Mặc dù Tất Điêu Tử và Cổ Vô Đạo đã từng gặp qua không ít cảnh tượng đầu rơi máu chảy, nhưng lúc này cũng không tránh khỏi hơi biến sắc.
- Ôi…
Tất Điêu Tử lắc đầu thở dài:
- Chúng ta trả giá quá đắt, quân của đế quốc Minh Nguyệt quả thật là một đội quân đáng được tôn kính.
- Cũng là một đối thủ xứng đáng được tôn kính.
Mạnh Hổ nghiêm nghị:
- Bất quá cái giá mà chúng ta phải trả là vô cùng xứng đáng, bởi vì chúng ta đã chiếm lại được Tây Kinh. Như vậy chẳng những tạo nên đả kích nặng nề đối với tinh thần của quân đế quốc Minh Nguyệt, mà còn có thể tiến hành chiến thuật điều động các đường đại quân của đế quốc Minh Nguyệt.
Tất Điêu Tử gật đầu, giọng hắn vô cùng ngưng trọng:
- Nếu như đế quốc Minh Nguyệt điều động những cánh quân khác hay không cũng không có ý nghĩa gì, nhưng nhất định phải điều động quân đoàn Dự Châu ở phía Đông Nam và quân đoàn Thuỷ sư ở Phong Lâm cảng. Nếu không thì ý đồ chiến lược của tướng quân không thể nào thực hiện được, mà quân ta có muốn rút lui về hành tỉnh Tây Bộ cũng không làm nổi!
Vốn quân đoàn Dự Châu giằng co với quân đoàn Bắc Phương của Trọng Sơn ở giáp giới của Dự Châu và Ứng Châu, sau khi Trọng Sơn nhận được quân lệnh của Mông Diễn rút lui trở về Thanh Châu, quân đoàn Dự Châu cũng nhận được quân lệnh của Thu Vũ Đường cho nên cũng không chạy theo truy sát quân đoàn Bắc Phương, mà là khẩn cấp kéo quân lên phía Bắc về cứu viện đế đô. Bất quá quân đoàn Dự Châu còn chưa qua bờ Bắc sông Thông Thiên, hai quân đoàn U Châu, Sóc Châu đã tới Tây Kinh, mà lúc đó quân đoàn Mãnh Hổ cũng đang thẳng về phía Đông đánh tới Hổ Khiếu quan. Chiến trường Trung Châu đột nhiên có chuyển biến phức tạp, nên quân đoàn Dự Châu không dám khinh thường vọng động, chỉ đóng quân tại Phong Lâm thành cách Phong Lâm cảng trăm dặm, yên lặng chờ đợi quân lệnh tiếp theo của Thu Vũ Đường.
Mạnh Hổ giấu binh trong Bàn Long cốc, dùng kế che trời qua biển gạt quân U Châu của Công Tôn Hạng là vì muốn thoát khỏi vòng vây. Nhưng sau đó lại kéo quân về tập kích Tây Kinh lần thứ hai là có ý đồ chiến lược sâu xa trong đó, chính là vì muốn điều động quân đoàn Dự Châu ở Phong Lâm thành và quân đoàn Thuỷ sư ở Phong Lâm cảng.
Lúc này Mạnh Hổ cũng không biết quân đoàn Thuỷ sư của Tiêu Thành Đống đã nhận lệnh của Thu Vũ Đường lội nước tiến về phía Tây để tiêu diệt đám tàn quân của Mông Diễn, cho nên muốn dẫn dụ quân đoàn Thuỷ sư ra khỏi Phong Lâm cảng, cùng với dẫn dụ quân đoàn Dự Châu ở Phong Lâm thành. Nếu là như vậy, quân đoàn Mãnh Hổ có thể thừa dịp không ai phòng thủ mà chiếm lấy đại trại Thuỷ sư, cướp lấy thuyền nhỏ trong đại trại Thuỷ sư, sau đó đi theo đường thuỷ trở về hành tỉnh Tây Bộ.
Vì muốn thực hiện ý đồ chiến lược điều động quân đoàn Dự Châu và quân đoàn Thuỷ sư, Mạnh Hổ và Tất Điêu Tử đã tính toán rất tỉ mỉ, cơ hội duy nhất của quân đoàn Mãnh Hổ chính là sự chênh lệch về thời gian.
Thế nào là sự chênh lệch về thời gian? Chính là lợi dụng sự chênh lệch về thời gian truyền tin của quân đế quốc Minh Nguyệt.
Thế nào là lợi dụng sự chênh lệch về thời gian truyền tin của quân đế quốc Minh Nguyệt? Chuyện này phải tính toán thật là kỹ lưỡng!