Nghe thế, Quân Huyền ngừng lau kiếm, nghiêng đầu về phía cửa, từ tốn hỏi: “Làm sao tiền bối biết tên của Diễm Dương?”
“Meo.” Bao Hắc Tử trên đùi hắn trở mình, hai chân trước cong lại ôm lấy mặt.
Người giang hồ đều biết Tà đại hiệp đeo một cặp kiếm ngắn dài và tên thanh dài là Trường Dạ nhưng còn kiếm ngắn hiếm khi rời vỏ thì chỉ vài người thân thiết với hắn mới biết tên. Chữ Tư hồi ấy của Mạc Tử Liên rất xấu, phải nói là vẽ chó thành gà, nên khả năng đối thủ xứng tầm song kiếm từng giao thủ với hắn nhìn ra tên của Diễm Dương là con số không.
Gió tháng bảy vồ vập ngắt lấy vài phiến lá trúc thuôn dài vàng úa như sống mũi người giai nhân bệnh tật, cõng trên lưng cái rét mướt của mùa thu thổi vào ống đạo bào xám tro. Phí đạo trưởng chợt bật cười, ngước đôi mắt nhuốm vẻ u hoài nói: “Ta vốn là con trai của một gia đình thợ rèn sinh sống đã bao đời tại ủng thành Tây Thổ. Năm ta đúng mười hai tuổi, cha dẫn về tiệm rèn một lão đạo trưởng họ Triều tá túc một đêm. Người thấy ta sáng dạ nên bói cho ta một quẻ, sau đó trầm ngâm im lặng thật lâu, vuốt râu bảo ta mang mệnh sát thân, e rằng sắp hại chết người thân trong nhà, sáng hôm sau người liền phân tích sinh thần bát tự của ta qua Lục nhâm* với cha. Mẹ kế biết được liền xúi giục cha trao ta cho Triều đạo trưởng, lấy cớ giải mệnh nhằm tống khứ ta đi để con trai bà kế thừa tiệm rèn.
* Một trong ba môn huyền thuật với Kỳ môn độn giáp và Thái Ất thần số.
“Ta bái Triều đạo trưởng làm sư phụ, theo người học đạo hơn mười năm ròng rã không một lần trở về quê nhà cho tới ngày sư phụ cảm thấy chẳng còn gì để dạy ta nữa. Ta được xuất sư, tìm về quê cũ... Cha là người duy nhất mừng rỡ chào đón ta, lúc ấy tiệm rèn có một người học nghề vừa câm vừa điếc, yêu kiếm như mạng, đêm ngày say mê ở lò luyện, mọi người gọi y là Ách tiểu tử.”
Ra Ách sư phụ học nghề rèn từ cha của Phí đạo trưởng. Quân Huyền không giấu được đôi chút kinh ngạc, nào ngờ dây mơ rễ má của mọi chuyện lại nối kết với nhau như thế này...
“Ách tiểu tử giấu trong lòng một bí mật to lớn, cũng đem bên mình một thứ tai họa. Tâm ta sinh nghi đã lâu, rốt cuộc không nhịn được mặt đối mặt vạch trần ra thân thế của y, không cho phép y tiếp tục lợi dụng người cha tốt bụng, thật thà của ta. Ý tưởng giấu bản cổ tự vào một thanh kiếm thuộc về ta, lúc đó ta đã ý thức hời hợt về độ nghiêm trọng của vấn đề, suy nghĩ quá đơn giản. Ta chọn ra thanh kiếm của Tạ tướng quân vì độ bền và khả năng khó bị di dời của nó, bản vẽ về khoang rỗng trong kiếm là ta vẽ, giấu cổ tự vào kiếm cũng bởi ta làm...” Phí đạo trưởng cười khàn một tiếng xen lẫn với âm thở dài, ngữ khí vẫn thư thả: “Đuổi Ách tiểu tử vào đại mạc, ta cứ ngỡ mình đã bảo vệ được gia đình dù tiệm rèn cuối cùng vẫn rơi vào tay con trai mẹ kế nhưng ít ra đó cũng là mong muốn của cha. Ta rời quê suốt bốn mươi năm sau khi cha mất, thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi; hương âm vô cải, mấn mao tồi*, mà Tây Thổ cũng mất.”
* Trích bài “Hồi hương ngẫu thư hồi kỳ 01” của Hạ Tri Chương, tạm dịch: “Trẻ rời nhà đi, già trở lại; giọng quê không đổi, tóc bạc thưa.”
“Vậy đó, là ta. Chính ta đã hại gia đình Tạ tướng quân bị trảm quyết cũng như hoàn thành lời tiên báo mệnh sát thân của sư phụ ta từ hơn năm mươi năm trước.”
“Ý tiền bối là...” Quân Huyền giật mình tỉnh cơn say.
Phí đạo trưởng 'ừ' một tiếng: “Quân thù đã giết sạch gia đình em trai ta với tất cả những đứa cháu ta chưa kịp thấy mặt nên cũng không nhặt được xác của ai.”
Lời tiên báo trước năm mươi năm mà chính Phí đạo trưởng đã lãng quên trở thành sự thật vào năm ấy.
Quân Huyền chìm vào im lặng, thâm tâm bàng hoàng lẫn lộn cảm xúc không rõ là thương xót hay là đau buồn.
“Ta nói ra chuyện của mình để cậu bỏ ý nghĩ không tốt về cha cậu, cũng như về Ách sư phụ, bởi vì cha cậu không thực sự rõ ràng chân tướng năm xưa, tất cả mọi việc cha cậu làm ra đều chỉ vì một chữ 'hiếu' với Ách sư phụ, người vừa là thầy vừa tựa như cha. Ách sư phụ cũng vạn phần bất đắc dĩ vì ta đã rất gay gắt xua đuổi ông ấy khỏi Tây Thổ. Kết luận cuối cùng là: Ách sư phụ và Tiết trưởng môn vô tội trong án diệt Tạ, không phải hổ thẹn với các vong linh nơi thành Tây Thổ, kẻ phải chịu trách nhiệm sau tất cả chính là ta.”
Gió thổi mạnh hơn, mấy cụm mây thưa màu xam xám bạc dần che bớt trăng lưỡi liềm. Quân Huyền nhận thấy trăng mờ hơn qua mi mắt, luyện Không Cảnh công, ngoài thị giác, bốn giác quan còn lại của hắn đều nhạy tới bất ngờ, mùi gió cõng đến đã thay đổi.
“Lý do tiền bối nhận Khánh Dư huynh làm đồ đệ là vì áy náy?”
“Một phần đúng là vậy, một phần là vì bát tự của Tạ Khánh Dư rất xấu, đặc biệt là về tình duyên, ta biết mệnh số khó đổi, chỉ muốn giúp nó hóa giải phần nào cuộc tình kiếp này.” Phí đạo trưởng thở dài thườn thượt.
“Tình kiếp?” Trán Quân Huyền bỗng đau nhói khi nghe tới hai chữ này.
“Tất cả người tu đạo đều phải trải qua tình kiếp để nếm đủ vị của nhân gian, mà vạn vật đều có đạo của riêng mình nên coi như vạn vật đều sẽ trải qua tình kiếp cũng được. Người tu đạo nếu bại trước tình kiếp thì giống như đánh mất một phách, tự chặt đứt đạo căn, về sau chỉ đi trên một con đường không có đầu cũng không có cuối cho đến khi gục ngã. Còn nếu thắng được tình kiếp thì giống như phượng hoàng trùng sinh từ dục hỏa, linh trí khai mở, một bước lên tiên đồ.” Phí đạo trưởng lại cười mỉm chi: “Có lẽ ta đang nói theo lối cường điệu hóa chứ tới nay ta cũng chưa từng thấy ai đắc đạo thành tiên, kể cả sư phụ cao thâm của ta.”
“Vãn bối không tin thần Phật.” Vì xưa nay hắn luôn sống bằng sức lực của chính mình, Quân Huyền nhíu mày day mạnh trán: “Nhưng số mệnh là gì? Thực sự có tồn tại sao?”
“Số mệnh là gì? Số mệnh chẳng qua là tên gọi khác của nhân quả, được đặt ra để răn đe tất cả kẻ phàm trần rằng: không ai có thể tránh thoát khỏi việc đối diện với hậu quả mà bản thân đã gieo nhân. Dù sớm, dù muộn; dù kiếp trước hay kiếp này... không một sự tồn tại nào có thể thoát khỏi số mệnh. Thậm chí duyên phận nhiều khi chỉ là nghiệp quả từ kiếp trước vừa chín ở kiếp này.”
Mùi gió thổi đến mang theo hương men mơ hồ, Quân Huyền tra Diễm Dương vào vỏ, nắm lấy Trường Dạ, tiếp tục hỏi: “Liên có biết những điều đó không?”
Phí đạo trưởng bật cười phất tay áo chưởng một người thình lình tông đầu ra khỏi tán rừng trúc, suýt thì ngã lộn nhào nếu không được giúp lấy lại thăng bằng, đáp: “Thế cậu nghĩ ai đã nói cho ta biết tên thanh kiếm đó?”
“A, ui...” Người đột ngột xuất hiện chính là Mộ Bạch Thủ, trên vạt áo trước còn dính vài vệt sẫm bốc mùi rượu như thứ rượu Mộ Chỉ trộm. Phí đạo trưởng đoán là cô nàng say quá làm đổ chút rượu sót lại ra áo sư huynh. Mộ Bạch Thủ vì vội vàng nên chưa kịp thay y phục, lảo đảo tìm thăng bằng chắp tay cảm tạ ông rồi báo: “Quân đại hiệp, người của Thiếu Lâm tự vừa đến bái phỏng!”
Phí đạo trưởng vuốt râu: “Nhanh chân thật.”
“Mộ thiếu hiệp chờ một chút rồi dẫn ta đi gặp bọn họ.” Quân Huyền làm như không nhận thấy sự lo lắng của Mộ Bạch Thủ, bình tĩnh xách Bao Hắc Tử thả xuống giường, đứng dậy thay y phục, chải đầu cột tóc rồi lần nữa mời Mộ Bạch Thủ dẫn mình đến sảnh tiếp khách của Xuyên Sơn.
Dọc đường Quân Huyền được gió lạnh thổi cho tan sạch men rượu trong người, âm thầm suy đoán nguyên nhân Thiếu Lâm phải gấp gáp bái phỏng Xuyên Sơn vào lúc trễ thế này. Bước vào sảnh, hắn nhận ra nhân vật đang hàn huyên với Quân phu nhân chính là Phùng Xuân đại sư.
“A di đà Phật.” Bởi vì chất giọng hóm hỉnh tự nhiên nên Quân Huyền luôn hình dung Phùng Xuân thành ông Thổ Công tròn béo cười híp mắt. Sau khi hắn thi lễ, đại sư chậm rãi nói: “Thực ngại khi bần tăng làm phiền Xuyên Sơn các vị và Quân thí chủ vào thời điểm này nhưng vì tính nghiêm trọng của việc xảy ra ở Thiếu Lâm hai mươi ngày trước nên bần tăng bèn phải mạo muội. Thất lễ, thất lễ.”
Quân Tầm Bình vừa trả lời câu cáo lỗi tương tự nên chỉ giữ im lặng, nghiền ngẫm coi Quân Huyền ứng phó, ánh mắt mơ hồ lóe lên hoài niệm rồi lập tức tan biến. Quân Huyền hỏi: “Thưa đại sư, chẳng hay chuyện gì vừa phát sinh tại Thiếu Lâm tự?”
Phùng Xuân lập tức trầm mặt, khí sắc tái đi vì giận dữ, bàn tay nắm chuỗi tràng hạt không kìm được siết chặt, niệm Phật hiệu đáp: “Thiếu Lâm chúng tăng vừa bị kẻ gian thâm nhập, cướp mất bảo tháp Đài Sen chứa xá lợi của các cao tăng. Một đệ tử nội môn đã nhìn thấy phần nào dung mạo của y và xác nhận rằng sau đuôi mắt y xăm một đóa mai đỏ. Bần tăng cảm thấy quen tai, tức thì nhớ ra vị bằng hữu họ Liên của thí chủ trùng hợp có xăm hình tương tự, và cũng dùng lụa mềm làm vũ khí nên mới gấp rút lên đường tìm thí chủ hỏi thăm.”
Thiếu Lâm tự bị mất cắp xá lợi? Quân Huyền không giấu được sửng sốt rồi nhanh chóng bình tĩnh lại, hỏi: “Xin đại sư hãy kể lại tất cả sự việc đã xảy ra.”
Sau khi kể ra rõ ràng mọi tình tiết về thời gian, địa điểm, nhân chứng cùng các dấu vết như lụa và mùi hương... Phùng Xuân đặt lên bàn một tấm mộc bài khắc chữ uốn lượn, không phải nét chữ Tư cách điệu mà là thứ ngoại ngữ duy nhất mà giang hồ Tư quốc đều có thể đoán ra: Hoan Lạc cốc.
“Quân thí chủ, sự việc mất xá lợi đối với Phật gia là chuyện rất nghiêm trọng, vả lại Liên thí chủ còn bị tình nghi liên quan tới tà đạo, bần tăng dám hỏi liệu Quân thí chủ có thể trở về chùa cùng chúng tăng để làm rõ mọi chuyện?”
Chuyện này không hề ổn, Quân Huyền thừa biết Thiếu Lâm tự tìm mình đâu chỉ vì việc Liên bị tình nghi đánh cắp xá lợi mà ẩn ngầm trong đó còn do họ phong thanh rằng hắn luyện ma công, bởi vì thế hắn mới quyết định ra mặt để Quân phu nhân không khó xử. Hắn chỉ không ngờ bản thân sẽ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan này.
Từ chối thì chẳng được nhưng đồng ý thì e là bước vào Thiếu Lâm rồi khó lòng đi ra.
...
..
Gió ở trên sa mạc bắt đầu đổi chiều, dải sông đêm vắt ngang bầu trời phía tây Tư quốc được thêu lên ngàn vạn đốm sáng.
“Thập Tam.”
Mạc Tam thấy người đứng dựa vào lan can không nhúc nhích, bĩu môi gọi lại: “Này! Ngươi làm mình mẩy cho ai coi? Chúng ta đã nói cốc chủ ra lệnh, là mệnh lệnh của cốc chủ đấy! Nếu ngươi cũng có mặt tại đó thì dám kháng lệnh chắc?”
“Vấn đề không phải ở chỗ đó!” Thập Tam đập nát lan can gắt lên, quay phắt lại trừng Tam. Hắn không mặc y phục gọn nhẹ giống những ảnh vệ khác, vai khoác trường bào đỏ tía ngoài bạch y cột lỏng vạt áo. Ngũ quan không đạt mức mỹ mạo của hắn làm bật lên sự quyến rũ toát ra từ cốt cách một dáng hình thân thể quyến rũ. Thập Tam là kẻ trời sinh gió trăng bầu bạn, hắn nghiến răng quát: “Nhất với bọn ngươi đã làm cái chó gì mà để một tên nam nhân chạm vào cốc chủ!”
Thấy Tam lại tặc lưỡi làm ra vẻ mặt 'nói quài mà cứ không chịu nghe, mệt mỏi với ngươi quá', Thập Tam giận điên lên, chống nạnh mắng: “Chó má! Đừng phét với ta, ai cũng biết cốc chủ ghét bị kẻ khác chạm vào người! Ta lâu quá không mắng các ngươi là đầu óc đều quăng lên cây rồi phải không? Đã bảo kẻ nào dám có ý muốn tiếp cận cốc chủ thì cứ đánh nhừ tử trước rồi nói chuyện sau!”
“Im miệng đi Thập Tam. Chúng ta đánh người này thì cốc chủ sẽ đau.” Mạc Nhị cũng bắt đầu cáu tiết: “Mà bọn ta chỉ muốn chôn sống kẻ làm cốc chủ đau.”
Nhưng cốc chủ nghiêm cấm bọn họ giết người, đặc biệt là đệ tử và người thuộc chính đạo, nếu chỉ vì không muốn Hoan Lạc cốc dây vào phiền phức thì cũng dễ hiểu. Tuy nhiên thực tế là cốc chủ còn không muốn gây rắc rối cho Quân Huyền và làm ảnh hưởng đến danh tiếng của hắn.
Sự ghen tức của bọn họ hệt như một đám đại ca ghen tức với tình lang của muội muội bảo bối vậy. Tức thì tức lắm nhưng vì cưng chiều bảo bối nên mới nghe theo.
Thiếu Lâm tự không phải nơi muốn vào thì vào, muốn ra là ra, bọn họ hành sự hấp tấp nên chưa suy tính kỹ, suýt bị Thập Bát La Hán trận giam cầm, từ trên xuống dưới ai cũng bị thương nên dĩ nhiên rất tức khi bị đứa không tham gia phán xét.
Thập Tam thấy Nhị hiền nhất bọn cũng cáu, biết điều im lặng đạp lan can nhảy lên mái, lùa tay vào vạt áo lấy ra một bộ bài, rủ rê Tứ, Ngũ, Lục đang hóng gió: “Rảnh rỗi ha?”
Trong khi Thập Tam chia bài, Lục gợi đòn hỏi: “Ngươi đang ức chế vì bị Tả hộ pháp vứt bỏ phải không?”
“Câm mồm.” Thập Tam bị đâm trúng tim đen, phi bài cắt qua ngón cái Lục xước ra máu.
Tứ chép chép miệng: “Bỏ cuộc đi, chưa bao giờ chúng ta thấy Tả hộ pháp ngủ với ai lâu như vậy.”
“Mẹ kiếp.” Thập Tam lại chửi thề: “Để ta coi còn được bao lâu nữa.”
“Đánh. Bài.” Ngũ dẹp chủ đề tranh cãi.
“Thiếu Lâm tự không hổ là nhất Nhị chấn, lần đầu tiên ta được diện kiến Thập Bát La Hán trận, quả là hết sức lợi hại.” Mạc Tử Liên vén đuôi tóc gợn sóng nhè nhẹ để Mạc Bát dễ bôi thuốc lên tấm lưng trần.
“Cốc chủ.” Mạc Nhất quỳ dưới sàn, báo cáo: “Thư đã đến tận tay người nhận.”
Trên làn da trắng đến như tái nhợt và mong manh tựa một lớp phấn, nước mực xăm màu trắng xám vẽ ra một con rắn lớn bị thương với hoa quế vàng trổ bông từ những vảy bị mài tróc rỉ máu thành các đóa mai đỏ. “Ta luôn yên tâm khi giao việc cho ngươi.” Y mỉm cười đáp. Đầu con rắn rướn tới dưới gáy y, mắt như máu, chiếc lưỡi đỏ duỗi ra thành một nhành hoa, kéo dài lên sau tai, có một con hồ điệp tím đậu trên hoa ấy.
Khi y mặc áo, người nhìn chỉ thấy một con hồ điệp bị một đóa hoa đẹp hấp dẫn nhưng bản chất của hình xăm này phải là hồ điệp đậu trên đóa hoa mọc ra từ lưỡi rắn.
Mạc Bát thoa thuốc xong thì hầu hạ chủ chải tóc. Mạc Tử Liên thoải mái đến mức lim dim mắt như mèo, chậm rãi nói: “Thiếu Lâm tự rất đặc biệt vì họ không chỉ là nhất Nhị chấn của giang hồ mà còn là tín ngưỡng bao trùm lên bách tính, tựa như điện Tế Tự của Địa thành vậy. Hoàng đế dù tin Phật hay không vẫn phải nhường Trụ trì Thiếu Lâm vài phần, nên khi Thiếu Lâm tự rục rịch gì, hoàng đế sẽ chú ý đến ngay...”
Động chạm hay phán xử các vấn đề tín ngưỡng của bách tính không khéo rất dễ khơi nên hỗn loạn. Dù nhà Phật Thiếu Lâm chẳng quản hồng trần nhưng bề rộng của Phật giáo bao trùm lên bách tính vẫn khiến hoàng đế phải phần nào bận tâm.
Từ Thiếu Lâm tự, tiểu hoàng đế Tư quốc sẽ chú ý tới y. Chẳng ranh con nào thích bị một lão già già gần đất xa trời chi phối, nếu y có thể lấy nhược điểm của Phó tướng để tạo chút quan hệ với hoàng đế Tư quốc thì cũng chẳng tệ lắm. Mai sau phần quan hệ này có thể giúp ích cho Ô Khê.
Y chỉ làm việc này một lần, chỉ đúng một lần vì nửa dòng máu chảy trong huyết quản Ô Khê.
Khi Bát chải tóc xong thì Nhất khoác áo lên vai y, cố tránh mắt khỏi dấu răng chưa lành dưới gáy y, hỏi: “Người thật sự muốn đi Địa thành trước rồi mới trở về cốc?”
“Ừ, ta cần đưa bài vị của ông cố và bà nội hồi hương, đã năm mươi năm rồi, ta tin ông nội luôn muốn làm vậy.”
Mạc Nhất không nhiều lời nữa, cáo lui. Mạc Tử Liên quấn chăn quanh mình, đầu óc nghĩ vẩn vơ, dần dần chìm vào giấc ngủ. Y ngủ cũng thiếu yên ổn, thức giấc giữa đêm mấy lần, cứ thấy lạnh toát nhưng lưng lại đổ mồ hôi, sau lần tỉnh dậy thứ năm, y chẳng ngủ được nữa, trùm chăn quấn mình thành kén, chỉ lộ ra nửa trán và tóc, lăn qua lăn lại rơi luôn xuống giường. Rồi y tiếp tục lăn lăn lăn dưới đất tới khi đụng Nhất đang ngồi xổm, bó tay hỏi y: “Người bị mắc kẹt phải không?”
Chăn liên tục gấp nếp chứng tỏ y đang gật đầu.
Chủ nhân như y đúng là luôn khiến người ta lo lắng, Nhất thở dài đưa y về giường, tìm cách mở chăn ra. Mạc Tử Liên chui ra khỏi chăn, đã tỉnh như sáo, vuốt mồ hôi trên trán, tự dưng hỏi: “Ngươi và Tả hộ pháp vào cốc cùng một lúc sao?”
Mạc Nhất hơi ngạc nhiên, trả lời: “Thưa không phải, thuộc hạ vào cốc trước Tả hộ pháp.”
“Ngươi vào cốc như thế nào?”
“Thuộc hạ được mua về.”
“Còn A Dao?”
“Tả hộ pháp được tiên cốc chủ nhặt về.”
Nghe A Dao được cha mình nhặt về, Mạc Tử Liên bỗng nhiên chìm vào trầm tư thật lâu rồi hỏi một câu kỳ lạ: “Thời gian đầu vào cốc, A Dao có bình thường không?”
Đồng tử Nhất hơi giãn, chần chừ đóng mở miệng một lúc mới đáp thành lời: “Thưa không...”
Đêm nay, Quân Huyền cũng thức trắng, trầm tư viết một bức thư, gác bút vào giá, niêm phong thư rồi đưa Phí đạo trưởng, giọng lạnh lùng: “Quả là rời khỏi tầm mắt vãn bối thì y sẽ làm những chuyện chấn động nhân tâm.”
Phí đạo trưởng nhìn tên người nhận, cười cười: “Sao ta lại cảm thấy tay nghề của mình không được tin tưởng?”
“Vãn bối chỉ muốn phòng bị vạn nhất vì không muốn đổi một thanh kiếm khác.” Hắn khom lưng nói: “Xin nhờ tiền bối.”
Phí đạo trưởng mang thư đi rồi, Quân Huyền còn đứng ngoài sân cho đến khi Bao Hắc Tử chạy ra khều gấu quần gọi hắn đi ngủ. Quân Huyền bế nó lên vai, nó liếm vành tai hắn.
Hắn không quan tâm bản thân sa vào ma đạo hay không, hắn chỉ biết mình chưa muốn bị Thiếu Lâm độ thành Phật.