Mạnh Hổ đồng hành cùng Tất Điêu Tử và Cổ Vô Đạo chậm rãi giục ngựa đi ra khỏi cửa chính Đông. Lúc vừa qua khỏi cầu treo, trong lúc vô ý Mạnh Hổ quay đầu nhìn lại, chỉ thấy phía sau thành trì vẫn chắc chắn như cũ, tiễn lâu vẫn đứng vững như cũ, hai chữ to ’Tây Kinh’ trên cửa Đông vẫn mang khí thế vững vàng, không biết vì sao, đôi mày rậm của Mạnh Hổ bỗng nhiên cau chặt.
Dường như ý thức được chuyện gì, Tất Điêu Tử và Cổ Vô Đạo giục ngựa theo sau Mạnh Hổ cũng đều ghìm cương ngựa lại, sau đó cùng quay đầu nhìn hai chữ to trên cửa chính Đông kia.
Mạnh Hổ trầm ngâm một chút, bỗng nhiên quay đầu lại quát bảo Trương Hưng Bá phía sau:
- Hưng Bá, lấy hai cây trường mâu ra đây!
Trương Hưng Bá đáp lời, lệnh cho cận vệ quân mang đến hai cây trường mâu bộ binh, trịnh trọng đưa cho Mạnh Hổ.
Mạnh Hổ đưa tay tiếp lấy hai cây trường mâu nhấp trong tay vài cái, đột ngột quát khẽ một tiếng phóng ra, chỉ nghe đinh đinh hai tiếng vang lên, hai cây trường mâu bộ binh kia đã cắm thật sâu vào tường thành Tây Kinh, đúng vào ngay giữa hai chữ ‘Tây Kinh’ to lớn.
Tất Điêu Tử không nhịn được trao đổi bằng mắt với Cổ Vô Đạo, bọn họ đương nhiên biết được dụng ý của Mạnh Hổ là muốn thị uy với đế quốc Minh Nguyệt, dùng hai cây trường mâu cắm vào ngay giữa hai chữ ‘Tây Kinh’, đây rõ ràng biểu thị cho hai lần quân đoàn Mãnh Hổ tập kích chiếm lấy đế đô thành Tây Kinh của đế quốc Minh Nguyệt.
Mạnh Hổ nghiêng đầu ngắm nghía một lát, lúc này mới xoa xoa hai tay lộ vẻ hài lòng, giật cương quay đầu ngựa lại ngênh ngang mà đi
o0o
Bạch Sa loan.
Nơi đóng quân tạm thời của sư đoàn khinh kỵ binh quân đoàn Bắc Phương.
Mã Tứ Phong ghìm ngựa đứng nghiêm trên vùng bình nguyên bao la bát ngát, mắt dõi trông về hướng Tây Nam xa xa. Lúc này Mã Tứ Phong đã không còn thần thái ung dung tiêu sái như lúc trước, chiến bào bình thường không dính một hạt bụi nay đã loang lổ đầy vết máu, thậm chí trên mặt Mã Tứ Phong cũng đã có thêm một vết sẹo đao trông vô cùng bắt mắt.
Vết sẹo đao này là do viên mãnh tướng Yến Lăng Vân của quân đoàn Sóc Châu ban cho hắn trong một lần đột phá vòng vây.
Sau khi sư đoàn kỵ binh bị quân đoàn Sóc Châu của Công Tôn Hạng vây ở Bạch Sa loan, Mã Tứ Phong trước sau tổ chức sáu lần phá vây, lần nào cũng thất bại dội ngược trở về. Nhất là lần phá vây cuối cùng thất bại vô cùng thê thảm, thậm chí ngay cả Mã Tứ Phong suýt nữa cũng bỏ mạng sa trường. Ở quân đoàn Bắc Phương, Mã Tứ Phong vốn tự phụ bản thân mình võ dũng, trong lớp thanh niên cùng tuổi ít gặp đối thủ, thế nhưng lần này rốt cục Mã Tứ Phong đã gặp được đối thủ chân chính.
Mắt thấy các tướng sĩ Bắc Phương xung quanh sắp sửa chết sạch, binh lực của sư đoàn kỵ binh không còn đủ vạn người, sắp sửa gánh chịu kết cục thê thảm bị tiêu diệt toàn quân. Đột nhiên thế cục có chuyển biến bất ngờ, kỵ binh Sóc Châu đã chiếm hết thế thượng phong chỉ trong một đêm rút lui sạch sẽ khỏi Bạch Sa loan, không hề lưu lại một binh một tốt!
Mới đầu Mã Tứ Phong còn tưởng là quỷ kế của quân địch, cho nên không dám khinh thường vọng động, nhưng mãi đến trưa vẫn không thấy kỵ binh địch xuất hiện, lúc này Mã Tứ Phong mới kinh ngạc phát giác ra chiến cuộc đã có biến hoá, vội vã phái ra kỵ binh thám báo trinh sát tứ phía. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả các kỵ binh thám báo phái ra trinh sát đều đã có tin tức báo về.
- Báo…
Ngay khi Mã Tứ Phong đã cảm thấy không còn kiên nhẫn chờ đợi, phía trước của bình nguyên bát ngát đột nhiên vang lên một tiếng hét dài, chợt có một con khoái mã từ xa như gió cuốn mây bay chạy đến. Khoái mã kia chạy thẳng đến trước mặt Mã Tứ Phong mới đột ngột dừng lại, chiến mã vì ngừng quá gấp liền tung hai vó trước lên không đứng thẳng thân hình đá lung tung vài cái.
- Tướng quân…
Kỵ binh trên lưng khoái mã ôm quyền thi lễ với Mã Tứ Phong, vừa thở dốc vừa nói:
- Đã… Đã có tin tức!
Mã Tứ Phong vội la lên:
- Nói mau!
Tên thám báo kỵ binh vừa thở dốc vừa nói:
- Theo nguồn tin đáng tin cậy, chủ lực của quân đoàn Mãnh Hổ đang tiến công Tây Kinh mãnh liệt, quân đoàn Sóc Châu đang vây khốn quân ta nhận được quân lệnh phải gấp rút tiếp viện đế đô, cho nên buông tha không vây khốn quân ta nữa!
- Vậy sao?
Ánh mắt Mã Tứ Phong thoáng chốc sáng ngời, chép chép miệng, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Khó trách kỵ binh Sóc Châu đang lúc chiếm hết thượng phong lại đột nhiên rút lui, thì ra là đại quân chủ lực của tướng quân đang tấn công Tây Kinh mãnh liệt, chuyện này quả thật ra ngoài dự đoán của mọi người, ha ha ha, thật tốt quá, thống khoái, tật là thống khoái!
- Tướng quân!
Một tên liên đội trưởng kỵ binh tiến lên bẩm báo:
- Quân ta có cần phải nhanh chóng rời khỏi tuyệt địa này không?
Mã Tứ Phong khoát tay áo ra vẻ không tán thành, lớn tiếng nói:
- Không vội, chờ quân lệnh của tướng quân tới rồi hãy nói!
Ngừng một chút, Mã Tứ Phong lại nói:
- Bản tướng quân đã nói trước với các ngươi, tướng quân Mạnh Hổ là một nam tử hán đội trời đạp đất, là một nam nhân biết giữ lời, hắn đã từng nói qua sẽ không bỏ mặc tướng sĩ Bắc Phương chúng ta, vậy hắn tuyệt đối sẽ không nuốt lời. Thế nào, bản tướng quân nói có sai hay không? Tuy rằng tướng quân Mạnh Hổ không có trực tiếp tới cứu bọn ta, nhưng hắn vẫn nghĩ cách cứu chúng ta thoát khỏi vòng vây của kỵ binh Sóc Châu, không phải vậy sao?
Mấy tên liên đội trưởng kỵ binh phía sau Mã Tứ Phong đều gật đầu vâng dạ.
Sự thật đúng là như vậy, lần này nếu như không phải chủ lực của quân đoàn Mạnh Hổ tấn công Tây Kinh, khiến cho Thu Vũ Đường phải điều động kỵ binh Sóc Châu về cứu viện đế đô, tám ngàn tàn binh bại tướng còn lại của sư đoàn kỵ binh số Bốn đã thật sự phơi thây tại Bạch Sa loan.
Mã Tứ Phong vừa dứt lời, từ hướng Tây Nam của vùng bình nguyên bát ngát đã thấy bóng dáng mười mấy con khoái mã đang chạy tới như bay.
Một tên tướng sĩ kỵ binh tinh mắt quan sát thật kỹ, sau đó trầm giọng nói:
- Tướng quân, là đội cận vệ của tướng quân Mạnh Hổ!
- Vậy sao?
Mã Tứ Phong vui vẻ nói:
- Đây nhất định là quân lệnh của tướng quân đã tới, đi, theo bản tướng quân tới nghênh tiếp!
o0o
Phía Đông Bắc Tây Kinh.
Yến Thập Tam đang suất lĩnh bảy vạn kỵ binh của sư đoàn Sóc Châu cuồn cuộn tiến về Tây Kinh. Trời xanh bát ngát, trên vùng bình nguyên hoang dã mênh mông, dõi mắt trông xa, khắp nơi đều là đầu ngựa của kỵ binh Sóc Châu lố nhố, cờ xí đủ màu phần phật tung bay theo gió, tiếng ngựa hí vang đến tận mây xanh, còn có tiếng gót sắt nện rầm rập như tiếng sấm.
Giữa thiên quân vạn mã, Yến Thập Tứ giục ngựa đuổi theo Yến Thập Tam, lớn tiếng hỏi:
- Phụ thân, mắt thấy sư đoàn kỵ binh của quân đoàn Mãnh Hổ sắp sửa bị quân ta tiêu diệt toàn quân, vì sao phụ thân lại buông tha cho chúng?
- Ngươi biết cái gì!?
Yến Thập Tam hừ một tiếng bực bội, lạnh lùng nói:
- Ta vừa nhận được Kim điêu cấp thư của Nguyệt vương điện hạ, đại quân chủ lực của quân đoàn Mãnh Hổ trốn khỏi tai mắt thám báo kỵ binh của quân ta và quân U Châu, hiện tại rất có thể đang tấn công đế đô Tây Kinh mãnh liệt. Nếu như ta không dẫn kỵ binh Sóc Châu hoả tốc xuôi Nam gấp rút tiếp viện đế đô, hậu quả sẽ không thể nào tưởng tượng!
Sau khi quân đoàn Mãnh Hổ công chiếm Tây Kinh lần thứ hai, quân phòng thủ Tây Kinh gần như bị tiêu diệt hết, chỉ có Yến Bắc Phi dẫn theo trăm kỵ binh Sóc Châu chạy trốn. Tuy nhiên trăm kỵ binh này cũng không biết chủ lực kỵ binh Sóc Châu của Yến Thập Tam hiện tại đang ở chỗ nào, cho nên sau khi ra khỏi thành liền một đường theo đại lộ nhắm thẳng hướng Đông chạy tới Hổ Khiếu quan.
Cho nên lúc này Thu Vũ Đường còn chưa biết Tây Kinh đã thất thủ một lần nữa, Tổng đốc Sóc Châu Yến Thập Tam và quân đoàn Dự Châu ở thành Phong Lâm cũng không biết Tây Kinh đã bị quân đoàn Mãnh Hổ công chiếm lần thứ hai.
Yến Thập Tứ nói:
- Vậy cũng không cần dẫn hết toàn quân xuôi Nam, chúng ta hoàn toàn có thể để lại một phần quân đội tiếp tục vây khốn đám tàn kỵ binh kia!
- Hồ đồ!
Yến Thập Tam cau mày quát:
- Ngươi đã quên vết xe đổ của Tư Đồ Duệ sao? Quân đoàn Mãnh Hổ cũng không phải là một đội quân bình thường, mà là một Hổ Lang Chi Sư, quân Sóc Châu ta tập trung toàn lực chưa chắc đã có thể thắng được, còn nếu chia ra hai nơi, chẳng phải càng không là đối thủ của chúng hay sao? Chia quân ra như vậy vạn nhất bị quân đoàn Mãnh Hổ tiêu diệt từng phần thì sao?
Yến Thập Tứ nghĩ nghĩ, cũng hiểu rằng cha già nói rất đúng, liền đằng hắng hai tiếng rồi không nói gì nữa.
Dù sao, miếng thịt ngon sắp sửa đến miệng lại phải buông bỏ cũng hơi đáng tiếc, thế nhưng so với an nguy của cả quân đoàn Sóc Châu thì không đáng chút nào. Bởi vì chuyện tiêu diệt quân đoàn Mạnh Hổ thật ra cũng không phải là chuyện trong nhà của quân đoàn Sóc Châu, mà nếu như quân đoàn Sóc Châu bị diệt, vậy thế lực của Yến gia ở Sóc Châu lập tức sẽ trở nên suy yếu.
Con trai thứ Yến Trùng Thiên đột nhiên hỏi:
- Phụ thân, quân đoàn Mãnh Hổ tiến công đế đô không phải chỉ là hư trương thanh thế thôi sao?
- Rất khó nói!
Yến Thập Tam vẻ mặt ngưng trọng lắc lắc đầu đáp lại:
- Tên Mạnh Hổ này hành sự mỗi mỗi đều ra ngoài dự đoán của mọi người, làm cho người ta không thể nào nắm bắt, lần này trở lại đế đô có lẽ chỉ là hư trương thanh thế, cũng có thể là thật sự!
Yến Thập Tam chưa nói hết lời, đương nhiên hai đứa con trai nghe không hiểu, tỏ ra ngơ ngác.
Yến Thập Tứ vò đầu liên tục:
- Phụ thân, hiện tại đế đô có hai vạn đại quân đóng ở đó, lại có Tam đệ và mãnh tướng Công Tôn Giao của quân U Châu toạ trấn, cho dù quân đoàn Mãnh Hổ dốc hết toàn lực tấn công cũng chưa chắc đã có thể công hạ được?!
Yến Thập Tam thở dài:
- Chỉ mong sao sẽ không gặp chuyện không may, nếu như quân đoàn Mãnh Hổ thật sự công chiếm đế đô lần nữa, đế quốc Minh Nguyệt mất hết thể diện đã dành, ngay cả Sóc Châu Yến gia chúng ta cũng không tốt lành gì. Dù sao lần này vẫn có Tam đệ các ngươi chỉ huy một vạn kỵ binh đóng ở đế đô, nếu như có chuyện không may, quân Sóc Châu chúng ta sẽ không thoát khỏi tội thất chức!
o0o
Cảng Phong Lâm.
Nói đến cảng Phong Lâm, không thể không nói đến Thuỷ sư của đế quốc Minh Nguyệt.
Trong ba đại cường quốc về quân sự của thế giới Trung Thổ, đế quốc Minh Nguyệt, Quang Huy và Tinh Hà, có thể nói rằng mỗi nước đều có sở trường đặc thù của riêng mình. Đế quốc Tinh Hà nổi danh là đế quốc kỵ binh, khinh kỵ binh có sức chiến đấu là số một. Đế quốc Quang Huy có được trọng trang bộ binh trang bị hoàn hảo và tinh nhuệ nhất. Đế quốc Minh Nguyệt lại có được lực lượng Thuỷ sư hùng mạnh nhất, mặt khác, đế quốc Minh Nguyệt lại có số lượng danh tướng dồi dào, nhiều không kể xiết.
Nói đến Thuỷ sư của đế quốc Minh Nguyệt, không thể không nhắc tới U Linh hải tặc và vài tiểu quốc liên minh ở phía Nam của thế giới Trung Thổ.
U Linh hải tặc là một đám vừa làm ngư dân vừa làm hải tặc trên mặt biển phía Tây của Trung Châu đế quốc Minh Nguyệt. Sào huyệt, hay còn gọi là đại bản doanh của chúng nằm ở quần đảo U Linh cách xa bờ biển phía Tây của Trung Châu.
Khoảng chừng mấy ngàn năm trước, một đám Man nhân vì bộ lạc bị cừu sát nên không thể tiếp tục sống yên ổn trên đại hoang nguyên, bọn họ nhân mùa hè, băng trên đại dương phía Bắc tan hết liền lên tàu men theo ven biển chạy thẳng về hướng Tây. Sau đó vượt qua Đại Yến quốc nằm ở Sóc Châu trên góc Tây Bắc của đế quốc Minh Nguyệt, cuối cùng tới quần đảo U Linh ẩn cư.
Sau đó, đám Man nhân này liền từ dân du mục trở thành ngư dân, lâu ngày dài tháng lại biến thành hải tặc.
Đám U Linh hải tặc đến từ quần đảo U Linh chính là địch nhân chủ yếu của Thuỷ sư đế quốc Minh Nguyệt. Ngoài U Linh hải tặc ra, đôi khi Thuỷ sư đế quốc Minh Nguyệt còn vượt qua U Châu nằm ở góc Tây Nam, hiệp trợ bộ binh của Dự Châu, Ứng Châu hoặc là U Châu đánh lui vài tiểu quốc liên minh đến từ phía Nam của thế giới Trung Thổ tập kích quấy rối trên biển.