“Sư hụ! Sư hụ!”
Lý Thương Lan chặc lưỡi gõ đầu Hạ Cẩn: “Nhai kẹo cho xong đi.”
Hạ Cẩn lè lưỡi nhả kẹo vào bàn tay rồi trỏ về phía trước nói tiếp: “Thỏ của Trầm bá bá kìa!”
“Hả?” Lý Thương Lan thấy một đệ tử Nghê Mi đang ôm một con thỏ mập ú trên tay. Nàng khoác áo ngoài bằng vải sa, thắt lưng gấm thắt ngọc bội hình hoa sen tịnh đế, vừa nựng thỏ vừa quay đầu ngó quanh đường phố tìm kiếm gì đó.
Hắn còn đang ngờ rằng nàng nhìn quen quen thì Hạ Cẩn đã lăng xăng chạy đến chặn đường người ta, nháy mắt đưa ra một cục kẹo: “Tiểu tỷ tỷ thật xinh đẹp, làm ta cứ ngỡ là tiên nữ giáng trần. Ta dám chắc nụ cười của tiểu tỷ tỷ ngọt ngào hơn viên kẹo mứt này gấp bội. Tối nay tỷ tỷ có rảnh không, ta dẫn tỷ đi ăn quà, chỉ hai ta thôi...”
Lý Thương Lan: “...” Hắn thề với trời là không hề dạy con bé những lời thế kia.
“Mạo phạm cô nương rồi.” Lý Thương Lan bất đắc dĩ xách cổ Hạ Cẩn: “Đều tại Lý mỗ nuôi thả xú đồ, làm nó miệng lưỡi linh tinh, mong cô nương đừng để bụng.”
“Thì ra là Lý các chủ. Tiểu nữ gặp qua ngài.” Nàng nhún mình hành lễ, che miệng cười: “Tiểu nữ nào dám để bụng, thiếu nữ hoạt bát như lệnh nữ rất khiến người ta yêu thích.”
Cách nói chuyện của cô nàng này, Lý Thương Lan nghĩ, khá là kiểu cách. Hạ Cẩn nghe vậy, nhanh nhảu bảo: “Tiểu tỷ tỷ đã xinh đẹp lại còn có mắt nhìn tốt nữa! Tỷ tỷ xin hãy nhận viên kẹo này thay cho tâm ý của ta!”
Nàng ấy bật cười. Lý Thương Lan gõ đầu con bé: “Xú nữ!”
“A kìa!” Đúng lúc này Trầm Trác Sơn từ đâu đó nhảy lên vách tường sau lưng nàng ta, thở phào bật mình xuống đất, chắp tay nói: “Đa tạ cô nương rất nhiều, nhóc ú đó là thú cưng của tại hạ vô ý lạc mất, may quá cô nương tìm thấy. Cô nương? Cô nương ơi?”
“A?” Nàng ấy lập tức rũ mắt che giấu bối rối, khôi phục phong thái tao nhã, đưa thỏ đặt vào tay Trầm Trác Sơn rồi bước lùi hai bước, thẹn thùng quay mặt: “Trầm Minh chủ không cần phải khách sáo. Tiểu nữ cũng chỉ tình cờ bắt gặp nó... tự nhiên lại ở trên mái sạp.”
Biểu cảm của nàng ta có gì đó gượng ép, sau đó viện cớ bận rộn mà nhanh chóng cáo từ. Lý Thương Lan nhướng mày hích vai Trầm Trác Sơn còn đang mải rướn cổ nhìn theo bóng lưng người đi, thầm thì: “Uầy, huynh lại chọc trúng vận hoa đào nhà ai đấy?”
Trầm Trác Sơn nghi hoặc: “Đỗ tiểu thư trở thành đệ tử thủ hộ của Trọng lâu chủ từ bao giờ vậy?”
Lý Thương Lan chợt bừng tỉnh vỗ tay cái 'bốp': đúng rồi, cô nương vừa nãy là con gái của Tổng đốc Đỗ Hạng - Đỗ Dung! Hắn từng trông thấy nàng ta khi mang 'đồ bổ' đến gặp quan trên vào năm tới lượt Bồng Vân các tổ chức Lôi đài.
Tại sao một tiểu thư nhà quan lớn lại chạy vào Nghê Mi lâu bái sư? Lý Thương Lan đánh mắt, Hạ Cẩn xòe tay bóp bóp đuôi thỏ, thèm thuồng hỏi: “Cho cháu xin một chiếc đùi của nó được không ạ?”
Tiểu Hoa Hoa như đánh hơi thấy mùi nguy hiểm, cụp tai chui vào lòng chủ nhân. Trầm Trác Sơn 'xùy xùy' phủi móng vuốt của con bé xuống, bế thỏ cưng lên đầu: “Nhóc bớt học theo Thu Nhậm đi. Thỏ ta nuôi béo là để nựng cho sướng tay chứ không phải xiên que.”
“Xú nữ này.” Lý Thương Lan đẩy bao giấy bọc đùi thỏ vừa ra lò vào trong tay áo hơn: “Về mau, đồ mà nguội thì sư bá bắt mi lên xiên que đấy. Trầm huynh, sư huynh ta mới khỏi bệnh, có lẽ cũng muốn gặp huynh.”
“Rượu hoa quế, rượu hoa đào... có cả hạnh nhân ngâm nữa, hừm, cái mùi này... Ta nhớ hai người không thích uống ngọt đậm mà.” Trầm Trác Sơn chẳng che giấu ánh mắt thèm nhỏ dãi lia qua lia lại ở cạnh tường xếp gần mười mấy chum rượu. Thu Nhậm mở bao giấy bạc, hương thơm nức của đùi thỏ nướng sốt cay như bùng nổ, Hạ Cẩn đứng ngoài cửa sáng rực mắt.
“Thì chúng ta được tặng mà, sư huynh chỉ thích uống Nữ Nhi Hồng thôi.” Lý Thương Lan chọn cái đùi nhỏ nhất cho đồ đệ rồi xua nó đi, khép kín cửa, trở về bên cạnh Thu Nhậm: “Ui ui, huynh nhìn sắp thủng góc tường nhà ta rồi đấy. Chốc nữa ta cho huynh mấy chum.”
“Thật không? Đường nào cũng cho thì bây giờ ta cũng miễn khách sáo khui trước một chum nhé!” Trầm Trác Sơn bật dậy vơ lấy một chum rượu hoa quế, hí hửng khui dốc thẳng vào miệng, chùi mép nói: “Khà! Lâu lắm rồi ta mới lại được nếm hương vị thân yêu này!”
Thu Nhậm chỉ tay bảo Lý Thương Lan mở một hũ hạnh đào ngâm làm đồ nhắm, nâng chén rượu kêu Trầm Trác Sơn rót cho mình, hỏi: “Ta nghe đâu huynh vừa phát sinh xung đột với Hắc đạo ở kinh thành?”
“À cái đám đó, cũng chẳng phải chuyện gì quan trọng, ta chỉ giáo huấn bọn chúng một chút, cho chúng biết đệ tử Đao Khách trang không phải quả hồng mềm.” Trầm Trác Sơn một tay đảo chum rượu, một tay nắm chuôi đao: “Nghe nói huynh mới bệnh dậy? Nếu chẳng do chính miệng Lý đệ báo chắc ta không tin đâu, Thu huynh có bao giờ mà bệnh, vừa qua đột ngột bệnh nặng như vậy là có gì đó bất thường sao?”
Lý Thương Lan đáp thay: “Chuyện này khá dài, vả lại liên can sâu xa, chúng ta cũng không tiện kể chi tiết. Tóm lại là sau khi trải qua, chúng ta khẳng định mọi sự đều dính đến 'bên trên'.”
“Bên trên à?” Trầm Trác Sơn úp tay đè miệng chum rượu nhìn Thu Nhậm - nhìn màu áo đen huyền của y: “Vậy huynh có tính toán gì không?”
“Tính toán gì đây? Ta cũng không thể quản rộng đến như vậy, trên đời có nhiều chuyện sai một li đi một dặm, dẫm nhầm chân là hối hận cả đời, huynh chẳng hiểu điều ấy hơn ta sao?”
“Hối hận cả đời... Ừ, quả là hối hận cả đời.” Trầm Trác Sơn lại rót cho Thu Nhậm một chén, hai người cứ thế 'ta một ngụm, ngươi một chén'. Lý Thương Lan trông mà thèm nhưng đành bấm bụng nhịn, ngoan ngoãn ngồi gặm đùi thỏ và bóc hạnh nhân.
“Hắc đạo ở kinh thành quả nhiên có nguồn thông tin vô cùng chất lượng, hỏi là biết chi tiết ngay, ngặt nỗi giá cả đúng là vắt kiệt máu người ta, chi tiêu ở kinh thành cũng cao nên ta bị Tạ huynh mắng té tát về tiền phòng trọ. Thực như ta nghĩ, gốc rễ ngọn nguồn tai họa của Đao Khách trang hiện tại ngược về với cha ta năm đó. Đao Khách trang chúng ta gặp họa, có lắm người buồn lẫn chẳng ít kẻ vui. Từ khi Thái sư tổ gầy dựng nên trang tới bây giờ, chúng ta vẫn luôn tự nhận là 'khách' mà không xưng 'hiệp' - ngoại trừ cha ta, ta thiết nghĩ liệu sai lầm có phải là bắt đầu từ đó chăng?”
Nguyên bản Đao Khách trang chỉ xưng làm 'khách' giang hồ, chưa từng nhận là chính đạo, có thể nói họ vốn không phải chính đạo, cũng như tà đạo. Kể từ khi Xích trưởng lão kế nhiệm thì Đao Khách trang mới nghiêng hẳn về chính đạo, vậy nên xuất ra một Trầm Thượng Nhai, Trầm Minh chủ danh vọng lẫy lừng.
“Lẫy lừng ư?” Trầm Trác Sơn có chút trào phúng hừ cười, tháo dây xích, đặt trọng đao lên bàn, ngón tay chai cứng chà xát thân đao: “Ta chưa từng nói cho hai người biết phải không? Thực ra thanh đao này là của cha truyền lại cho ta.”
Thu Nhậm hoài nghi nhìn hắn, Lý Thương Lan cũng lộ vẻ thắc mắc vì Đao Khách trang có luật mỗi đệ tử chỉ đặt tên cho đao một lần và sử dụng nó suốt đời, sau khi chết cũng phải mang đao xuống mồ. Theo lý đao này cũng phải bồi táng theo Trầm Minh chủ quá cố.
Trầm Trác Sơn gật đầu, ánh mắt u hoài nhìn đao: “Cha ta vào những ngày cuối đời đã liên tục căn dặn ta nhất định không bồi táng đao với người, người nói mình không xứng được chôn cùng đao... Sơ Huyền.”
Một lần nữa Lan, Thu ngạc nhiên rõ rệt: ai ai mà không biết thanh đao năm xưa đi theo đại hiệp Trầm Thượng Nhai đỉnh đỉnh đại danh tên là Phù Khuyết?
“Tên ban đầu của đao là Sơ Huyền, sau đó đổi sang Phù Khuyết. Sở dĩ cha ta đặt tên đao là Sơ Huyền để lấy đó thay thế sự hiện diện của Tống thúc, thuở ban đầu cha luôn muốn thực hiện giấc mơ song hiệp Sơ Huyền Thượng Nhai của cả hai thời niên thiếu. Tuy nhiên, sự đời vô thường, càng dấn thân mới càng thấy cách trở, sơ tâm của mỗi người đều biến đổi...”
Tống Sơ Huyền ở trong quan trường, càng trèo càng cao, làm đến tận chức Phó Thống lĩnh Ngự tiền Thị vệ, chiếm được lòng Đế chủ, ân sủng dồi dào, cứ thế vứt bỏ giấc mộng năm nào. Trầm Thượng Nhai hành hiệp giang hồ, càng đánh càng vang danh, mới hơn hai mươi đã nắm giữ Võ Lâm lệnh, cáng đáng trách nhiệm trước miệng lưỡi thế gian đến nguội lạnh lòng. Tri âm, tri kỷ càng ngược đường càng lìa xa, bỗng dưng cảm thấy người bạn ngày xưa trở nên lạ lẫm.
Tống Sơ Huyền là thần dưới chân Thiên tử, có nhiều lúc phải làm việc trái với lương tâm, âu cũng bởi thân bất do kỷ. Trầm Thượng Nhai lại đeo danh chính nghĩa, áp lực tứ phương, rốt cuộc phạm sai lầm, làm tổn thương bạn tri kỷ.
“Cha ta chỉ làm một việc đơn giản thôi,“ Trầm Trác Sơn đã hơi ngấm say, nói, “chính là đổi tên đao Sơ Huyền thành đao Phù Khuyết.”
Chính kể từ khi đó, bốn chữ Sơ Huyền Thượng Nhai trở thành trò cười của giang hồ rồi dần dần bị lãng quên... cho đến cái đêm sát phạt ở Lưu Ly bảo. Tống Sơ Huyền đã cứu vãn chính đạo 'một bàn thua trông thấy' về mọi nghĩa, sau đó cũng trả một cái giá đắt đỏ để cứu Trầm Thượng Nhai lẫn Đao Khách trang.
“Phải tới khi Tống thúc thúc mất hết nội lực, thân thể suy yếu rõ rệt, cha ta mới hốt hoảng nhận ra người bạn xưa chưa từng thay đổi - kẻ thay đổi chính là người.”
Hồi đó Trầm Trác Sơn mới bắt đầu có ký ức rõ ràng về Tống Sơ Huyền, trong ấn tượng của hắn, Tống thúc rất yếu, cực kỳ yếu, không phải yếu ớt theo kiểu bệnh tật mà là suy nhược tới mức đi vài bước lại phải dừng lại thở hổn hển, cầm một chiếc ly đầy nước cũng sẽ run tay - sẽ chẳng ai nghĩ rằng người như thế cũng từng có một thuở kiêu hùng ngang dọc. Cha hắn không ngừng vời đại phu và danh y, hi vọng chữa trị được cho Tống thúc, nhưng tất cả đều chịu thua, nói rằng căn cốt chống đỡ cơ thể đã bị phế hoàn toàn, thân tàn như nến trước gió.
Sau đó Tống thúc cương quyết chặn cửa cha hắn, cũng từ chối mọi danh y, thuốc bổ, bình tĩnh nhận mệnh. Y không muốn gặp cha nhưng lại thích gặp Trác Sơn, thích dạy nhóc viết chữ hoặc xem nhóc đánh võ. Thỉnh thoảng Tiểu Trác Sơn từ trong ngó ra, chỉ thấy cha mình cô độc đứng ở trước cửa nhìn vào khoảng sân tiêu điều với nét mặt buồn rầu.
Tiểu Trác Sơn lui tới chỗ Tống Sơ Huyền rất thường xuyên mà chưa từng gặp vợ của y - Tống phu nhân Phó thị, người phụ nữ cặp song sinh gọi là mẹ. Ở đó chỉ có một mình Tống thúc chăm sóc cho Xuân Phong và Ỷ La. Tiểu Trác Sơn tự ý thức nhóc là anh lớn, cũng giúp chăm nom hai em nhỏ.
Thời gian yên ả ngắn chẳng tày gang, ngày ấy Tiểu Trác Sơn đang ở với Tống thúc, bỗng nhiên hay tin nguy, cha tức tốc đi cứu mẹ. Cả đêm nhóc như ngồi trên đống lửa, trằn trọc nằm cạnh Xuân Phong và Ỷ La, đợi mãi chẳng thấy ai đến đón mình, từng giây trôi qua trong tiếng dế kêu dài dằng dặc, không gian trĩu nặng một bầu bất an ngột ngạt tới trẻ con cũng cảm nhận được.
Những chuyện sau đó thật khó để tóm lược.
Trầm Trác Sơn chỉ biết mình ngủ một giấc vừa dài, vừa nặng nề, tỉnh lại thì mẹ đã mất, Tống thúc đã mất, cả cặp song sinh cũng ra đi... Cha của hắn suy sụp ngồi bên giường, cơ hồ đã mười đêm không ngủ, nếp môi nhăn nhúm như già đi chục tuổi. Hắn vừa trải qua kinh hãi lại phải nhận tin dữ, lập tức ngã một trận bệnh nặng như núi đổ. Có lẽ để trốn tránh thực tại nghiệt ngã, tâm trí hắn vô thức xóa nhòa những ký ức về cặp song sinh, về Tống thúc... bởi vì họ gắn liền với những bóng ma kinh dị và máu tanh.
Ba chum rượu đã vơi thấy đáy, Trầm Trác Sơn càng uống càng tỉnh, hấp háy đôi mắt hơi nhòa: “Ta... từng luôn oán trách cha cường đại như thế, uy phong như thế, vì sao không cứu được mẹ? Hồi đó ta không hiểu chuyện, thấy cha già cỗi đi hẳn, thường xuyên như người mất hồn, càng nhìn càng ghét, trách cha rất nhiều. Cha chẳng đáp lại một lời, ta còn tưởng là mình nói đúng nhưng...”
Nhưng sau khi trùng phùng Xuân Phong và Ỷ La, hắn hoàn hồn phát hiện mình sai lầm. Thực chất trước giờ hắn cũng chỉ là một phiên bản khác của cha, thậm chí còn đáng hổ thẹn hơn người. Hắn cũng từng là thiếu niên khinh cuồng, từng bén lương duyên thành phu phụ với một cô nương, cũng từng nghĩ mình cường đại, lại không thể đánh bại bệnh tật của thê tử. Những năm sau đó hắn phiền não sống cô độc, cần cù đảm nhiệm vị trí Võ lâm Minh chủ... lại chưa từng nhận ra bản thân đang đi vào chính vết xe đổ của cha.
Chí ít cha hắn, Trầm Thượng Nhai biết rõ sai lầm của mình, cả đời ăn năn, u sầu mà chết, hắn còn chẳng thể nhớ nổi hai đứa trẻ ấy. Sư tổ chưa bao giờ nhắc tới chuyện cũ, ngài cứ im lặng làm Xích trưởng lão của Đao Khách trang, chôn vùi xương máu của Tống thúc và Tống gia chỉ bởi vì một cái 'danh' chính đạo.
Lan, Thu nghe đến đây, thâm tâm đã hiểu rõ, Thu Nhậm nâng chén rượu ngang môi như che giấu biểu cảm nét mặt. Tự xưa nay, giang hồ chính đạo vẫn luôn ám ảnh với hai chữ 'danh vọng'. Chân tướng nên duyên cớ sự chính đó. Đao Khách trang vốn dĩ là 'khách', đâu phải là 'hiệp', tại sao lại phải cố chấp với cái danh chính đạo đến vậy? Có thể ban đầu Xích trưởng lão chỉ vô tình nhưng về sau thì trở thành cố ý, cố ý lợi dụng Tống Sơ Huyền, cố ý bỏ mặc cặp song sinh.
Xích trưởng lão đã quá tham lam và ích kỷ, một mặt thì muốn nhờ Tống Sơ Huyền giải quyết biến cố Lưu Ly bảo sạch sẽ, một mặt lại lo ngại thân phận Ngự tiền của Tống Sơ Huyền ảnh hưởng đến Đao Khách trang. Miêu tả dễ hiểu nhất chính là: mình lỡ tay ném chuột vỡ bình rồi tóm một người chẳng liên quan đi dọn dẹp mảnh vỡ lẫn bắt chuột, xong xuôi thì tống người ta biến đi.
Chưa hết, trong biến cố Lưu Ly bảo, toàn thể chính đạo đều sai, chính đạo e sợ phiền phức dính tới 'bên trên' mà làm rùa rụt cổ, bằng sự đê hèn của mình tiếp tay đẩy Tống Sơ Huyền đến cùng đường.
Rắc.
Trầm Trác Sơn tay trần bóp vỡ miệng chum đất, vừng trán gấp nếp hiện lên dấu vết năm tháng không phù hợp với tuổi thật, khép chặt đôi mắt xáo động đau đớn, ngữ âm khàn vỡ cả ra: “Tống thúc mất, Tống gia ít ỏi cũng bị trảm quyết. Xuân Phong và Ỷ La theo mẹ, Tống Phó thị đến Phó gia - trong lòng cừu nhân hại chết cả nhà cha mình. Ta không dám tưởng tượng hai đứa trẻ ấy đã lớn lên như thế nào...”
Sư tổ bảo vệ Đao Khách trang bằng cách sai trái, Trầm Trác Sơn tạm thời có thể hiểu lòng ngài nhưng còn cặp song sinh thì làm sao giải thích? Sư tổ nuôi dạy cha hắn từ nhỏ, ngài có sức ảnh hưởng rất lớn đến cha - hắn chẳng phải không hiểu tính cách cha mình: biết rõ việc đổi tên đao sẽ gây tổn thương cho Tống thúc mà cha cũng làm ư? Hai chữ 'tri kỷ' đối với cha làm sao có thể rẻ rúng như vậy?
Trầm Trác Sơn cũng chỉ nghĩ ra được duy nhất một người đủ khả năng khiến cha mình lung lạc, chẳng nhẽ mọi chuyện đều do một tay Xích sư tổ gây nên? Thật con mẹ nó lố bịch!
“Trầm huynh.” Lý Thương Lan búng đến một viên hạnh nhân.
Dù lửa giận bén mùi men đã cháy bùng lên ót Trầm Trác Sơn nhưng hắn vẫn còn rất tỉnh, hắn giống như cha mình, uống bao nhiêu cũng chẳng say, hắn chẳng cần nhìn bắt lấy viên hạnh nhân bỏ vào miệng, hung hăng cắn nát.
Vừa mặn vừa ngọt, và hơi chát.
“Trầm huynh,“ Lý Thương Lan cười cười an ủi nói, “tính cách của huynh thế nào ta và sư huynh đều hiểu, trong lòng huynh luôn canh cánh giang hồ, cả hai đời cha con huynh đã dốc tâm, dốc sức vì hiệp nghĩa, điều này không ai có thể chối cãi. Bấy lâu nay huynh vất vả rồi, người sống trên đời cũng nên vì mình một chút, cha huynh đã u sầu đến chết, ông ấy hẳn cũng không muốn huynh giống mình.”
Trầm Trác Sơn nghe vậy, vừng trán mệt mỏi dãn ra, cảm động xoa tay Lý Thương Lan bảo: “Nếu không có Thu huynh, ta chắc chắn sẽ hôn đệ một cái.”
Rầm!
Thu Nhậm đập tay xuống, làm nát cả chén rượu và một góc bàn, Lý Thương Lan tức khắc rụt cổ, run rẩy nghe sư huynh đằng đằng sát khí nói: “A Lan, lấy kích của ta đến đây - mau!”
Trầm Trác Sơn cầm đao lên quay cuồng, sang sảng, hứng khởi hất cằm: “Đến, đến, đến! Lâu rồi không đánh! Ta nhớ tiếng khớp trật lắm!”
Lý Thương Lan ba chân bốn cẳng vọt đi ném kích cho sư huynh, mới há miệng tính nói bọn họ mở cửa đàng hoàng mà ra sân đánh thì Trầm Trác Sơn đã quay mông chém đôi hai cánh cửa đổ cái ầm, phóng ra ngoài tránh một kích Thu Nhậm giáng xuống làm gạch men dưới bậu cửa tan nát hết. Mũi kích giật lên cùng với một làn bụi mịt mù thổi vù vào mặt Lý Thương Lan, ngoài sân liên tiếp vang dội âm thanh như trời long đất lở.
Hạ Cẩn đột ngột chạy ào vào ôm chặt chân hắn, khóc oa oa: “Sư hụ! Sư hụ! Sao tự nhiên đánh nhau rồi? Người và con phải mau trốn đi!”
Sư phụ nó che trán, bất lực nhìn trời.
“Đa tạ chỉ giáo!”
Trầm Trác Sơn cười ha hả giắt mấy chum rượu hai người Lan - Thu hứa cho lên vai, chắp tay cáo từ rồi cà thọt một chân đi ra cổng. Lý Thương Lan xoa xoa khuỷu tay Thu Nhậm, bảo: “Đã nói huynh bao nhiêu lần đánh nhẹ tay thôi, dùng sức quá rồi chính mình cũng bị thương.”
Thu Nhậm bất mãn trừng mắt: “Hắn vẫn còn ý đồ với ngươi!”
“Rồi, rồi, rồi.” Lý Thương Lan trực tiếp dang tay ôm sư huynh đi qua cánh cửa nát tươm. Trầm Trác Sơn từ ngoài cổng chợt gợi đòn quay đầu lại, làm một nụ hôn gió với đối thủ. Thu Nhậm vung tay phóng cây kích như sét đánh suýt soát trúng mặt hắn. Trầm Trác Sơn đã kịp lanh lẹ chạy trốn trước, hắn chạy phải xa cả trượng rồi mới quay đầu cố tình cười thật to.
Ngày đã tàn, trước con hẻm nhỏ treo hai dây đèn lồng màu cam nhạt. Trầm Trác Sơn đứng trước cửa nhà trọ dỡ rượu xuống, bỗng trông thấy trên lan can có một người đang ngồi vắt vẻo, tà váy nghê thường ngũ sắc phấp phới đằng sau áo lụa mỏng, bội sức hoa sen tịnh đế đung đưa.
Hắn ngẩng đầu, thấy cô nương chiều nay đã nhặt được thỏ của mình - Đỗ Dung, ngạc nhiên gọi: “Đỗ tiểu -...”
'Nàng' cúi xuống làm chữ cuối nghẹn lại trong cổ Trầm Trác Sơn, ánh mắt đó gợi lên từng làn sóng cuộn trào nơi đáy lòng hắn. Hắn há miệng mất một lúc mới thốt lên lời: “Ỷ, Ỷ La phải không?”
'Nàng' nhìn hắn chằm chặp, bất ngờ bật cười ngất ngưởng, hai tay vỗ lan can bôm bốp, đá chân qua lại bảo: “Thì ra, thì ra ngươi vốn không hề nhớ chúng ta là ai! Ha ha ha!”
Đoạn 'nàng' cúi người thả mình rơi tự do xuống, Trầm Trác Sơn giật thót, phản xạ vươn tay ra đỡ người - bất thình lình ăn đau đớn ở trên vai. Thì ra Tống Ỷ La mượn lực ngã xuống để đâm một nhát dao vào hắn, đối phương hung tợn rút dao, vùng tay đẩy hắn ra, mép môi vặn vẹo thành một nụ cười ác liệt: “Liệu mà tránh xa ta ra, bằng không mỗi lần gặp ngươi, ta đều sẽ đâm ngươi một nhát!”
Trầm Trác Sơn ôm vết thương đầm đìa máu, thở dốc hỏi: “Ỷ La... để làm gì?”
Người kia lướt bàn tay qua mặt, nét cười lập tức trở về là 'Đỗ Dung' ngượng ngùng: “Ngươi nghĩ ta muốn làm gì? Ta ngứa mắt chính đạo, không muốn bọn chúng được yên đấy!”
Dường như trong dao có tẩm thuốc, Trầm Trác Sơn không đủ sức lực để nhấc chân đuổi theo 'Đỗ Dung', chỉ có thể ngước mặt nhìn 'nàng' rời xa. Trên một mái nhà ở hướng đó, có một con mèo mun với con ngươi xanh thẫm đang vờn hồ điệp.