Chái phòng chỉ thắp ba chao đèn chạm phù dung chiếu sáng quanh bàn, hai góc trong cùng tối như giăng mùng, tấm bình phong thủy mặc sau lưng Trọng Yên lại càng nhờ nhờ, hồ bị ngấm nước. Ghé qua vào canh ba vốn là chuyện thất lễ, đâu thể muốn người ta đốt đèn, trải bàn tiếp rước.
“Dầu sư phụ tạ thế mấy năm rồi, Lý mỗ vẫn luôn giữ kỹ đồ đạc của người, lâu lâu thổn thức sẽ lấy ra lau chùi rồi lại cất đi. Thật không ngờ vừa qua Lý mỗ tìm thấy một thứ rất đáng chú ý.”
Lý Thương Lan mím khóe môi trù trừ rồi lấy ra từ trong ống tay áo một chiếc hộp thiếc, bề mặt hoen rỉ lấm tấm, mặt nắp trầy xước được khắc hoa lan. Trọng Yên thấy quen mắt nhưng nhất thời chưa nhớ ra, đầu mày hơi nhíu, điệu bộ vẫn bình tĩnh.
Bồng Vân các và Nghê Mi lâu trước giờ giao thiệp rất cạn, đây là lần đầu Trọng Yên ngồi giáp mặt với Lý Thương Lan thế này, có suy ngẫm lắm vào cũng chẳng lường được mục đích của hắn, bèn theo dõi và tùy cơ ứng biến. Lý Thương Lan mở nắp hộp cho bà xem cấu trúc bên trong, ngón trỏ luồn vào dưới một khe kim loại nhỏ - bất ngờ lôi ra một thước giấy lụa dài. Hắn vuốt thẳng giấy trình trước mặt bà, hai vai căng gồng, cả hàm răng cũng cắn chặt biểu lộ cảm xúc không thể khống chế, bảo: “Thỉnh tiền bối cho Lý mỗ lời giải thích về nguồn gốc của thứ này!”
Ngay khắc thấp thoáng thấy nét chữ trên giấy, chân mày Trọng Yên đã giật ngược, khá khen cho người đàn bà trải đời, trước tình huống xấu hổ tới mức này mà vẫn tựa lưng, duỗi cổ thư thái, nhấc năm ngón tay như ngọc lan gõ gõ tay ghế, đáp: “Thì sao đây? Các chủ muốn chất vấn ta điều gì?”
Lý Thương Lan lộ rõ bàng hoàng: “Giữa hai người thực sự là mối quan hệ này?”
Nét chữ trong giấy được viết bằng son thơm, ngôn từ lả lơi ong bướm chọc người xem đỏ mặt, giấy lụa dệt bằng nghê thường tựa như được xé ra từ đâu đó.
Sư phụ mà hắn hằng kính trọng sao có thể... làm chuyện như vậy?
“Lý các chủ, ngươi, ta đều hiểu trên trần đời có chuyện gì là chẳng thể xảy ra đâu? Ham muốn của con người luôn phong phú vô biên mà. Đến anh em ruột thịt trong nhà còn cắn xé lẫn nhau vì chút gia tài thì nói chi là giữa đám người chẳng máu mủ, không danh, không phận?” Ánh mắt Trọng Yên nhuốm phiền rầu. “Lý các chủ, ngươi sinh ra vào thời bình, có cha có mẹ, có mái nhà ấm êm, nào biết nhân gian đau khổ bao nhiêu, nào hiểu cái phận đàn bà chạy nạn giữa loạn thế?”
Loạn thế, khói lửa nuốt trọn thiên hạ, máu tanh tưới tắm sơn hà. Từ đó đến nay mới chỉ gần ba mươi năm thái bình, Trọng Yên đã ngoài tứ tuần, nửa đời trải qua trong loạn thế, với cái thân nữ nhi côi cút giữa thời loạn thì chỉ khát cầu một bến nương nhờ, dù đó là một gã đàn ông biến thái đáng tuổi cha mình.
Trọng Yên dĩ nhiên có thấy nhục nhã, có bao đêm từng khóc vật vã tới muốn chết đi nhưng bản tính của con người là tham sống sợ chết, càng sợ chết không nơi chôn cất giữa loạn lạc. Con người ta bị tàn phá hết tuổi trẻ rồi thì cõi lòng cũng chết lặng, chỉ còn lại cam chịu số phận. Bà đã sống cuộc đời cam chịu và nhục nhã đằng đẵng cho đến khi phát hiện mình hoài thai.
“Đám đàn ông các ngươi làm sao hiểu được cái cảm giác kỳ diệu khi cưu mang một sinh mạng lớn dần từng ngày trong lòng.” Trọng Yên giống như cười lại tựa như khóc: “Ta thực sự không ngờ cái thân xác đã chết của ta còn có thể chứa đựng một sinh linh! Trái tim bé nhỏ của nó truyền từng nhịp đập tới quả máu đông của ta, như phép thần thông cải tử hoàn sinh, trở thành sợi tơ nối sinh mệnh ta với thế gian. Giây phút đó ta biết mình phải bảo vệ con ta bằng mọi giá!”
Lý Thương Lan bộn bề tơ vò, nặng lòng nhìn bà: “Thế nên bà giết sư phụ mình?”
Trọng Yên điều chỉnh lại nét cười, ánh mắt tối tăm: “Vân Tích Nhược là người đàn bà ích kỷ, tham vọng, có thể hi sinh mọi thứ vì giấc mộng Võ Lâm Chí Tôn nên thầm truy lùng và giết hại Lưu Ly bảo chủ cướp tâm pháp tà công. Lão Bồng Vân biết chuyện đó, cũng thèm khát chiếm đoạt vũ điệu Vấn Thượng Gian, ta lợi dụng điều này, một tay tiêu diệt cả hai.”
“Bà? Chính bà đã giết sư phụ ta?”
“Chứ ngươi nghĩ lão ta đang khỏe mạnh thì trúng gió gì mà bệnh đến mức không dám ra khỏi phòng tiếp xúc với người ngoài? Mà kỳ thực lão cũng ngu xuẩn lắm, lão bắt con của ta làm tin, cứ tưởng ta vẫn là đứa con gái nhu nhược sợ sệt lão trước kia mà cho là an tâm sai xử ta làm việc. Lão ta thích chơi gái trẻ” Trọng Yên cười xuề xòa như chìm vào sự sung sướng của ký ức thỏa hận, “thì ta tìm những ả trẻ trung mắc đủ thứ bệnh tật cho lão nếm thử, cho lão chết từ từ trong sự tởm lợm của chính lão.”
Sự việc ngày càng vượt quá sức tưởng tượng của Lý Thương Lan, hắn nắm hai tay thành quả đấm tái ngắt, trong lòng thất vọng tột cùng, cắn răng bắt lấy ý chính hỏi: “Loại chuyện tìm hoan như thế lẽ nào rất thường xảy ra ở Nghê Mi lâu?”
Hắn nhắm mắt hỏi ra câu này cũng biết mình có thể đang bóc trần một mặt trái kinh tởm của giang hồ.
Phận nữ nhi sống ở đời vốn truân chuyên muôn vàn lần đấng nam nhi.
Trọng Yên rõ ràng động sát tâm, mím môi không trả lời, nâng tay rót trà uống cho đỡ lợm họng vì những điều vừa trình bày, chỉ hạ mắt, giọng não nề: “Ta là một người mẹ đạp lên xương máu vì con mình, số phận của những nữ nhân khác ta không quản hết được.”
Bà ta nói dứt, lập tức thấy ánh mắt gã nam tử đối diện bén ngót và phẫn nộ trừng mình. Lý Thương Lan chấp nhận được tất cả thông tin vừa xong, lạnh lùng cười khẩy tung hứng hộp thiếc: “Thực ra ban đầu ta nói sai, hộp ám khí này vốn do sư huynh tự tay làm ra cho ta, cả thiên hạ chỉ có một cái, không phải đồ vật của 'sư phụ'.
“Trọng lâu chủ suýt thì đánh động được Lý mỗ rồi đấy nhưng nếu bà thực sự bất đắc dĩ như vậy thì tại sao phải ép buộc sư huynh nhà ta ngậm đắng nuốt cay mấy năm qua với màu áo trắng? Nếu bà thực sự thương yêu Hạ Cẩn thì lý gì lại vứt bỏ con bé không lời thăm hỏi tại Bồng Vân suốt bao năm qua? Nếu bà thực sự không có quỷ trong lòng thì hà cớ phải bày trò để vu oan giá họa cho Mạc Tử Liên? Trọng Yên, làm ra những chuyện đó với các cô nương vô tội, lương tâm của bà bị chó gặm rồi à?”
Hắn gần như rít ra vế cuối cùng, nắm tay giận dữ run rẩy nổi đầy gân xanh. Lý Thương Lan vẫn còn nhớ rõ hộp ám khí này bị sư phụ mình 'mượn và làm mất' vào bảy năm trước, sau khi Hạ Cẩn nhặt được và đưa cho sư huynh thì bên trong hộp có thêm tờ giấy lụa lả lơi kia.
Sư huynh nhìn thấy lụa, cũng không lấy ra, chỉ yên lặng trả lại đồ cho hắn, và hắn mới đi gặp Trọng Yên vào hiện tại.
Tại sao sư phụ lại làm vậy? Tại sao sư phụ cứ cố khiến hắn và sư huynh bất hòa với nhau?
Nếu kẻ mở hộp ám khí và phát hiện ra giấy lụa là Lý Thương Lan của bảy năm trước, chỉ sợ là hắn ta sẽ bén rễ hoài nghi - nhất là khi sư huynh dẫn Hạ Cẩn về Bồng Vân mà không một lời giải thích với hắn.
Lý Thương Lan của lúc ấy chắc chắn sẽ nghi ngờ Thu Nhậm. Bởi vì hắn còn trẻ, vả lại đã quen được y nuông chiều, được người ca ngợi, khoảng thời gian đó rất khó khăn với sư huynh, khi gần như mọi thứ xung quanh đều muốn chống lại y. Trước đây hắn vẫn luôn sùng bái sư phụ, hiện tại mới bắt đầu bàng hoàng: thì ra trước lúc qua đời sư phụ đã cố gắng hủy hoại thanh danh của sư huynh đến vậy.
Chưa bao giờ Thương Lan giận mình tới mức này, giận mình ngu xuẩn, chây lười, quen thói hưởng thụ sư huynh nuông chiều. Tấm áo trắng biệt lập của sư huynh rốt cuộc đã phải gánh vác bao nhiêu gánh nặng?
“Hừ.” Trọng Yên chợt cười khinh miệt gián đoạn suy nghĩ của hắn, tay phải bấm thành lan hoa chỉ kề lên yết hầu, ngón cái cào vào kẽ tay làm như cắt cổ sau đó hất cằm về phía hắn. Ý của bà ta là: được rồi, ta giết bọn gái đó là xong chứ gì? Bây giờ ngươi cũng tính làm gì ta đây? Cả Bồng Vân lẫn Nghê Mi đều đạp một chân vào vũng bùn này, xử khéo xử vụng thì hai người các ngươi cũng phải chịu trách nhiệm.
Lý Thương Lan chẳng nao núng lùa tay vào tay áo, ung dung cười: “Lý mỗ càng muốn xem xem phía dưới Lôi đài che giấu thứ gì mà khiến cho lâu chủ nôn nóng tổ chức Tỷ Võ sớm thế này.”
“Muốn chết!” Bấy giờ Trọng Yên mới thất sắc, vụt rút nhuyễn kiếm quấn quanh eo tấn công.
Cuồng phong dập sầm cửa, đèn tắt ngóm.
Thế gió vừa lặng lại nổi lên, từng mảng mây xám kéo nhau đi vượt trăng, đèn hoa nương gió lắc lư nhảy múa.
Thu Nhậm quỳ một gối trên Lôi đài, gió đêm thổi vào tay áo Bồng Vân dập dờn như sóng, phất phơ thành hình mây cuốn. Chân mày dài hơn đuôi mắt đen như khói tích tụ hơi nhích theo từng nhịp gõ xuống bề mặt đài, y đã chú ý tới bước chân của Mạc Tử Liên khi xòe tay hỏi khán giả, mắt của Hoan Lạc cốc chủ tinh như xem tướng, cơ quan ẩn dưới Lôi đài này thực thần, đã tồn tại lâu như thế mà mấy ai phát hiện?
Gõ ra một âm trầm đục, đôi mắt Thu Nhậm sáng lên: tìm thấy rồi! Y thăm dò cho chắc chắn đoạn đứng dậy quan sát bao quát toàn bộ kết cấu Lôi đài, tập trung tư duy tìm cách giải. Lão Bồng Vân cả đời si cuồng các loại cơ quan, bẫy rập, mặc dù nhân cách thối nát nhưng về mảng đam mê thì cực kỳ uyên bác. Quả thực một thân công phu thiết kế, phá giải cơ quan của Thu Nhậm đều do chính tay lão bồi dưỡng thành.
Bỗng có một tiếng ngân nga. “Trận đó phải chờ trăng hiện thì mới phá được.”
Từng quả chuông bạc rung lắc đinh đang, đinh đang... hòa âm, nối liền như làn sóng nước đồng tâm vang lên, Mạc Tử Liên thư thả ngồi trên bức tường bao quanh khán đài ngắm trời, mấy dải tua áo thật dài thêu kim tuyến sặc sỡ dập dìu phiêu diêu, xòe ra trong gió lộng như đuôi công. Tay chân y đều đeo lắc chuông, trước ngực tròng hẳn một cung bán nguyệt thả chuỗi châu thấy mà nặng. Tóc tai xem ra ổn nhất cũng khó vớt vát được khuôn mặt đắp bột của y, người nào ngơ ngác chắc chắn sẽ tưởng y là con công hoa chúa.
“Tại sao lại gọi là 'trận'?” Thu Nhậm phải quay đi xoa xoa mắt rồi mới ngẩng lên hỏi nhưng đặt ánh nhìn trên tà áo trắng của người kề cận 'con công hoa'.
“Bởi vì nó chính là trận.” Mạc Tử Liên nhún vai, ngửa mặt nhìn trời hỏi: “Ngươi có biết cốt địch không?”
“Nhạc cụ giống sáo làm từ xương động vật, được Vu sư dùng trong tế lễ hay để điều khiển độc vật.”
“Âm thanh nó phát ra như thế nào?”
“Giống tiếng trẻ con khóc.”
“Vu sư sử dụng cốt địch trong các lễ chiêu hồn. Tại sao lại là tiếng trẻ con khóc? Bởi vì linh khí của trẻ con luôn tinh khiết và mềm yếu nhất, đồng thời linh trí vẫn chưa đóng nên có sức liên hệ với cõi âm rất mạnh, quỷ hồn cực kỳ ưa thích tìm đến trẻ con đang khóc để hù dọa chúng chết ngất hòng hút sạch linh khí.”
“Vậy thì sao?” Thu Nhậm vốn ít nghe về mấy thứ ma quỷ thần tiên, chưa bắt kịp ý đồ của Mạc Tử Liên.
“Đêm nay Thiên Can Địa Chi cực âm, mây mù che trăng, gió thổi từ hướng tây bắc, ngũ hành mờ nhạt, Bắc Đẩu tỏa sáng, có thể xem là âm dương hai giới nối liền, ngạ quỷ cười, vong linh khóc, rất thích hợp để làm lễ chiêu hồn.”
Chẳng rõ có phải vì khoảng cách mà giọng của Mạc Tử Liên như bị gió lộng chia năm xẻ bảy, mơ mơ hồ hồ như thể thoát ly nhân gian. Y vẫn đang nhìn từng mảng mây xám trôi qua trăng, lại hỏi: “Trên Lôi đài này từng chết rất nhiều người phải không?”
Thu Nhậm thấy Mạc Tử Liên thực sự chờ trăng lộ diện, vỗ đùi xếp bằng ngồi xuống giữa đài, ôm kích đáp: “Ừ, chết rất rất nhiều.”
Loạn thế, người chết như ngả rạ, giang hồ suy vi tới thon thót. Nhị chấn là đại thụ, căn cơ như rễ sồi bám đất, rất nhanh phục hưng nhưng Ngũ đại lại vật vờ móc nối, tựa như dây nho leo giàn, khó lòng chặt đứt rễ má, thế nên vướng mắc rất nhiều nợ nần.
Nợ nần sinh ra bó buộc. Bó buộc khiến người thân bất do kỷ. Giang hồ nay đâu tiêu dao bằng giang hồ xưa.
“Người chết nhiều, lại không phải cam tâm mà chết, đất này có thể xem là địa hung. Chính đạo nghĩ ra cách biến đất này thành Lôi đài để hút dương trấn âm là do được ai chỉ điểm?”
“Không rõ. Hình như là một vị Thông Thiên đạo nhân gì đó khuyên Nhị chấn xây Lôi đài.” Thu Nhậm nhìn những họa tiết đỏ sẫm trên mặt đài, có lẽ là bị ảnh hưởng bởi những lời của Mạc Tử Liên, càng lúc càng thấy chúng giống máu khô.
Mi gian cau sát, y cong ngón tay cào cào một họa tiết, thế mà thực sự là máu khô! Trong lòng lờ mờ dâng lên cảm giác quái quỷ, y bật dậy kiểm tra đám họa tiết xung quanh. Tất cả họa tiết đều được đồ lên một tầng máu, vẽ thành vòng tròn, thoạt như để chuẩn bị thực hiện một nghi lễ kỳ quặc nào đó.
Bỗng Thu Nhậm ngẩng phắt đầu lên, hiểu ra tại sao Mạc Tử Liên gọi đây là 'trận'.
Quân Huyền tựa đầu vào vai tiểu tình nhân lắng nghe tiếng gió len vào giữa chùm chuông, nói: “Ta nhớ người Điệp Cách sử dụng tiếng chuông bạc để xua đuổi tà ma?”
Liên Nhi khẽ cười cởi một chiếc vòng tay ra đeo vào cho hắn, hôn ngón tay hắn đáp: “Dạ, chút nữa nếu có yêu ma quỷ quái hiện hình, ca ca chỉ cần lắc vòng vào mặt nó, nó sẽ khiếp vía ngay.”
Y phục của Quân Huyền là do y chọn, sắc áo như tuyết, chất vải như tơ, mặc mỏng mà vẫn ấm áp, dưới đêm đen vẫn tựa như trăng ngàn. Hắn lắc lắc tay, trong ruột vòng có mấy viên bi, chúng va chạm với nhau thanh thúy.
Mây mù tiếp tục khỏa lấp mặt trăng, từng mảng, từng mảng cứ ùn ùn trôi qua. Vậy mà lạ thay ở hướng bắc, trời trong đêm thẳm, bảy chòm Bắc Đẩu rạng ngời như kim cương. Mạc Tử Liên ngày càng nhíu chặt mày, rốt cuộc không nhịn được phải nâng tay nhẩm bấm lại quẻ, lẩm bẩm: “Chẳng nhẽ ta thực sự học nghệ không tinh, tính sai giờ? Vả lại kỳ lạ, tại sao Bắc Đẩu Phá Quân lại tỏa sáng yếu ớt như vậy? Lẽ nào... thời gian tới sắp có tinh giáng?”
“Tinh giáng là gì?” Quân Huyền buột miệng.
“Tinh giáng nghĩa là sao trên trời rơi xuống trần, cũng giáng mệnh cách của mình xuống nhân gian. Phá Quân mang mệnh Tuyệt Mạng, nếu như Phá Quân giáng trần, ắt loạn thiên hạ.” Mạc Tử Liên hiếm khi nghiêm túc.
Quân Huyền bỗng rơi vào sự yên lặng nặng nề.
Tuyệt Mạng Phá Quân, thiên hạ đại loạn.
“Đừng tính nữa.” Hắn nắm tay y áp vào lòng mình: “Cứ chờ xem.”
Phí đạo trưởng đã căn dặn rằng bấm quẻ, đoán mệnh đều là lấy mắt phàm nhìn hào quang của Thiên Đạo, ắt khí linh và thọ mạng sẽ bị hào quang thiêu đốt, tính không ra thì tuyệt đối không được cố chấp, chẳng may thì sẽ bị trời phạt.
Đến Tạ Khánh Dư miệng thì cứ nhem nhẻm 'ta đây không tin bói toán' nhưng cũng chưa từng tiết lộ mệnh số của khách, chỉ có thể khuyên bảo họ mấy thứ râu ria, vòng vèo. Tựa như lúc Khánh Dư huynh nói với hắn sáu chữ: 'Ma trong tâm, quỷ bên người.'
Sau khi mộng lại chuyện kiếp trước, bây giờ Quân Huyền tin huyền học có thật. Vậy nên hắn mới phải cản Liên Nhi lại, y ở bên hắn thì mọi lời lẽ đều thẳng như ruột ngựa, lỡ đâu sơ sẩy mà tính ra thiên cơ thì không tốt.
Mạc Tử Liên vốn có thiên phú giống ông nội Tru Thiên, y cũng từng được học qua môn Thái Ất nhưng hồi trước giận dỗi ông nội nên không thích vận dụng. Lúc ở Xuyên Sơn, y đã một lần phá giải trận đồ chiêm tinh, nhưng hiện tại mới là lần đầu Quân Huyền tận mắt thấy y bấm quẻ.
Trong đầu hắn lại nhớ tới vế cuối y vừa nói.
Phá Quân giáng, thiên hạ loạn. Trực giác mách bảo hắn rằng: sáu chữ này chính là thiên cơ. Còn vì sao thì hắn không biết.
“Không kịp đợi trăng ló dạng đâu.” Thu Nhậm cả giận đứng dậy rút kích ra, sát khí lượn lờ trong mắt.
Người phụ nữ choàng bóng đêm chậm rãi lộ diện giữa vạch sân nhiễu dài vệt máu hỗn loạn, công lực của bà ta thâm hậu tới mức cả Quân Huyền lẫn Thu Nhậm đều không nghe thấy bước chân từ đằng xa. Trọng Yên nâng tay vén hai lọn tóc rối trên trán, tay kia bóp gáy cái đầu của thân người bị lôi sàn sạt dưới đất.
Là Thương Lan. Lý Thương Lan cả người đầy máu, vệt máu dài thượt, đỏ thấu tâm trí và tròng mắt Thu Nhậm thuộc về A Lan của y!
Cả đời Thu Nhậm có lẽ chưa bao giờ phẫn nộ đến mức này.
Trọng Yên nhàn nhạt liếc Thu Nhậm, bàn tay giữ chặt gáy Lý Thương Lan rồi âm u nhìn thẳng vào Mạc Tử Liên, nhếch bờ môi như bôi máu: “Khai trận!”
Tức thì - như từ bốn phương tám hướng, trời cao giáng phạt, một tràng âm thanh gay gắt, hỗn loạn, xáo trộn dập xuống như đá nhọn đâm vào màng nhĩ của từng người. Thu Nhậm trợn mắt, suýt thì ngã gục, hai tay ôm đầu ép chặt vào tai, lục phủ ngũ tạng cơ hồ bị nội lực của thứ hỗn âm này cán qua, chớp mắt đã toát mồ hôi lạnh đầy người, thế nhưng ánh nhìn vẫn cứ dán chặt vào Lý Thương Lan.
Quân Huyền có thính giác hơn người thường, càng bị trận hỗn âm này giáng như nghiền xương nắn cốt, lảo đảo ngã vào lòng Mạc Tử Liên. Liên Nhi ôm cơ thể mềm nhũn của hắn lên, ép tai hắn vào vai mình, chùm chuông trong veo trên người y cũng chẳng thua kém hỗn âm ngân vang, bao bọc lấy Quân Huyền như làn nước xuân ấm áp.
Trọng Yên đứng vững như bàn thạch, sửng sốt nhìn con công hoa trước mắt thong thả cười rộ nói: “Thiên thịnh, địa suy, ôi thôi là ta tính sai. Hồng Loan tỏ, Phá Quân giáng, trận này các ngươi thua thảm rồi.”
Tác giả thú thật: Não tôi hổng đủ bự nên chém gió hết mấy vụ âm dương, ngũ hành, tử vi... nhưng chém dựa vào những điều “sơ sinh” nhất.