Vận mệnh rốt cuộc có chuyển ngoặt không?
Hay cái chúng ta tưởng là chuyển biến lớn, chẳng qua là kết quả của các loại nhân duyên nước chảy tất thành mương.
Nước mắt tồn tại vì điều gì?
Có phải không khóc, là có thể thoát khỏi bi thương chăng?
Ngàn thu tịch liêu, tàn một giấc mộng…
Hồi Thứ Nhất: Trầm Ngư
Gió đông gào thét, sắc trời mịt mù.
Tuyết đông đêm qua chưa tan, trời lạnh buốt. Nhìn ra ngoài từ phía
sau rèm kiệu, chỉ cảm thấy hết thảy đều âm u, giữa thành lũy san sát,
canh gác nghiêm ngặt, mấy thân tùng bách trải qua đông giá vẫn không tàn lụi có vẻ ảm đạm rõ rệt. Ban ngày mà vẫn thắp đèn trên hành lang, từ xa nhìn lại giống như một dải màu đỏ liên miên uốn lượn, dường như không
có điểm cuối.
Hai bên là những tòa nhà tường đỏ, móng đá màu xanh trắng, ngói lưu
ly màu vàng, được trang trí bằng những bức tranh màu rực rỡ, hình vẽ
phần lớn là rồng phượng, tuy rằng hoành tráng, nhưng lại thiếu vẻ tinh
tế.
Khương Trầm Ngư nghĩ, chung quy nàng vẫn không thích hoàng cung.
Nếu năm đó, một đạo thánh chỉ ban xuống, người được chọn không phải
tỉ tỉ mà là nàng, thực không biết phải làm thế nào để trải qua cuộc đời
dài đằng đẵng trong thâm cung nội viện… May mà tỉ tỉ khôn khéo hiểu đời, mới có thể thuận lợi được thánh quyến ân sủng.
Đương nghĩ đến đây, kiệu chợt dừng lại, phía trước truyền tới một giọng nói: “Trong kiệu có phải Khương gia tỉ tỉ không?”.
Nàng vén rèm kiệu lên, liền nhìn thấy một gương mặt tươi cười tiến
đến trước mặt: “A ha! Quả nhiên là Khương gia tỉ tỉ! Hôm nay tỉ đến thăm Khương quý nhân sao? Sao không nói trước với ta một tiếng Nếu không
phải vừa khéo gặp nhau ở đây ta còn không biết tỉ đến nữa…”.
Thiếu nữ đó nói liến thoắng, nhả chữ như ngọc, ước chừng mười ba,
mười bốn tuổi, thân hình còn chưa phát triển hết, dung mạo bình bình,
nhưng thần thái hồn nhiên rạng rỡ, lộ rõ vẻ được nuông chiều. Người này
không phải ai khác, chính là đương kim hoàng muội, công chúa Chiêu Loan.
Khương Trầm Ngư vội vàng xuống kiệu, cúi mình định khấu đầu. Chiêu
Loan liền kéo tay nàng, cười nói: “Giữa tỉ và ta, sao còn đa lễ. Vừa
khéo gặp nhau, ta cùng tỉ đi thăm Khương quý nhân nhé”.
Nàng sao dám chối từ, nhưng thấy sau lưng công chúa chỉ có hai cung
nữ theo hầu, không ngồi xe, bụng nghĩ kiệu của mình chắc không thể ngồi
tiếp, bèn dứt khoát bỏ kiệu mà đi cùng công chúa. Dọc đường vừa đi vừa
chuyện trò, cung nhân hai bên đường đều khấu đầu hành lễ.
“Sao công chúa lại tới đây?”.
“Ta vừa yết kiến thái hậu xong, đang định đến tiền đi1ện gặp hoàng
huynh thì gặp tỉ. Đúng rồi, nghe nói tháng trước tỉ tỉ làm lễ cập kê (1) , đáng tiếc ta lại không thể đến xem lễ. Chúng ta dễ chừng nửa năm chưa gặp, tỉ còn đẹp hơn so với ấn tượng của ta”. Chiêu Loan nói đến đây,
không kìm được cảm khái, “Thế gian này, quả nhiên) chỉ có đệ nhất mỹ
nhân của Bích quốc là tỉ mới xứng với cái tên “Trầm Ngư”(2) “.
Trong giây lát, mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng lên, nàng khẽ nói: “Lời
của công chúa làm ta thật xấu hổ, không nói đâu xa, chỉ trong cung này,
Tiết hoàng hậu cao quý, Cơ quý tần tài hoa phong nhã, ta đều không bì
kịp, huống hồ… còn có Hy Hòa phu nhân đó, nàng mới là đệ nhất mỹ nhân
được cả bốn nước công nhận”.
Mặt Chiêu Loan bỗng lộ vẻ chán ghét, “hừ” một tiếng, nói: “Yêu phi đó ư?
Tỉ không nhắc đến ả thì thôi, nhắc đến ta liền thấy bực, ả đúng là
chỉ lo thiên hạ không loạn, một ngày cũng không yên. Tỉ có biết vì sao
ta phải tới tiền điện tìm hoàng huynh không? Cũng chính vì ả gây cơn
sóng gió đó!”.
Khương Trầm Ngư hơi ngẩn ra, vẫn còn mù mờ, Chiêu Loan đã kéo tay
nàng đi qua Ngọc Hoa môn, từ xa chỉ về phía Cảnh Dương điện, nói: “Đó,
tỉ xem!”.
Phóng tầm mắt nhìn ra xa, xuyên qua những hàng cột khảm ngọc, chỉ thấy một nữ tử đang quỳ trước bậc thềm ngoài điện.
Vì sắc trời mờ tối, cảnh vật xung quanh đều ảm đạm, ánh lên sắc xanh
tối u ám, chỉ có nàng ta khoác một chiếc áo lông chồn trắng, giữa cảnh
trí như vậy, trắng đến nhức mắt, trắng đến trêu ngươi, trắng đến kinh
động hồn phách.
Tuy rằng khoảng cách xa xôi, dung mạo mơ hồ, nhưng chỉ dựa vào bóng
dáng khí thế áp đảo ấy, Khương Trầm Ngư đã đoán được đó chắc chắn là Hy
Hòa phu nhân.
“Tại sao phu nhân lại quỳ trước điện?”.
Chiêu Loan nhếch môi, khinh miệt nói: “Khổ nhục kế thôi. Ả bị ấm ức, muốn đòi lại công bằng”.
Khương Trầm Ngư không kìm được lại đờ đẫn, thầm nghĩ. Dưới gầm trời này lại có người dám bắt nạt người con gái này sao?
Quả thực nàng đã nghe rất nhiều, biết rất nhiều về Hy Hòa phu nhân,
nguyên nhân là vì tỉ tỉ nàng coi nữ tử này là kẻ địch lớn nhất, hận đến
xương tủy, đến cả trên dưới Khương gia đều coi Hy Hòa phu nhân là hồng
thủy mãnh thú, lúc nào cũng lo lắng, suy nghĩ làm thế nào mới có thể trừ bỏ tảng đá ngáng chân này.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn không có thời cơ hạ thủ, hiện giờ Hy Hòa
phu nhân đang được ân sủng, có khí thế “vứt bỏ ba nghìn, chỉ sủng một
người”. Thậm chí, chỉ vì phu nhân thích ngọc lưu ly, hoàng đế bèn cho
người dựng một tòa Lưu Ly cung, từ ngói đến tường, từ cửa sổ đến cửa ra
vào, còn có lan can, sàn nhà, đâu đâu cũng làm bằng lưu ly, ngũ sắc lóng lánh cực kỳ chói lòa.
Xa xỉ như thế, thối nát như thế, khiến cho quần thần bất mãn, nghị
luận không dứt, nhưng nữ tử bị bàn tán đó vẫn phô trương đắc ý, không hề giữ ý.
“Hừ, ả càn rỡ như thế, sớm muộn gì cũng có báo ứng thôi. Đến lúc nào
đó, hoàng thượng hết hứng thú với ả, không sủng ái ả nữa, hôm nay ả có
được phúc phận thế nào, thì sẽ phải trả giá thế ấy”.
Vẻ mặt cắn răng nghiến lợi khi đó của tỉ tỉ, giờ nàng vẫn còn nhớ rất rõ. Mà nay, nhìn nữ tử này đang quỳ trước thềm giữa gió rét lạnh run
như thế, không hiểu vì sao, trong lòng thầm nảy sinh một cảm giác bi ai – hoàng cung này, quả nhiên là chốn thị phi.
“Nhưng, lần này e rằng là không đòi được, quỳ cũng uổng công”. Chiêu
Loan ở bên cạnh vui vẻ trước nơi đ khổ của người khác, cũng không biết
Hy Hòa phu nhân đã đắc tội gì với nàng, mà lại khiến nàng căm ghét như
thế.
Khương Trầm Ngư quay mình nói: “Chúng ta đi thôi”.
“Ấy? Cứ thế mà đi sao? Ta còn chưa xem đã, hiếm khi yêu phi này mới
gặp xui xẻo thế…”. Chiêu Loan vừa bất mãn lầu bầu, vừa vẫn bước theo,
tiếp tục nói: “Tỉ biết không? Người mà ả đắc tội lần này chính là hoàng
hậu đấy”.
Khương Trầm Ngư kinh ngạc. Sao cơ?
Tiết hoàng hậu xuất thân cực kỳ cao quý, lại là con gái của trưởng
công chúa tiền triều, là biểu muội của đương kim thiên tử, phụ thân Tiết Hoài nửa đời chinh chiến, nam đến Giang Lý, bắc đến Yển Sơn, mở rộng
gấp đôi bản đồ của Bích quốc, tiên đế đích thân ban tặng danh hiệu “Hộ
quốc thần tướng”. Tiết hoàng hậu bản tính hiền hòa, dịu dàng khoan dung, đối với các phi tử đều hết mực khoan hòa, hơn nữa một lòng hướng Phật,
ít quan tâm đến chuyện trong hậu cung, cho nên những chuyện tranh giành
ghen tuông xưa nay không dính dáng đến nàng, sao lần này Hy Hòa phu nhân lại đắc tội với hoàng hậu được?
Không đợi nàng hỏi, Chiêu Loan đã kể cặn kẽ.
Hóa ra hoàng hậu lễ Phật quay về, không hiểu vì sao lại đối đầu với
xe của Hy Hòa phu nhân trên cầu Động Đạt, đáng nhẽ là phi tử phải nhường đường cho hoàng hậu, nhưng Hy Hòa phu nhân không nhường, hai bên cứ
giằng co như thế.
Với tính cách của hoàng hậu hẳn sẽ không gây khó khăn cho phu nhân
làm gì, nhưng vừa hay không may có đứa cháu mới lên bảy của hoàng hậu,
được mệnh danh là đệ nhất thần đồng Bích quốc – Tiết Thái ở trên xe.
Thấy cô cô chịu nhục, lạnh lùng cười, ra khỏi xe quát lớn: “Chim sẻ xấu
xa, sao dám cản phượng giá?”. Dứt lời đoạt lấy roi ngựa trong tay phu
xe, vụt thẳng một cái vào ngựa của Hy Hòa phu nhân, con ngựa bị đau lập
tức khua vó nhảy lên, kết quả Hy Hòa phu nhân cả người lẫn xe đều rơi
xuống dưới hồ…
Chiêu Loan cười khúc khích nói: “Đúng là không ngờ, yêu phi đó cũng
có ngày này! Ai da, tiểu Tiết Thái thật đáng yêu, khiến người ta yêu
chết đi được!”.
Khương Trầm Ngư không kìm được mím môi khẽ cười, phong tư của Tiết Thái, hai năm trước nàng đã từng lĩnh giáo.
Đứa trẻ đó từ khi ra đời đã chấn động đế kinh, bảy năm nay, càng lớn, sự việc chấn động càng kỳ diệu. Ba tuổi biết làm văn, bốn tuổi biết làm thơ, năm tuổi trước mặt hoàng thượng giương cung bắn hổ, sáu tuổi trở
thành sứ thần Bích quốc đi sứ Yên quốc, Yên vương nhìn mà cười: “Bích
quốc hết người hay sao mà sai trẻ con đi sứ?”. Tiết Thái đáp rằng: “Yên
là ngọc giữa các nước, ta là Bích giữa loài người, cả hai tương hợp, có
gì không thỏa đáng?”. Yên vương mừng rỡ, ban tặng cổ bích ngàn năm có
tên là “Băng Ly” cho Tiết Thái, than rằng: “Chỉ có ngọc bích thiên hạ vô song như thế này, mới xứng với thiên tài thiên hạ vô song như thế”.
Từ đó về sau, danh hiệu “Băng Ly công tử” bay xa, vang danh bốn nước.
Bây giờ, hắn lại vì hoàng hậu mà xuất đầu lộ diện, làm ngựa của Hy
Hòa phu nhân kinh sợ, hại nàng phải nhảy xuống hồ làm trò cười cho mọi
người, với tính khí của nàng, chắc chắn là sẽ không cam lòng cho qua.
“Sợ gì chứ?”. Chiêu Loan không thèm để ý, nói: “Tiểu Tiết Thái là tâm can bảo bối của thái hậu, đến hoàng huynh cũng không dám làm gì nó”.
Trong khi trò chuyện, hai người đã đến Gia Ninh cung. Đương kim thánh thượng vẫn còn rất trẻ trung, đăng cơ chưa lâu, phi tử trong hậu cung
chưa tới trăm người. Dưới hoàng hậu, có đặt ra tam phu nhân gồm quý tần, phu nhân, quý nhân lần lượt ở Đoan Trắc cung, Bảo Hoa cung và Gia Ninh
Cung. Dưới nữa lại có cửu tần, mỹ nhân và tài nhân, nhưng đại đa số đều
là hư danh, chưa được phong thực sự. Mà tỉ tỉ của nàng Khương Họa Nguyệt đã được phong làm quý nhân, sống ở nơi này.
So với Bảo Hoa cung – tòa cung điện lưu ly chấn động thế tục, Gia
Ninh cung rõ ràng đoan trang, thanh nhã hơn nhiều, trước cửa có trồng ba cây mai vàng, những cánh hoa vàng nhạt âm thầm xòe nở. Cung nữ trước
hành lang đã sớm ra nghênh đón, vừa khấu đầu vừa đón áo khoác: “Quý nhân đang nói sao vẫn chưa thấy tiểu thư tới”.
“Bệnh của tỉ tỉ có đỡ hơn không?”.
“Đỡ hơn nhiều rồi, chỉ là vẫn còn hơi yếu, ngại cử động. Mời tiểu thư mau vào”. Cung nữ vừa nói vừa vén rèm cửa, đưa hai người vào trong.
Bước vào trong phòng, thấy một nữ tử khoác chăn, đương uống thuốc trong
tay cung nữ, mi thanh mục tú, làn da trắng như mỡ đông, cực kỳ mỹ lệ.
Chiêu Loan hít hà, ngạc nhiên hỏi: “Thuốc này làm bằng gì đó? Sao thơm thế! Đưa ta nếm xem nào!”.
Khương Họa Nguyệt cười nhạt: “Công chúa lại làm bừa rồi, thuốc này sao có thể uống bừa?”.
Chiêu Loan bước tới lắc lắc tay nàng, nũng nịu nói: “Muội nói này,
bình thường quý nhân thơm thế, chắc chắn nhờ uống thứ thuốc này. Quý
nhân hẳn muốn giấu làm của riêng, không chịu san sẻ cho muội”.
Khương Họa Nguyệt dở khóc dở cười, quay đầu sang nói với muội muội: “Sao muội lại dẫn nàng hề này đến thế?”.
Khương Trầm Ngư chỉ mím môi cười, không nói gì, trong lòng lại nghĩ,
không hổ là tỉ tỉ, đến công chúa cũng thân thiết như thế, so ra thì Hy
Hòa phu nhân kia quả không biết cư xử.
Lại nghe Chiêu Loan đắc ý kể lại chuyện Hy Hòa phu nhân rơi xuống hồ
một lượt nữa, gương mặt tỉ tỉ quả nhiên tỏ ra kinh ngạc: “Hy Hòa phu
nhân đến quỳ trước điện?”.
“Hứ, bây giờ chắc vẫn còn quỳ ở đó đấy”.
Vừa nói tới đây, một nữ quan vội vã cầu kiến, khi vào trong liền cúi
xuống thì thầm mấy câu vào tai Chiêu Loan, Chiêu Loan lập tức biến sắc:
“Gì cơ? Ngươi nói thật chứ?”.
Khương Họa Nguyệt không kìm được hỏi: “Có chuyện gì thế?”.
Chiêu Loan giậm chân nói: “Hỏng rồi hỏng rồi, muội đã bảo yêu phi kia chuyện gì cũng dám làm, cứ tưởng lần này ả gặp họa, ai ngờ ả còn giấu
một chiêu, lần này gay go rồi”.
Ánh mắt Khương Họa Nguyệt và Khương Trầm Ngư giao nhau, Khương Họa
Nguyệt dịu dàng nói: “Công chúa đừng lo, trước tiên nói rõ đã, rốt cuộc
là chuyện gì?”.
“Hóa ra hôm nay Hy Hòa phu nhân lĩnh thánh chỉ xuất cung hành sự”.
Lời vừa thốt ra, không chỉ nàng, đến Khương Họa Nguyệt cũng lập tức đổi sắc mặt: “Gì cơ? Thánh chỉ?”.
“Đúng thế, hoàng huynh có ý mời Suy Ông Ngôn Duệ làm thầy, mà Ngôn
Duệ lại là sư phụ của phụ thân yêu phi khi còn sống, cho nên yêu phi đó
bèn lĩnh thánh chỉ đích thân đi sách phong, không ngờ là đụng độ hoàng
hậu trên cầu Động Đạt hơn nữa còn bị tiểu Tiết Thái một roi vung lên hất ngã xuống hồ…”.
Khương Họa Nguyệt khẽ thở dài: “Chuyện này nếu là bình thường cũng
không có gì, ngặt nỗi thánh chỉ trong tay, thay mặt cho hoàng thượng,
dám kinh động thiên uy, tức là mắc tội chết”.
“Haizz, giờ phải làm thế nào? Muội còn đang nghĩ sao ả cứ quỳ mãi
trước điện, nếu là ngày thường, hoàng huynh đã sớm đau lòng, đích thân
ra dìu ả dậy, lúc này e rằng đến hoàng huynh cũng không biết nên làm thế nào, chỉ có thể vờ như không thấy thôi. Không được, chuyện này muội
quyết không thể khoanh tay đứng nhìn, muội phải đi tìm hoàng tẩu, xem
xem rốt cuộc nên giải quyết thế nào”. Chiêu Loan vừa nói, vừa vội vàng
rời đi.
Khương Họa Nguyệt đột nhiên kéo tay muội muội, cũng đứng dậy, nói: “Đi, chúng ta đi xem sao”.
Khương Trầm Ngư cuống quýt níu nàng lại, khẽ giọng nói: “Tỉ tỉ, thị phi thế này, hay là tránh đi vẫn hơn?”.
Khương Họa Nguyệt cười nhạt, dí ngón tay vào trán nàng: “Muội hiểu gì chứ? Chính lúc thị phi thế này mới là thời cơ đó.” Lại hạ lệnh người
hầu thay áo, chải đầu đơn giản rồi cùng Khương Trầm Ngư đi đến Ân Bái
cung của hoàng hậu, chẳng ngờ đi đến nửa đường lại nghe hoàng hậu đã đến Cảnh Dương điện, bèn rẽ sang đi Cảnh Dương điện.
Vừa qua Ngọc Hoa môn là thấy một đám người đứng trước điện, hóa ra là phần lớn phi tử của các cung đều đến cả, đám cung nữ dìu hoàng hậu mặt
mày trắng bệch, Chiêu Loan đứng cạnh nàng, nhìn Hy Hòa phu nhân đang quỳ dưới đất với ánh mắt vô cùng phẫn nộ. Khương Trầm Ngư lại nhìn kỹ lần
nữa, không hề thấy Cơ quý tần tài năng đệ nhất thiên hạ đó, trong lòng
có chút thất vọng.
Chỉ nhìn thấy thái giám tổng quản La công công khom mình đứng trước
Hy Hòa phu nhân, nhẹ nhàng khuyên nhủ: ” Phu nhân, người ngọc thể ngàn
vàng, trời lạnh thế này, chẳng may nhiễm lạnh sẽ không tốt đâu, hay là
đứng dậy đi…”.
Khương Trầm Ngư cùng tỉ tỉ lặng lẽ bước tới, gương mặt Hy Hòa phu
nhân từ mơ hồ chuyển thành rõ rệt, giống như một bức họa, dần dần phác
họa đường nét, tô thêm màu sắc, cuối cùng thành cảnh tượng sắc nét, tươi đẹp.
Dùng dãy núi xa xa trong làn sương mờ ngưng tụ thành hàng mi dài,
dùng đôi cánh linh động đan vào nhau thành đôi mắt, dùng làn mưa liên
miên vẽ thành xương cốt, dùng cánh hoa còn long lanh sương sớm để tô
hồng bờ môi… cứ thế thoắt đã hiện ra trước mặt.
Phút giây trước, còn trắng tinh đơn điệu, phút giây sau, đã tươi thắm sắc màu khiến người ta hoa mắt.
Trong khoảnh khắc này, dường như có một bàn tay vô hình đang khua
khua trước mặt nàng, trần thế vẩn đục đột nhiên trong trẻo, nhân gian
đen trắng phút giây đó rực rỡ xán lạn, phong lưu ý nhị vô cùng, diễm lệ
tuyệt sắc khôn xiết, hết thảy đều vì phong thái dung mạo của người con
gái này mà bị lung lay chao đảo.
Khương Trầm Ngư toàn thân chấn động, cơ hồ không biết mình đang ở đâu.
Từ nhỏ tới lớn, từ nàng nghe nhiều nhất chính là “đẹp”. Bất cứ người
nào gặp nàng đều kinh ngạc không ngớt, thốt lên: “Con gái út của Khương
gia đúng là đẹp quá!”, “Ai da, đây là Trầm Ngư ư, cái tên này vừa cao
ngạo, lại vừa tương xứng. Một người đẹp như tranh thế này, không biết
phải tu mấy kiếp mới có được phúc phận này”.
Trước đó, Chiêu Loan còn tán tụng vẻ đẹp của nàng, khen nàng là đệ
nhất mỹ nhân của Bích quốc. Tuy khi đó nàng lập tức khiêm tốn phủ nhận,
nhưng trong lòng không khỏi có phần đắc ý.
Nhưng giờ này phút này, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy nghi dung của
Hy Hòa phu nhân như có một chậu nước lạnh tạt xuống, làm nàng lạnh toát
từ đầu đến chân.
Người con gái này, người con gái này… xinh đẹp sống động như thế, phong nhã tuyệt thế như thế, mỹ mạo bức người như thế!
Làm sao nàng có thể sánh được?
Nàng bỗng thấy tự xấu hổ.
Bên tai nghe thấy La công công nói: “Phu nhân, cơ thể người xưa nay
yếu đuối, quỳ lâu như thế, sau này mắc bệnh thì làm thế nào? Xin người
hãy thương xót lão nô đứng hầu nửa ngày nay, người mà không đứng dậy,
hoàng thượng sẽ không cho lão nô trở về đâu…”.
Sau đó, Hy Hòa cuối cùng cũng cất tiếng: “Thần thiếp kém cỏi đến
thánh chỉ cũng không giữ được, khiến thiên nhan hổ thẹn, tự thay vạn
chết khó từ, khẩn thiết xin hoàng thượng trách tội.”
Giọng nói của nàng cũng rất đặc biệt, mang theo sự cương quyết cứng
cỏi, sự mềm mại lười biếng, âm cuối mỗi từ vừa dứt khoát lại vừa níu
kéo.
“Ai da, phu nhân của tôi ơi, hoàng thượng sao nỡ trách tội người? Đến quỳ còn không nỡ bắt người quỳ, nếu không còn dặn dò lão nô ra đón
người vào làm gì? Người mau đứng đậy đi.”
“Hoàng thượng nếu không trách tội, thần thiếp sẽ không đứng dậy”. Lời lẽ hờ hững nhưng lại khiến người ta cảm thấy một sự kiên trì khó tả. Hy Hòa nhìn thẳng phía trước, nhưng lại không nhìn vào ai, khóe môi khẽ
nhếch, nhoẻn một nụ cười cố chấp uể oải tà mị vô song.
Đến đây thì La công công cũng hết cách. Thái độ này của nàng cho thấy nếu không có một kết quả thì quyết không thôi.
Nói là trách tội nàng, kỳ thực đối tượng nhằm vào chẳng phải là Tiết
Thái sao? Mà nhằm vào Tiết Thái tức là nhằm vào chính hoàng hậu?
Thế nhưng, thánh chỉ rơi xuống nước đã thực sự khiến nàng tóm được thời cơ tốt nhất.
Lại nhìn hoàng hậu, sắc mặt nàng trông càng trắng bệch, cuối cùng mỉm cười khổ não, cũng quỳ phục xuống. Nữ quan xung quanh lũ lượt kinh sợ
kêu lên, Chiêu Loan vội đưa tay ra đỡ cuống quýt nói: “Hoàng tẩu, tẩu
làm gì thế?”.
Tiết hoàng hậu nhìn Hy Hòa chằm chằm, trầm giọng nói: “Cháu ta ngang
bướng, mạo phạm thánh chỉ, là do thần thiếp quản giáo không nghiêm.
Hoàng thượng nếu có trách phạt, xin hãy trách phạt thần thiếp, Tiểu Thái còn nhỏ…”. Nói đến đây, đã gần nghẹn ngào, ba chữ “chưa biết gì”, không sao nói tiếp được nữa.
Chiêu Loan nghe thấy càng giận hơn, căm hận nhìn Hy Hòa trừng trừng,
mà Hy Hòa vẫn nhìn thẳng về phía trước, gương mặt tuyệt sắc đó đầy vẻ
châm biếm, ngay cả hoàng hậu cũng không coi ra gì.
Khương Trầm Ngư trong lòng kinh ngạc, không kìm được nghĩ, cái gì khiến nàng ta càn rỡ đến thế?
Nghe nói, Hy Hòa phu nhân xuất thân từ phố chợ, phụ thân Diệp Nhiễm
là tú tài thi trăm lần mà không đỗ, mẫu thân Phương thị bán mì kiếm ăn,
vì làm mì rất ngon, nên nức tiếng gần xa. Suy Ông Ngôn Duệ vì nghiện món mì của bà, nên đã thu nhận một học sinh học mãi không thành tài như
Diệp Nhiễm. Sau này, Diệp Nhiễm không biết vì sao đã trở thành môn khách của Kỳ Úc hầu, nhưng vẫn tầm thường vô dụng, cuối cùng tham ngủ nát
rượu, mẫu thân nàng không chịu được, đã tự vẫn mà chết. Diệp Nhiễm không những không vì thế mà ngừng phóng túng, ngược lại càng “nát” hơn, để
trả tiền rượu, còn đem bán con gái. Hy Hòa đã bị bán vào trong cung như
thế. Từ sau khi nàng vào cung, Diệp Nhiễm nốc rượu càng nhiều hơn nữa,
cuối cùng ngã xuống nước mà chết. Cứ thế đến nay, nàng đã trở thành vô
thân vô thích.
Một người con gái không có thân phận, không có chỗ dựa như thế, tuy
dựa vào dung mạo tuyệt sắc hơn người mà được sủng ái nhất thời, nhưng sự sủng ái của đấng quân vương xưa nay chẳng dài lâu, sao nàng dám càn rỡ
phóng túng, ép người quá đáng như thế? Sao không chừa lại đường lui cho
mình?
Trong con mắt của một người từ nhỏ đã được giáo dục phải nhã đức
khiêm cung, tiến lui hợp lẽ (3) như Khương Trầm Ngư, đây hẳn là một
chuyện không thể tin nổi. Lúc này, nàng nhìn nữ tử cách hơn mười bước
kia, chỉ cảm thấy trái tim đập thình thịch, kinh ngạc lạ thường.
Trong Cảnh Dương điện, vẫn trang nghiêm, im ắng không tiếng động.
Ngoài Cảnh Dương điện, mỗi người một vẻ mặt khác nhau.
Sắc trời càng lúc càng âm u, nặng nề, trong gió buốt lất phất tuyết
trắng, không biết là nữ quan nào hô lên: “A, tuyết rơi rồi!”.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên nhìn, thấy hoa tuyết lả tả bay bay.
Giữa thời tiết thế này, đến đứng còn thấy khó chịu, lạnh cóng chân
tay, chứ đừng nói là quỳ. Nhưng vị Hy Hòa phu nhân đó trên tóc đã kết
băng vụn, nói không chừng là từ dưới hồ lên đã đến thẳng đây, đến tóc
ướt còn chưa lau khô?
La công công quay người dặn dò một câu, lập tức có một tiểu thái giám cầm một chiếc ô tới, La công công xòe ô, che trên đầu Hy Hòa, van nài
nói: “Phu nhân, người nhìn xem, tuyết đã bắt đầu rơi rồi, hơn nữa trời
đã sập tối, người đã quỳ một canh giờ rồi, dù là chân sắt cũng không
chịu nổi, lão nô cầu xin người, người hãy đứng đậy đi!”.
Hy Hòa không nhúc nhích.
Bên này, Chiêu Loan cũng khuyên hoàng hậu: “Hoàng tẩu việc này căn
bản không phải là lỗi của tầu, tẩu quỳ làm gì? Khi ấy đã có thánh chỉ
trong tay, người ta sao không nói sớm? Kẻ không biết không có tội, huống hồ chiểu theo luật lệ của triều ta, phi tử phải nhường đường hoàng hậu, hoàng tẩu, tẩu và Tiết Thái đều không sai!”.
Tiết hoàng hậu cười khổ một tiếng, cũng không chịu đứng dậy.
Cứ như thế, biến thành cục diện hai bên giằng co.
Hoàng đế lại chần chừ không tỏ thái độ, nhìn sự việc không có hồi
kết, một giọng nói từ xa truyền tới: “Tiết Thái mạo phạm thánh uy, xin
tới nhận tội”.
Tất cả ngẩng đầu, chỉ thấy một đứa bé bảy tuổi điên cuồng chạy tới,
đến trước điện, lạnh lùng, khinh miệt nhìn Hy Hòa một cái, rồi quỳ phịch xuống đất, và còn qùy cạnh nàng, ngang vai với nàng.
Lúc này, tình thế càng loạn. Chiêu Loan vội vàng lên kéo hắn: “Tiểu Tiết Thái, ngươi làm gì vậy? Mau đứng dậy đi”.
Tiết Thái lắc đầu, khuôn mặt trắng trẻo hồng hào đầy vẻ kiên trì, đôi mắt đen lay láy như hạt châu nhìn về cửa điện, cao giọng nói: “Ai làm
người đó chịu. Ngựa là do thần đánh, người là do thần hại, không liên
quan đến cô cô. Cúi xin hoàng thượng niệm tình cả nhà Tiết thị không có
công lao cũng có khổ lao mà không truy cứu người xung quanh, chỉ phạt
một mình thần. Tiết Thái tạ ân!”. Dứt lời, dập đầu rất mạnh xuống đất.
Thềm đá bạch ngọc, lạnh đến thấu xương, mà đứa trẻ đó dập đầu hết lần này đến lần khác, da trán xây xước, máu từ từ chảy xuống, làm nhạt nhòa cả gương mặt tuấn mỹ thanh tú, đúng là đáng thương không tả xiết.
Tiết Thái vốn được mọi người yêu mến, nayphải chịu tội như thế, thực
khiến người ta thấy mà đau lòng, vì thế lại càng oán hận Hy Hòa hơn, tại sao một đứa trẻ như thế cũng không chịu buông tha. Còn Hy Hòa quỳ sát
bên hắn, nhìn hắn dập đầu, ánh mắt sáng lấp lánh, có vẻ rất thích thú,
cuối cùng lại nhếch môi cười nhạt như châm biếm, như vui sướng, càng
giống như không liên quan đến mình.
Tiết Thái nghe thấy tiếng cười của nàng ánh mắt đột ngột biến đổi,
quay đầu nhìn nàng với thần sắc vô cùng phức tạp, sau đó đứng dậy, chậm
rãi nói: “Tiết Thái hiểu rồi. Tiết Thái nguyện lấy cái chết để trả lại
sự thanh bạch cho gia môn”. Nói xong liền đập đầu vào lan can bên cạnh.
Tiếng thét thất thanh đột nhiên vang lên.
May là La công công bên cạnh tuy niên kỷ đã cao, nhưng thân thủ vẫn
còn nhanh nhẹn, từ phía sau ôm lấy hắn, vì thế Tiết Thái tuy đập đầu vào đá, nhưng chỉ bị ngất đi.
Sau cơn kinh hoảng, Tiết hoàng hậu hình như suýt ngất đi, đám nữ quan bên cạnh lũ lượt khuyên can. Theo lý mà nói, ầm ĩ như thế, hoàng đế sao có thể khoanh tay đứng nhìn, nhưng trong điện vẫn lặng như tờ, không có động tĩnh.
Tại sao lại như thế? Khương Trầm Ngư không khỏi có vài phần nghi hoặc.
Lúc này một cung nhân cương quyết chạy tới bậc thềm đá, cao giọng
gọi: “Khởi bẩm thánh thượng, Kỳ Úc hầu đã đến, giờ đang ở ngoài cửa
chính chờ yết kiến”.
Từ trong điện vọng ra một giọng nói: “Tuyên”. Âm thanh hoa lệ vô hạn, uyển chuyển như cát bạc chảy trên tơ lụa, đê mê hút hồn.
Tất cả lúc này mới hiểu ra, hóa ra hoàng thượng chần chừ không tỏ
thái độ là vì đợi công tử. Mà chỉ cần công tử đến, trong thiên hạ này,
không có chuyện gì là chàng không giải quyết nổi. Mọi người không kìm
được lộ vẻ vui mừng, đặc biệt là Khương Trầm Ngư, nhất thời tim đập
thình thịch, luống cuống chẳng biết làm gì.
Kỳ Úc hầu Cơ Anh.
Là em ruột của Cơ quý tần, thế tập nhất đẳng hầu(4), nghệ tinh lục
học, tài đủ chín nghề (5), thiếu niên vang danh, tiên đế ngợi khen, ban
cho phong hiệu “Kỳ Úc”.
Hai chữ “Kỳ Úc” vốn được rút ra từ phần “Vệ phong” của “Thi kinh”:
“Chiêm bỉ Kỳ Úc, lục trúc y y. Hữu phỉ quân tử, như thiết như tha, như
trác như ma” (6). Mà người đời đều cho rằng, hai chữ này vô cùng phù hợp với công tử.
Khương Trầm Ngư đã từng nhìn chàng từ xa trong buổi tiệc mừng thọ của phụ thân, từ đó về sau, khó mà quên được. Lúc này vừa nghe thấy chàng
đến, nàng vừa xấu hổ vừa mong ngóng, chăm chú nhìn ra, chỉ thấy một nam
tử toàn thân áo trắng cùng với cung nhân đã tới phía ngoài Ngọc Hoa môn.
Tất cả mọi thứ xung quanh đột nhiên mờ nhạt đi, không còn tồn tại.
Chỉ còn lại người đó, dần dần, từng bước từng bước, cực kỳ ung dung,
giống như từ đầu bên kia của số mệnh, như ánh sáng trên mặt nước, nhẹ
nhàng lướt t ới .
Không có ngôn ngữ nào có thể miêu tả được phong thái say đắm người
của chàng dù chỉ một phần vạn, không có từ ngữ nào có thể hình dung được khí độ siêu phàm của chàng dù chỉ một mảy may… Nếu như ngươi từng nhìn
thấy cảnh tượng ánh trăng chảy tràn vạn dặm trên thảo nguyên mênh mông,
ngươi hẳn sẽ nhớ tới mái tóc đen dài thả xuống đến thắt lưng, sáng bóng
như gương soi của chàng; nếu ngươi nhìn thấy cảnh tượng tuyết trắng phau phau liên miên vô bờ trên đỉnh núi tĩnh mịch im ắng, ngươi hẳn sẽ nhớ
đến chiếc áo bào trắng muốt, nhẹ như đôi cánh, không nhuốm bụi trần của
chàng.
Đen như mực, trắng như ngọc, ngoài ra, không có bất cứ màu sắc nào khác.
Đơn giản như thế, thanh nhã như thế, nhưng lại kinh động tâm hồn như thế.
Công tử Cơ Anh.
Là chàng, đúng là chàng, lại được gặp chàng rồi… Tay của Khương Trầm
Ngư dần dần nắm chặt trong ống tay áo. Mới ngày hôm qua, mẫu thân còn
cười nói: “Trầm Ngư nhà ta nhân phẩm tướng mạo thế nay, thiên hạ ngày
nay, nghĩ đi nghĩ lại cũng chỉ có công tử Anh của Cơ gia mới xứng với
con. Khương gia chúng ta và hai tộc Tiết, Cơ là ba đại thế gia của Bích
quốc, đúng là môn đăng hộ đối. Trầm Ngư, ý con thế nào?”.
Khi đó tẩu tẩu cũng đứng bên cạnh, nói xen vào: “Kỳ Úc hầu đó là nhân vật phong lưu thế nào, đám con gái đương thì ở đế đô, có ai là không
nhìn chàng ta hau háu, Trầm Ngư à, đây đúng là hôn sự tốt, chỉ cần muội
gật đầu, chúng ta sẽ lập tức cầu thân. Phải nhân lúc còn sớm, nếu không
đợi mấy năm nữa, Chiêu Loan công chúa lớn rồi, sợ rằng sẽ chẳng đến lượt muội đâu”.
Mà nay, nàng nhìn nam tử rất có khả năng trở thành quân của mình, chỉ cảm thấy trái tim mình giống như phẩm màu trong nước, cứ tan dần tan
dần…
Cơ Anh bước lên bậc thang, lướt qua Hy Hòa, theo cung nhân vào trong
Cảnh Dương điện. Hy Hòa vẫn một mực cúi đầu cho đến khi cửa điện khép
lại mới ngẩng đầu lên, đồng tử đen láy như đá quý, từ nhạt chuyển sang
đậm, vẻ mặt không rõ là vui hay buồn, vì quá phức tạp nên không nhận ra
nổi.
Cơ Anh vào trong khoảng chừng một tuần trà, La công công ra ngoài truyền gọi: “Hoàng thượng tuyên hoàng hậu tấn kiến”.
Tiết hoàng hậu nhìn Hy Hòa một cái, vô cùng thấp thỏm đứng dậy bước
vào trong. Vào đến trong điện, chỉ thấy thái y đang đắp thuốc cho Tiết
Thái, hoàng đế và Cơ Anh đều đứng bên cạnh im lặng quan sát. Tiết hoàng
hậu vội vàng quỳ sụp, nói: “Thần thiếp không biết dạy cháu, xin hoàng
thượng thứ tội”.
Hoàng đế quay người lại, mỉm cười nói: “Đứng dậy đi”.
Ánh đèn sáng rạng hắt lên mặt hoàng đế, Chiêu Doãn – quốc chủ hiện
tại của Bích quốc là một thiếu niên cực kỳ anh tuấn, mày mắt cong cong,
thần sắc luôn nửa cười nửa không.
Nhưng Tiết hoàng hậu trong lòng rất rõ, tươi cười chẳng qua chỉ là
giả vờ, vị quân vương thiếu niên này nổi tiếng là thủ đoạn độc ác.
Nàng lo lắng thấp thỏm tiến đến trước giường, hỏi gấp: “Thái y, vết thương của cháu ta có nghiêm trọng không?”.
Thái y đã xem mạch cho Tiết Thái xong, quay người lại hành lễ nói:
“Bẩm hoàng thượng hoàng hậu, vết thương của Thiết công tử không có gì
đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi một thời gian là có thể hồi phục, có
điều…”.
“Có điều làm sao?”.
“Có điều vết thương trên trán công tử, e rằng sẽ để lại sẹo”.
Tiết hoàng hậu run rẩy, lại nhìn Tiết Thái đang hôn mê, trong lòng
vừa chua xót vừa áy náy. Đứa cháu này của nàng từ nhỏ đã là viên minh
châu được cả nhà nâng niu, không chỉ thông tuệ, tướng mạo còn rất xuất
chúng, nay lại bị phá tướng, tuy chỉ là sẹo trên trán, nhưng vẫn là có
tì vết.
Đương lúc sầu não đau lòng, cảm nhận được một ánh nhìn, nàng ngẩng
đầu lên, chỉ thấy Cơ Anh mỉm cười với nàng: “Nam nhi đại trượng phu, một vết sẹo nhỏ có đáng gì, hoàng hậu chớ nên lo lắng”.
Tiết hoàng hậu nhìn chàng cảm kích, lại chuyển ánh mắt sang Chiêu
Doãn, thần sắc của Chiêu Doãn lãnh đạm, vẫn không thể hiện rõ thái độ.
Nàng quỳ xuống, giọng nói đầy vẻ bi thương: “Hoàng thượng tiểu Thái tuổi nhỏ chưa biết gì mạo phạm Hy Hòa phu nhân…”, nàng nói đến đây, Chiêu
Doãn lập tức giơ tay lên, ngăn nàng nói tiếp.
Tiết hoàng hậu nghĩ thầm: Xong rồi, kiếp nạn này khó mà tránh khỏi.
Lúc đó, một thái giám dung mạo thanh tú lặng lẽ từ điện phụ khom lưng bước tới, Tiết hoàng hậu nhận ra, đó là tâm phúc của Chiêu Doãn – Điền
Cửu, chỉ thấy sau khi vào, hắn quỳ xuống, hô một tiếng: “Hoàng thượng”.
Chiêu Doãn lập tức quay người lại nói: “Thế nào? Đem đến chưa?”.
“Đem đến rồi”. Điền Cửu vừa nói, vừa lấy một chiếc hộp dài từ trong lòng ra, cung kính trình lên hoàng đế.
Chiêu Doãn mở hộp ra, lông mày cong cong, quay sang Cơ Anh đứng bên
cạnh cười nói: “Kỳ Úc quả nhiên có kế hay, như vậy thì có thể giải quyết được việc này rồi”. Nói rồi quay lại đưa chiếc hộp cho Tiết hoàng hậu.
Tiết hoàng hậu lòng đầy ngờ vực đón lấy, chỉ thấy bên trong có một
cuộn lụa vàng, mở ra xem, thứ đầu tiên đập vào mắt là bốn chữ “Tăng Nhất A Hàm”, nét chữ uốn lượn, tư tại phong lưu, đúng là ngự bút mà tiên đế
đích thân viết.
Chiêu Doãn thong thả hỏi: “Hoàng hậu có biết vật này không?”.
Tiết hoàng hậu ngần ngừ một lát, đáp: “Chắc là… ‘Tăng Nhất A Hàm Kinh(7)
mà tiên đế đích thân chép lại?”.
“Không sai. Hoàng hậu có biết nguồn gốc của nó không?”.
“Nghe nói… Vân thái hậu của tiền triều bệnh nặng, tiên đế để tỏ lòng
hiếu thuận, đã đích thân chép lại ‘Tăng Nhất A Hàm Kinh’ đề cầu thọ cho
thái hậu. Sau đó vật này luôn được thờ trong Định Quốc tự, được coi là
tấm gương đức hiếu cho thiên hạ”.
Chiêu Doãn gật đầu, trong ánh mắt lóe lên một tình cảm khó nói thành
lời, khiến y trông càng khó nắm bắt hơn: “Hoàng hậu và Tiết Thái hôm nay chẳng phải từ Định Quốc tự về sao?”.
Tiết hoàng hậu choáng váng, chợt bừng tỉnh, kinh ngạc nói: “Ý của hoàng thượng là?”.
Chiêu Doãn nhìn sang chỗ khác, chăm chú vào linh thú Tư Thần(8) bằng
đồng bên cạnh thư án, mỉm cười không nói. Thấy dáng vẻ đó của y, Tiết
hoàng hậu biết rằng mình đã đoán đúng – không ngờ hoàng để lại chịu giúp nàng!
Nghe nói mấy ngày nay thái hậu phượng thể bất an, nếu nàng tự xưng là vì thái hậu mà mang ngự quyển đó từ Định Quốc tự vệ, thì sự tình ngày
hôm nay sẽ khác hẳn.
Nàng là chính thất, lại có ngự quyển của tiên đế trong tay, Hy Hòa dù có thánh chỉ trên người, cũng phải cung kính tránh đường. Như vậy, Tiết Thái khiến Hy Hòa phu nhân cùng thánh chỉ rơi xuống hồ sẽ là chuyện to
hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không có… Tiết hoàng hậu trong lòng chấn động,
một mặt tất nhiên là vui mừng vì đại họa tiêu tan, một mặt lại kinh ngạc vì sự bảo vệ ngoài tưởng tượng lần này của hoàng đế.
Chiêu Doãn, phu quân của nàng, mười bốn tuổi nàng đã được gả cho y,
đến nay đã sáu năm. Y đối với nàng xưa nay luôn nghi lễ có thừa, tình
cảm thiếu thốn, đúng là “kính nhau như khách”. Năm năm trước, y bị tuyệt thế tài hoa của Cơ Hốt làm cho điên đảo, ba năm trước y ân sủng Khương
Họa Nguyệt dịu dàng lay động lòng người, đến nay, y lại coi Hy Hòa dung
mạo tuyệt thế như viên minh châu, thiên hạ ai ai cũng biết.
Thế nhưng, trong chuyện ngày hôm nay, y lại chọn bảo vệ nàng… Lúc này, cảm xúc đan xen, có chút ngọt ngào, lại có chút chua xót.
Nàng lập tức cúi mình quỳ xuống, cảm kích nói: “Thần thiếp cảm tạ long ân của hoàng thượng!”.
Ánh mắt Chiêu Doãn vẫn dừng lại trên con linh thú bằng đồng, chậm rãi nói: “Hoàng hậu, chuyện ngày hôm nay dừng ở đây hoàng hậu là quốc mẫu,
nên lấy sự êm ấm của hậu cung làm trọng, trẫm hy vọng về sau sẽ không
xuất hiện bất cứ chuyện gì liên quan đến việc này nữa”.
Tiết hoàng hậu hiểu là y cảnh cáo nàng không được vì chuyện này mà
ghim hận Hy Hòa trong lòng, đợi thời cơ báo thù, xem ra, hoàng thượng
tuy bề ngoài là giúp nàng, nhưng trong lòng lại nghiêng về phía Hy Hòa.
Mấy gợn sóng khó khăn lắm mới lăn tăn trong lòng, cũng theo câu nói này
mà lặng xuống, nàng cụp hàng mi, cố gắng giữ cho giọng nói thật bình
thản: “Vâng, thần thiếp xin ghi nhớ”.
“Tốt lắm”. Cuối cùng Chiêu Doãn quay đầu lại, liếc sang thái giám bên cạnh nói: “La Hoành! tuyên chỉ đi”.
Thánh chỉ đó ắt hẳn đã viết xong trước khi nàng vào điện, La công
công nghe mệnh lệnh, vội mở cửa điện ra, đi tới trước mặt Hy Hòa trước
ánh mắt hiếu kỳ của mọi người, mở cuộn thánh chỉ bằng lụa vàng ra, dõng
dạc tuyên đọc: “Năm Đồ Bích thứ tư, ngày mười bảy Ất Hợi(9) tháng Hai Kỷ Mùi năm Tân Mão, hoàng đế chiếu viết: “Ô hô! Cái lễ Nội tắc , hòa thuận nhân luân, cái nghĩa thê thất, để chính gia đạo. Ôi người con thứ bảy
của Trường thu phủ, Trung lang tướng (10) Tiết Túc, hiếu thuận thân
thiện, thông đạt đa tài, giỏi về nhạc, từ, ngôn hành lễ độ. Phụng ý chỉ
của thái hậu để tu pháp độ, tôn thịnh vượng của triều ta, rạng công lao
của tiên đế. Nay tuy kinh động nhầm thánh ý, mạo phạm thiên uy. Chữ hiếu làm đầu, không cần truy cứu. Còn Hy Hòa phu nhân, đối nội dịu dàng nhã
nhặn, đối ngoại hiền thục tốt đẹp, ban hiệu Vĩnh Lạc, thưởng mười chuỗi
minh châu, trăm súc tơ lụa, ngàn lượng hoàng kim, để ghi danh thơm. Khâm thử!”.
Bốn cánh cửa lớn của đại điện mở rộng, Hy Hòa đang quỳ bên ngoài và
Tiết hoàng hậu quỳ trong cửa, cùng ngẩng đầu lên, ánh mắt đối nhau.
Trong mắt của Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh, chỉ cảm thấy cảnh tượng
này thật kỳ lạ, giống như một kiếp phù sinh lặng lẽ trôi qua giữa ánh
nhìn của hai nữ tử đó.
Gương mặt Hy Hòa vẫn mang nụ cười nhàn nhạt như trước, trong nụ cười
lại thấp thoáng sự mệt mỏi, khiến người ta hoàn toàn không đoán được rốt cuộc nàng đang nghĩ gì trong lòng.
La công công đến trước mặt nàng, nhắc nhở: “Phu nhân vẫn còn chưa tạ ân?”.
Lúc này Hy Hòa mới thu lại ánh mắt dán trên mặt Tiết hoàng hậu, toàn
thân rung động như một người vừa mới tỉnh giấc mộng, sau đó khẽ nhếch
khóe môi, cười vô cùng yểu điệu: “Tạ long ân của hoàng thượng, vạn tuế
vạn tuế vạn vạn tuế”.
Khương Trầm Ngư khẽ thở phào, việc này có thể coi như đã giải quyết
xong. Lại nhìn vào trong điện, thấy Cơ Anh đứng bên cạnh long án của
hoàng đế, vẻ mặt tuy bình thản, nhưng ánh mắt hoàng thượng nhìn chàng
lại đầy vẻ tán thưởng, xem ra… cách này là do chàng nghĩ ra chăng? Cũng
chỉ có công tử mới dùng một cách đơn giản mà thiết thực, hiệu quả như
thế để xử lý sự tình.
Hy Hòa được đám cung nhân dìu, lảo đảo đứng dậy, nhưng vì quỳ quá
lâu, đứng lên được nửa chừng, lại ngã xuống. Thái y cuống quýt rảo bước
chạy ra, La công công sai người khiêng tới một chiếc kiệu êm, khiêng Hy
Hòa về Bảo Hoa cung, sau khi một đám ngưới lũ lượt rời đi, phía trước
Cảnh Dương điện yên tĩnh trở lại.
Khương Trầm Ngư đang chờ để theo tỉ tỉ hồi cung, đột nhiên thấy Cơ
Anh từ trong điện đi ra, ánh mắt hai người vô tình gặp nhau, Khương Trầm Ngư nhất thời tim nhảy loạn nhịp, cơ hồ đến hít thở cũng ngưng lại.
Nhưng, ánh mắt của Cơ Anh không hề dừng lại trên gương mặt nàng mà quét qua rất nhanh, vội vã rời đi.
Gió muộn lạnh lẽo thổi bay vạt trường bào của chàng, cung đăng kéo
dài chiếc bóng của chàng trên mặt đất, thế giới tĩnh lặng, ánh sáng lướt qua bóng đêm.
Khương Trầm Ngư ngơ ngẩn nhìn theo bóng chàng, cho đến khi Khương Họa Nguyệt đẩy mạnh nàng một cái, cười nói: “Còn nhìn ư? Người đi mất tăm
rồi”.
Khương Trầm Ngư đỏ bừng mặt, đang định giải thích, Khương Họa Nguyệt đã kéo tay nàng nói: “Chúng ta về thôi”.
Về đến Gia Ninh cung, Khương Họa Nguyệt cho kẻ dưới lui xuống, buông
tay nàng ra, vẻ mặt trở nên vô cùng phức tạp, cuối cùng mới thở dài một
cái.
“Tỉ tỉ?”.
Khương Họa Nguyệt cúi đầu nói: “Không ngờ Kỳ Úc hầu lại là nhân vật
như thế… Ha ha, giải quyết việc này đơn giản như vậy, ý chỉ của thái
hậu, đúng là chỉ y mới nghĩ ra!”.
Khương Trầm Ngư cúi đầu cười nói: “Thế chẳng phải rất tốt sao? Binh không mất một quân mà hóa giải được can qua…”.
Khương Họa Nguyệt lườm nàng một cái: “Muội thì hay rồi, chỉ cần nhìn thấy Cơ Anh thì có gì là không tốt nữa?”.
“Tỉ tỉ…”.
“Làm tỉ mừng hụt, vốn tưởng lần này Hy Hòa đấu với hoàng hậu có thể
lưỡng bại câu thương cơ, ai ngờ nửa đường lại nhảy ra Cơ Anh, hoàng
thượng đợi trong thư phòng lâu như thế, quả nhiên là chờ y đến dập lửa.
Lần này Hy Hòa có thể coi là bại trong tay y!”.
Khương Trầm Ngư trầm ngâm nói: “Hy Hòa phu nhân sở dĩ có thể hung
hăng ép người như thế, chẳng qua là vì tóm được chuyện thánh chỉ rơi
xuống nước, nhưng khi đó trên người Tiết Thái cũng mang ngự quyển của
tiên đế, chữ hiếu lớn ngang trời, cho dù là thánh chỉ của hoàng thượng,
trước mặt ngự quyển của tiên đế, cũng không thể không nhường. Chiêu này
tuy đơn giản, nhưng lại vô cùng tuyệt diệu”.
“Cái gì mà trên người có ngự quyển của tiên đế? Rõ ràng là bây giờ
mới đến Định Quốc tự đem về”. Khương Họa Nguyệt hừ mũi, bỗng như nhớ ra
điều gì, lại cười khanh khách.
“Tỉ tỉ lại cười gì?”.
“Ta cười Hy Hòa tính toán đủ điều, uổng công quỳ lâu đến thế”. Khương Họa Nguyệt vừa nói vừa thả tóc, ngồi xuống trước bàn trang điểm, bắt
đầu tháo trang sức, “Đúng là đáng tiếc, đây vốn là thời cơ tốt nhất để
lật đổ hoàng hậu, tiếc là lại uổng phí thế… Trầm Ngư, muội có biết hôm
nay Hy Hòa thua ở nước nào không?”.
Khương Trầm Ngư chần chừ đáp: “Bởi vì… công tử nhúng tay?”.
Khương Hạ Nguyệt trừng mắt lườm nàng: “Muội ấy, thấy Kỳ Úc hầu là xiêu hồn lạc phách, trong đầu chỉ có công tử của muội ấy!”.
Khương Trầm Ngư thẹn thùng đỏ mặt, Khương Họa Nguyệt nhìn thấy bộ
dạng này của nàng, đành cười lắc đầu than: “Được rồi được rồi, cứ coi là vì thế đi, có điều, điều này cũng vừa hay cho thấy một điểm quan trọng
nhất – Hy Hòa tuy được sủng ái, nhưng ngoài hoàng ân ra thì không có gì
khác”.
Khương Trầm Ngư trong lòng chấn động, hiểu ra ý ở ngoài lời.
“Việc ngày hôm nay nếu đổi lại là tỉ, tỉ sẽ không cần tự mình đến quỳ trước điện, chỉ cần nhờ phụ thân liên minh với các đại thần trong triều cùng dâng sớ, trách hoàng hậu dạy cháu không nghiêm, dung túng cho cháu làm bừa, dẫn đến thánh chỉ rơi xuống nước, xúc phạm thiên uy. Đến lúc
đó, hết tấu sớ này đến tấu sớ khác được dâng lên, cho dù có ngự quyển
của tiên đế thì đã sao nào? Cũng không thể giữ được Tiết gia. Cho nên…”. Khương Họa Nguyệt vừa thong thả chải mái tóc dài, vừa đắc ý nói, “Có
khuynh quốc khuynh thành hơn nữa, có sủng ái một người giữa ba ngàn cung tần đi nữa thì đã sao? Không có nền tảng gia tộc và thế lực trong triều chống lưng phía sau, thì trong chốn hoàng cung địa ngục này, sức lực
một người sao có thể làm được gì?”.
Khương Trầm Ngư cúi đầu không tiếp lời.
“Trước đây tỉ còn quá đề cao ả ta, coi ả ta là kẻ địch, đến giờ nhìn
lại, cũng chẳng qua chỉ là như thế. Khi sự việc liên can tới Tiết gia,
đến hoàng thượng cũng chỉ nghĩ làm thế nào để bảo vệ họ Tiết, mà không
phải là làm thế nào đòi lại công bằng cho yêu phi. Cho nên mới nói, cá
chạch mãi chỉ là cá chạch, vùng vẫy thế nào đi nữa cũng không thể ra
khỏi ao đầm…”.
Khương Trầm Ngư đột nhiên đứng dậy, nói: “Tỉ tỉ, muội phải về rồi”.
Khương Họa Nguyệt sững người, tức thời hiểu ra, trong ánh mắt lóe lên một tia mỉa mai, cười nói: “Tỉ biết muội cảm thấy những chuyện ghen
tuông tranh giành này thực buồn nôn, không muốn nghe. Nhưng muội nghĩ
xem, tỉ tỉ đáng thương của muội mỗi ngày đều sống như vậy trong cung,
không biết chừng ngày nào đó, kẻ bị tính sổ chính là tỉ. Bỏ đi, bỏ đi,
cảm giác này, người ngoài sao có thể hiểu được? Tỉ cũng chỉ là nhất thời bực tức mà thôi, muội không muốn nghe, tỉ không nói nữa là được”.
Bị nàng nói như vậy, Khương Trầm Ngư không khỏi hổ thẹn, bước lên
phía trước nắm lấy tay nàng nói: “Tỉ tỉ, muội không phải không muốn
nghe, chỉ là…”.
“Tỉ hiểu rồi, đừng nói nữa”. Khương Họa Nguyệt nhìn bản thân trong
gương đồng, mày mi vẫn mềm mại, dịu dàng như vẽ nhưng đôi mắt đã không
còn vẻ trong sáng, đâu còn điểm nào của Khương đại tiểu thư trong khuê
các không màng thế sự lúc ban đầu? Lại nhìn muội muội phía sau lưng, chỉ kém nàng có ba tuổi, nhưng rõ ràng là hai mẫu người khác nhau. Nàng đã
kinh qua gió sương mà tiều tụy, còn muội muội vẫn được gia tộc che chở,
giống như hoa tươi thuần khiết ban sớm. Nghĩ đến đây, không khỏi cảm
khái: “Nghĩ lại, người tốt số nhất nhà ta chính là muội, không chỉ cha
mẹ yêu chiều như bảo bối, hơn nữa nghe nói còn sắp xếp hôn sự cho muội
với Kỳ Úc hầu?”.
Khương Trầm Ngư cắn môi, mãi sau mới nhẹ nhàng gật đầu.
“Tốt quá, muội chẳng phải ngưỡng mộ y đã lâu sao? Bây giờ cuối cùng đã được thỏa nguyện”.
“Chuyện này vẫn chưa thành mà…”.
“Sao có thể không thành? Đế đô hiện nay, cũng chỉ có muội mới xứng
với con người tựa tiên nhân đó”. Khương Họa Nguyệt cười nhạt, “Bản lĩnh
của y, hôm nay muội cũng thấy rồi chứ? Hoàng thượng cực kỳ coi trọng y,
không chỉ đại sự trong triều, bây giờ đến chuyện trong nội cung cũng bắt đầu nghe lời y. Một khi hai nhà Cơ, Khương liên hôn, thì sẽ không sợ
Tiết gia nữa. Xem kìa, sao muội lại chau mày thế, vừa nghe đến chuyện
tranh quyền đoạt thế là muội lại chán ghét, muội muội ngốc này, phu quân mà muội được gả không phải bình dân bách tính mà là trọng thần đương
triều, muội sao có thể thoát khỏi chốn thị phi?”.
Trong lòng Khương Trầm Ngư biết rõ lời tỉ tỉ nói là sự thực, chính vì như thế, nàng lại càng cảm thấy bi ai hơn. Nàng đối với Cơ Anh đúng là
chân thành ngưỡng mộ, nhưng đối với gia tộc mà nói, lợi ích của việc
liên hôn càng quan trọng hơn. Thế gian này, quả nhiên hễ dính đến vinh
hoa phú quý thì không thể thuần khiết được nữa.
Khương Họa Nguyệt lấy một chiếc trâm ngọc từ trong hộp nữ trang ra,
trên đầu trâm nạm một viên minh châu to bằng quả nhãn, phát ra ánh sáng
lấp lánh.
“Đây là viên minh châu tuyệt thế mà sứ thần Nghi quốc tiến cống, trên đời chỉ có một đôi. Hoàng thượng sai thưởng cho tỉ và Hy Hòa, mỗi người một viên.
Viên này tên là ‘Trường Tương Thủ’ còn viên của nàng ta tên là ‘Vật
Tương Vong’ (11) . Tỉ mời thợ khéo đến chế tác nó thành chiếc trâm, bây
giờ tặng lại cho muội, làm quà chúc mừng hôn lễ”.
Khương Trầm Ngư vội vàng quỳ xuống tạ ơn, cung kính đón lấy, trâm
ngọc trong lòng bàn tay tỏa ánh sáng khiến làn da biến thành màu xanh
nhàn nhạt.
Khương Họa Nguyệt chăm chú nhìn chiếc trâm đó, ánh mắt dịu dàng lại
đầy vẻ tang thương: “Cầu cho muội sẽ thực sự được như cái tên đó, cùng
với lang quân trọn đời bên nhau, ân ái bạc đầu”.
Trường Tương Thủ… sao? Đúng là một cái tên hay.
Khương Trầm Ngư nâng chiếc trâm đó lên, trong lòng trăm ngàn cảm xúc
đan xen. Nhưng, nàng và Khương Họa Nguyệt lúc này lại không ngờ rằng,
chính vì đôi minh châu này, vận mệnh của hai người cùng Hy Hòa, và tất
cả những người có liên quan đến sự việc ngày hôm nay đều quấn lấy nhau.
Gọi là “Trường Tương Thủ”, vừa hay chia ly.
Gọi là “Vật Tương Vong”, nhưng lại tiêu tan.
Một mối bi hoan xưa khó vẹn toàn, thế sự chưa từng được như ý.
Ngày hôm nay, khi Khương Trầm Ngư đang chải đầu, a hoàn thân cận Ác
Du vui vẻ chạy vào nói: “Chúc mừng tiểu thư! Chúc mừng tiểu thư!”.
Hoài Cẩn đang giúp nàng chải đầu hứ một tiếng: “Gì mà mừng rỡ thế, đến mức mới sáng sớm ra đã kêu om sòm vậy?”.
Ác Du cười hì hì, nháy mắt nói: “Đúng là đại hỷ mà, phu nhân mời
Hoàng Kim Bà khéo mồm nhất kinh thành, n1hờ bà ấy đến chỗ Kỳ Úc hầu làm
mối cho tiểu thư, bây giờ đang viết canh thiếp( 12) ở trong sảnh trước
đó”.
Khương Trầm Ngư vừa thẹn thùng vừa vui mừng, bỗng chốc mặt đỏ bừng bừng.
Ác Du nắm tay nàng, nói: “Tiểu thư, chúng ta đi xem đi!”.
Hoài Cẩn nhíu mày: “Bây giờ sao tiểu thư có thể xuất đầu lộ diện?”.
“Muội đâu có nói phải vào trong xem, chúng ta đứng ở bên ngoài nhìn
lén một cái thôi mà, tiểu thư, nghe nói Hoàng Kim Bà khéo ăn khéo nói,
mặt rỗ nói thành tiên nữ, chết cũng có thể nói thành sống, tiểu thư
không tò mò sao?”.
Khương Trầm Ngư tuy cảm thấy không thỏa, nhưng rốt cuộc không thắng
nổi sự tò mò, lập tức thay áo theo Ác Du đi về sảnh trước. Nàng đi vào
từ cửa ngách, cách một tấm bình phong, thấy mẫu thân và một phụ nữ chạc
tứ tuần đang ngồi uống trà, không cần nói, người phụ nữ đó chắc chắn là
Hoàng Kim Bà danh tiếng lừng lẫy!
Người phụ nữ mi dài, trán rộng, cằm nhọn, tướng mạo ghê gớm, lúc này
trong tay đang mở một tấm thiếp ra, đọc một hồi rồi nói: “Tốt. Cái tên
này, niên canh này, bát tự này của tam tiểu thư, thực sự là tướng đại
phú đại quý! Hầu gia rõ ràng chẳng có lý gì mà từ chối cả! Bát tự(13)
đẹp, bát tự đẹp lắm!”.
Ác Du ghé đầu lại, khẽ gọi: “Tiểu thư, bà ấy nói bát tự của tiểu thư đẹp!”
Khương Trầm Ngư cười nhạt một tiếng, thầm nghĩ một bà mối thì sao
hiểu được bát tự mệnh lý, rõ ràng là chọn những điều gia chủ thích nghe
để nói thôi.
Khương phu nhân nói: “Tất cả đều nhờ bà”.
Hoàng Kim Bà xua xua tay, nói: “Phu nhân đâu cần nói thế tam tiểu thư của quý phủ là mỹ nhân nổi tiếng của Bích quốc ta, không chỉ người đẹp
tài cao, tính tình tốt đẹp, có thể mai mối cho một cô nương như thế này, đúng là vận may của Hoàng Kim Bà tôi! Lại nói Kỳ Úc hầu kia là nhân vật thế nào, nếu như tôi có thể se được mối duyên lành trời đất sắp đặt
này, đúng là ơn trời ơn Phật, không biết khiến cho bao đồng nghiệp phải
ghen tị. Phu nhân, xin người cứ an tâm, bà già tôi dám vỗ ngực nói,
chuyện hôn sự này, chắc chắn sẽ thành! Đến lúc đó, xin phu nhân thưởng
cho tôi một ly rượu hỷ!”.
Khương phu nhân nghe những lời này quả nhiên thích chí, vừa cười vừa
thưởng bạc. Hoàng Kim Bà cũng không nhiều lời, đứng dậy nói: “Việc không nên chậm trễ, tôi phải đến phủ hầu gia đưa canh thiếp, ba ngày sau lại
lấy canh thiếp của hầu gia mang về”.
Khương phu nhân tiễn ra đến ngoài cửa sảnh, lúc này mới quay đầu lại nhìn bức bình phong, cười nói: “Ra đi”.
Khương Trầm Ngư biết mẫu thân đã biết mình nấp phía sau, đành bước ra ngoài, nhưng thấy ánh mắt mẫu thân nhìn mình đầy vẻ vui mừng, nàng liền thấy mất tự nhiên, vội vàng cúi đầu xuống.
Khương phu nhân kéo tay nàng cùng ngồi xuống, nói: “Tính toán xong hôn sự của con, ta cũng an tâm”.
“Mẫu thân vất vả rồi”.
Khương phu nhân vén mấy sợi tóc mai bên tai nàng ra phía sau, xúc
động nói: “Đúng là chớp mắt một cái, con gái nhỏ của ta đã lớn thế này,
đến tuổi xuất giá rồi. Trong ba đứa con của ta, ca ca của con Hiếu Thành tuy là nam tử, nhưng từ nhỏ đã không giỏi giang, văn dốt võ dát, tuy
nhờ phúc của cha con mà trở thành Vũ lâm quân kỵ đô úy, đời này e rằng
cũng chỉ sống như vậy thôi; tỉ tỉ Họa Nguyệt của con tuy khôn khéo,
nhưng tính hiếu thắng khó tránh khỏi sắc sảo chua ngoa; còn con, người
xinh đẹp, tính nết na, đối nhân xử thế có chừng mực nhất, nhưng lại quá
lương thiện, ta thực sự lo con sau này bị thua thiệt, cho nên, nghĩ đi
nghĩ lại, trong đám vương tôn công tử trong triều, người có thể che chở
con cả đời phú quý lại đối đãi khoan hậu, cũng chỉ có Kỳ Úc hầu thôi”.
“Mẫu thân…”, Khương Trầm Ngư cầm tay mẫu thân, chỉ cảm thấy trong
lòng ấm áp, đương lúc cảm động, một gia bộc vội vã đến báo: “Tam tiểu
thư, có khách tới thăm”.
Nàng có khách sao? Ai đến thăm nàng vào lúc này nhỉ?
Khương phu nhân đứng dậy, nói: “Con mời khách vào đây đi. Ta về phòng trước, Trầm Ngư con nhớ phải tiếp đãi người ta chu đáo, đừng để chậm
trễ”.
Khương Trầm Ngư tiễn mẫu thân, lại thấy một thiếu niên áo xanh theo
sau gia bộc bước vào trong đại sảnh, ánh nắng ngày đông chiếu trên gương mặt người đó, nàng không kìm được “a” một tiếng.
“Tiểu sinh Loan Triệu, tham kiến Khương tiểu tỉ”. Đôi mắt thiếu niên
đảo không ngừng, tươi cười bước lên nắm tay nàng, cử chỉ thật bộp chộp.
Khương Trầm Ngư vội vàng đuổi hết người hầu ra, thấp giọng nói: “Công chúa, sao nàng lại đến đây?”.
Hóa ra, thiếu niên đầu đội mũ quả dưa, thân hình gầy gò này không
phải ai khác mà chính là Chiêu Loan công chúa nữ cải nam trang.
Chiêu Loan làu bàu đáp: “Trong cung chán chết đi, nên ta mới xuất
cung đi chơi, chẳng ngờ đi vội quá, đến một xu cũng chẳng đem theo, vừa
hay ngang qua hữu tướng phủ, liền chạy đến tìm tỉ xin giúp đỡ”.
Khương Trầm Ngư giật thót mình: “Công chúa lén xuất cung?”.
“Cứ cho là thế đi nhưng mà, trước đây ta cũng xuất cung đi chơi rồi,
hoàng huynh biết nhưng mắt nhắm mắt mở vờ không biết thôi. Chỉ cần không đến tai thái hậu thì thế nào cũng dễ nói”. Chiêu Loan vừa nói, vừa lắc
lắc tay nàng. “Tỉ tỉ tốt cho ta mượn tiền đi, lúc về ta sẽ trả tỉ”.
Khương Trầm Ngư nghĩ, công chúa bướng bỉnh này đã tìm đến cửa, lại
nghĩ bản thân không có cách nào khác, bây giờ chỉ có một cách vừa cầm
chân nàng, vừa sai người vào trong cung báo tin, để hoàng thượng định
đoạt. Thế nên nói: “Bên ngoài người đông việc nhiều, có gì hay chứ? Công chúa đã đến đây, chi bằng ở đây chơi với ta đi, trù nương trong phủ làm bánh rất ngon…”.
Nàng còn chưa dứt lời, Chiêu Loan đã nhõng nhẽo nói: “Ai da, trong
phủ này thì có gì hay ho chứ, ta thích những thứ mới mẻ kích thích bên
ngoài cơ, tỉ tỉ tốt, hay là tỉ ra ngoài chơi với ta đi, tỉ cả ngày ở
trong phủ cũng cảm thấy vô vị chứ?”.
“Ta…”.
“Đừng này kia gì nữa, mau đi lấy tiền, nhân tiện cũng thay nam trang
như ta, ta dẫn tỉ đến mấy nơi hay ho, đảm bảo tỉ sẽ được mở rộng tầm
mắt”.
Nhìn bộ dạng hứng khởi đó của Chiêu Loan, chắc là không giữ nàng ở
trong nhà được. Đành vậy, để nàng một mình đi làm loạn, không bằng mình
đi cùng, ít nhất có thể trông coi không để nàng làm bừa. Nghĩ đến đây,
Khương Trầm Ngư bèn thay y phục rồi mang theo ngân phiếu, xin phép mẫu
thân xong lại bố trí bốn ám vệ theo bảo vệ rồi mới ra ngoài.
Dọc đường Chiêu Loan quả nhiên rất thông thạo phố lớn ngõ nhỏ, đặc
biệt dẫn nàng qua mấy nơi đến một người sống ở kinh thành mười lăm năm
như nàng cũng lần đầu tiên biết tới.
Đầu tiên là một tiệm bán mì trong một ngõ nhỏ cực kỳ hẻo lánh khách
ăn không nhiều, bàn cũng chỉ có bốn chiếc, bát thô đũa tre, nhìn cực kỳ
giản dị. Khương Trầm Ngư còn sợ không sạch sẽ, nhưng đến khi bát mì đó
được bê lên, vừa ngửi thấy mùi thơm sộc vào mũi, cái gì nàng cũng quên
hết.
Ăn xong Chiêu Loan hỏi nàng: “Thế nào?”.
Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, lại thở dài, đáp: “Hôm nay mới biết
mì trước đây ta ăn đều uổng phí. Tài nghệ của thím này quả thực cao
thâm”.
“Đúng vậy, đến Ngôn Duệ cũng không chối từ được sức hấp dẫn của món mì Phương gia này, huống hồ là tỉ”.
Khương Trầm Ngư cả kinh: “Đây là mì của Phương gia?”.
Chiêu Loan gật đầu: “Tiếc là vị chính chủ kia đã chết, người làm mì
bây giờ nghe nói là phụ bếp trước đây của bà. Đến mì của phụ bếp làm ra
còn có mùi vị thượng đẳng như thế, không được đích thân nếm mì Phương
gia chính tông ngày trước, đúng là đáng tiếc thay!”.
Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn người phụ nữ đang luộc mì trước mặt,
trong lòng chạnh buồn. Trước kia, mẫu thân Phương thị của Hy Hòa có phải đã đứng ở đây bán mì cả ngày không? Vậy thì Hy Hòa có phải cũng từng ở
đây lau bàn rửa bát không? Ai có thể ngờ, cô gái nhà nghèo áo thơ chân
trần ngày xưa giờ đã trở thành đế vương phi trong nội viện thâm cung?
Cảnh ngộ đời người, quả thực khó nói…
Tiếp đó, họ đến một quán trà, cũng là một cửa tiệm be bé trong con
phố nhỏ, lầu trên lầu dưới đều chật ních người, Khương Trầm Ngư vốn định bỏ nhiều tiền thuê một nhã Phòng, nhưng Chiêu Loan lại kéo nàng đứng
bên cạnh chiếc cột, suỵt một tiếng. Chỉ nghe tiếng mõ đập vang trên bàn, tiên sinh thuyết thư phía sau rèm vừa mở miệng, Khương Trầm Ngư lập tức ngẩn ra – nữ nhân?
Tiên sinh thuyết thư ở đây lại là nữ nhân?
Hơn nữa nữ nhân này có giọng nói rất hay và tình cảm, linh hoạt sống
động, tạo được bầu không khí khẩn trương khiến người nghe hồi hộp, nghe
đến mức tim đập thình thịch.
Nghe xong một đoạn “Thách đấu Tiểu Khang Vương” xong, Chiêu Loan kéo nàng ra khỏi quán trà, cười nói: “Thế nào?”.
“Ngày trước khi gia phụ tổ chức tiệc mừng thọ cũng từng mời tiên sinh nổi tiếng nhất kinh thành của Tinh Bích quán đến phủ kể chuyện, cứ
tưởng là kỹ ảo diễn thuyết đã cực kỳ tuyệt diệu, đến hôm nay mới biết
núi cao còn có núi cao hơn”.
“Vị tiên sinh thuyết thư Tần nương này là một quả phụ, vốn tướng công của nàng ta mới là tiên sinh kể chuyện trong quán trà này, nhưng không
may ba năm trước mắc bệnh hiểm nghèo đã qua đời. Bây giờ Tần nương kể
chuyện ở đây cũng không phải vì kiếm tiền mà xuất đầu lộ diện, mà vì
nàng ta cho rằng chỉ có cách này mới có thể tưởng niệm tướng công của
mình. Nàng ta từng nói: ‘Mỗi khi tôi đứng ở nơi tướng công tôi từng
đứng, gõ chiếc mõ mà tướng công tôi từng dùng và kể những câu chuyện mà
tướng công tôi từng kể, tôi cảm thấy chàng chưa hề rời bỏ tôi, mà vẫn
theo sát bên tôi’, khi đó, đúng là xúc động suýt rơi nước mắt”.
Khương Trầm Ngư nghiền ngẫm hai câu đó, không kìm được có phần ngây dại.
Chiêu Loan bỗng bật cười, ghé vào tai nàng nói: “Tỉ tỉ, nhìn qua bên kia đi!”.
Nàng nhìn theo hướng Chiêu Loan chỉ, thấy một nam tử đứng bên ngoài
cửa sổ quán trà, nhìn vào bên trong, không hề nhúc nhích. Nam tử khoảng
chừng hơn ba mươi tuổi, dáng vẻ cao to, tướng mạo đường đường, giữa ngày đông lạnh giá chỉ mặc độc một chiếc áo da rách nát, để lộ ra quá nửa bộ ngực trần cũng không sợ lạnh, trên vai còn vác một cái đùi lợn, giữa eo giắt một con đao. Nhìn cách ăn mặc, hẳn là một đồ tể.
Chiêu Loan giải thích: “Đồ tể này tên là Phan Phương, thích Tần nương đã lâu, thường xuyên đứng ở bên ngoài nhìn trộm nàng kể chuyện”.
“Đến chuyện này công chúa cũng biết sao?”.
Chiêu Loan đắc ý: “Đúng thế, trong kinh thành này có chuyện gì ta
muốn biết mà lại không biết được chứ! Đi nào, ta dẫn tỉ đi xem cây mai
đẹp nhất trong kinh thành!”. Vừa bước được mấy bước, nàng ta bỗng thất
sắc, nói: “Gay rồi!”.
Khương Trầm Ngư còn chưa phản ứng kịp, Chiêu Loan đã lôi nàng trở lại quán trà, nấp sau cửa.
“Sao thế?”. Khương Trầm Ngư dòm qua khe cửa nhìn ra ngoài, thấy đường phố bên ngoài vẫn thế, người đi đường tốp năm tốp ba, quầy hàng lác
đác, nếu có gì khác biệt, thì đó chính là một cỗ xe ngựa từ trong góc nọ ngoặt ra, không mau không chậm đi về phía này.
Chiêu Loan lo lắng nói: “Sao lại đen đủi thế, kinh thành rộng như thế, sao lại gặp nhau ở đây! Tỉ đã thấy chưa?”.
“Gì cơ?”.
“Ai da, Bạch Trạch đó!”.
Một lời như sét đánh ngang tai làm toàn thân Khương Trầm Ngư rung
động, lại chăm chú nhìn kỹ, quả nhiên thấy cỗ xe ngựa đó tuy đơn giản
mộc mạc, không hề hút mắt, nhưng trên càng xe lại vẽ một con Bạch Trạch.
Bạch Trạch chính là thần thú trên núi Côn Luân, có thể nói tiếng
người, thông hiểu nhân tình, hiếm khi xuất hiện, nếu có thánh quân trị
lý thiên hạ, thì nó sẽ dâng thư mà tới. Từ khi đương kim thiên tử Chiêu
Doãn đăng cơ, ban biểu tượng(14) này cho Cơ Anh, từ đó, Bạch Trạch trở
thành tượng trưng thân phận độc nhất vô nhị của Kỳ Úc hầu.
Cũng có nghĩa là, người trong xe là… công tử?
Sao công tử lại đến đây? Khương Trầm Ngư bất giác vò vạt áo phía
trước của mình, thấy cỗ xe đó tới gần quán trà, chầm chậm dừng lại, vừa
hay dừng cạnh đồ tể tên Phan Phương đó.
Sau đó, cửa xe mở ra, Cơ Anh toàn thân áo trắng bước xuống xe, chắp tay hành đại lễ với Phan Phương.
Chiêu Loan thì thào: “A, hóa ra y tới để tìm Phan Phương, thật kỳ lạ, hai người họ biết nhau sao?”.
Cơ Anh và Phan Phương bắt đầu trò chuyện, ánh nắng chiều lên người
họ, mỗi một biểu cảm, mỗi một động tác của chàng thậm chí mỗi một nếp
nhăn trên áo chàng đều vô cùng rõ ràng.
Khương Trầm Ngư không khỏi xúc động, họ như thế này rốt cuộc là có
duyên hay là vô duyên? Nếu là vô duyên, kinh thành rộng lớn là vậy, mà
nàng ngàn năm mới ra khỏi phủ một lần, lại trùng hợp gặp chàng như thế,
nhưng nếu là có duyên, vậy sao bà mối của nhà nàng đi đến phủ chàng cầu
thân chàng lại không ở nhà mà đến nơi này?
Tai nghe thấy Phan Phương nói: “Phan mỗ là một kẻ lỗ mãng, đã không mơ mộng làm quan, hầu gia hà tất phải ép người?”.
Cơ Anh mỉm cười: “Phan huynh đúng là quá khiêm nhường. Trên đời này,
ngàn dặm cưỡi ngựa đánh giặc cỏ, vạn quân đơn thương chém đầu thù, có
thể có mấy người? Huynh từ nhỏ đã theo cha tòng quân, tinh thông binh
pháp, giỏi dùng trường thương, mười sáu tuổi đã đánh bại đại tướng Nghi
quốc – Nhan Hoài, mười chín tuổi thụ phong Khinh xa tướng quân… Vinh
quang như thế, sao có thể gói gọn trong ba chữ ‘kẻ lỗ mãng’?”.
Chiêu Loan “oa” một tiếng, ghé sát tai Khương Trầm Ngư thì thào: “Không ngờ tên đồ tể này lại lợi hại thế!”.
Khương Trầm Ngư đưa tay suỵt nàng, ý bảo nàng nghe tiếp.
Phan Phương hơi lộ vẻ xúc động, nhưng cuối cùng vẫn cười thê lương,
trầm giọng nói: “Hầu gia quả nhiên đã tường tỏ quá khứ của Phương mỗ,
vậy thì ngài càng nên biết rằng, Phan mỗ vì cái gì mà mất chức bị đuổi
về quê. Con trai của một tên phản tướng nào có mặt mũi đâu mà tiếp tục
ra sa trường?”.
Cơ Anh chăm chú nhìn y, trong ánh mắt thoáng sắc bi ai: “Thật không ngờ…”.
“Đúng thế, chẳng có ai ngờ, cha ta lại làm phản…”.
“Điều ta không ngờ là huynh”.
Phan Phương sững lại: “Ta?”.
“Đúng”. Ánh mắt Cơ Anh sáng lên, chăm chú nhìn Phan Phương không rời
một khắc, “Ta không ngờ là Phản lão tướng quân một đời anh hùng lại có
thể sinh ra một đứa con kém cỏi như thế. Không những chưa từng nghĩ cách lấy lại thanh danh cho cha, trả lại sự trong sạch cho ông ấy, mà lại
nghe theo người khác, đen trắng không phân, cam chịu sa ngã…”.
Phan Phương chộp lấy tay chàng, gấp gáp hỏi: “Ngài nói gì?”.
“Ta nói gì ư? Ta nói – lẽ nào huynh thực sự cho rằng phụ thân huynh
tạo phản? Thật sự cho rằng ông ấy sau khi bị bắt làm tù binh, không chịu được tra tấn, nên tiết lộ quân tình?”.
Vẻ mặt của Phan Phương không chỉ dùng hai từ “chấn động, kinh ngạc”
là có thể hình dung, y trợn đôi mắt to như chuông đồng, run giọng nói:
“Ngài nói… phụ thân ta bị oan? Nhưng khi đó rõ ràng có bức thư khai báo
cha ta đích thân viết, còn có hai thuộc hạ của ông ấy cũng nói như
vậy…”.
Cơ Anh cười nhạt: “Phan huynh tinh thông binh pháp, lẽ nào không biết hai kế ‘mượn đao giết người’ và ‘ăn không nói có’ sao?”.
Phan Phương ngây ra hồi lâu, cuối cùng mới từ từ thả tay Cơ Anh ra,
lẩm bẩm nói: “Lẽ nào là giả… Lẽ nào mọi chuyện năm đó đều là giả?”.
Thư có thể giả, nhân chứng cũng có thể giả, nhưng”, nụ cười lạnh lùng của Cơ Anh chuyển thành cười mỉm, giống như gió xuân lướt trên cỏ xanh, sương sớm đọng lại trên hoa đỏ mang màu sắc dịu dàng nhất trên thế gian này, “phụ thân huynh không phải là giả, tình cảm cha con giữa huynh và
ông ấy cũng không phải là giả. Lẽ nào đến huynh cũng không tin ông ấy
sao?”.
Phan Phương đứng ngẩn ngơ một hồi lâu, bỗng đấm mạnh tay vào tường,
mắt vằn đỏ, nói: “Con sai rồi! Phụ thân con sai rồi! Đúng là con sai
rồi!”.
Cơ Anh thong thả nói: “Người xưa đã khuất, nhưng bây giờ hối hận cũng vẫn chưa muộn”.
Phan Phương quay mình quỳ sụp trước mặt chàng, khấu đầu nói: “Tiểu
nhân Phan Phương quỳ xin hầu gia thu nạp làm môn hạ, chỉ cần có thể giải oan cho gia phụ, nguyện óc lầy bùn cũng không chối từ!”.
Cơ Anh đỡ y dậy, ánh mắt sáng như sao, lẫn trong đó là nét cười lấp
lánh: “Phan huynh đa lễ rồi, Anh vốn ngưỡng mộ tài năng mà đến, Phan
huynh đồng ý chính là vinh hạnh của Anh. Chỉ có điều…”.
“Có điều gì?”.
Ánh mắt Cơ Anh xuyên qua cửa sổ, nhìn về bóng người sau rèm buông
trong quán trà: “Con đường làm quan đầy rẫy nguy hiểm, Anh có quyết tâm
cùng
huynh báo thù, chỉ không biết Phan huynh có dũng khí vung rìu đắm thuyền(15) hay không?”.
Sắc mặt Phan Phương tức khắc trở nên trắng bệch. Y chăm chú nhìn bóng người kia, ánh mắt lóe lên bất định, rõ ràng do dự và đau khổ đến cực
điểm. Từ góc của Khương Trầm Ngư nhìn qua, có thể thấy tay y đang nắm
chặt thành nắm đấm bên cạnh vạt áo, các khớp xương đã bắt đầu trắng ra.
Cuối cùng, bàn tay đó đột nhiên thả lỏng, Phan Phương ngẩng đầu nói:
“Tiểu nhân hiểu rồi!
Cùng kéo xe hươu(16) vốn chỉ là vọng tưởng, từ nay về sau, không dám nghĩ tới nữa!”.
Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, Phan Phương nói như thế cũng có nghĩa là sẽ từ bỏ Tần nương?
Ai ngờ Cơ Anh nghe xong lại cười phì, thư thả nói: “Phan huynh hiểu nhầm ý của Anh rồi”.
“Hả?”.
Cơ Anh rút một chiếc hộp nhỏ từ trong tay áo ra, đưa qua: “Đời người
đau khổ mà ngắn ngủi, thời gian chớp nhoáng nhưng quý báu, Phan huynh đã đứng đây ngắm nhìn ba năm, còn bao nhiêu thời gian ba năm nữa để mà lần lữa? Đám tốt nên cầu lấy, lương duyên đừng chậm trễ, đi đi”. Nói rồi
đẩy Phan Phương một cái, Phan Phương loạng choạng bước qua bậu cửa, khó
khăn lắm mới đứng vững, lại nhìn thấy người người trong quán đều quay
đầu lại nhìn mình, không gian yên tĩnh đến lạ thường.
Y nắm chặt chiếc hộp trong tay, sắc mặt từ đỏ chuyển sang trắng lại
từ trắng chuyển sang đỏ, biến đổi mấy lần, mà người trong quán trà dường như thật sự muốn xem vở kịch này đến cùng, tất cả đều nín thở, im lặng.
Trước bao con mắt đang nhìn chằm chằm, Phan Phương bước từng bước
một, vô cùng chậm rãi nhưng cực kỳ kiên định, đi tới trước bục kể
chuyện, mở chiếc hộp ra, quỳ một chân xuống: “Phan Phương nghèo hèn, xin lấy Tần nương làm vợ”.
Quán trà trằm đi trong giây lát, sau đó vỡ òa trong tiếng vỗ tay như sấm dậy.
Chiêu Loan ngó chiếc cổ thon dài ra nhìn, liến thoắng nói: “Hóa ra
trong hộp là thư cầu hôn! Không hổ là tên hồ ly chết tiệt, cái gì cũng
chuẩn bị đầy đủ cả!”.
Tấm rèm trúc buông rủ lay động, người sau rèm thở dài buồn bã: “Vốn là ước nguyện, đâu dám nhận chữ ‘xin’”.
Tiếng vỗ tay lại nổi lên, người người trong quán đứng dậy chúc tụng,
mừng rỡ vì cặp trai tài gái sắc này cuối cùng đã thành đôi, còn ngoài
quán, Cơ Anh ngồi trên xe ngựa, từ xa nhìn họ mỉm cười, ánh nắng mặt
trời chiếu trên chiếc áo trắng của chàng và hình Bạch Trạch trên càng
xe, trắng lóa như tuyết.
Chiêu Loan thở dài nói: “Không ngờ Tần nương cũng có tình ý với tên
ngốc Phan Phương… Nghe nói họ là thanh mai trúc mã, sau đó tên ngốc Phan Phương tòng quân đánh trận, Tần nương cũng gả cho người khác, đến khi
tên ngốc quay về, chồng của Tần nương cũng chết, thời gian xoay vần, hai người còn có thể ở bên nhau đúng là ứng với hai chữ duyên phận”.
Khương Trầm Ngư nhìn mọi việc trước mắt, nhớ lại câu “đám tốt nên cầu lấy, lương duyên đừng chậm trễ” mà Cơ Anh vừa nói, trong lòng nảy nở
một tình cảm quả đỗi dịu dàng.
Bên kia, Phan Phương cầu hôn thành công, sau khi trao chiếc hộp ra
sau rèm, lại nhìn bóng người sau rèm mấy cái, quay người vui vẻ bước ra, khom lưng hành đại lễ với Cơ Anh: “Nếu không phải là công tử nhắc nhở,
tiểu nhân đến nay vẫn mơ mơ tỉnh tỉnh, càng không có dũng khí cầu hôn
Tần nương… Đa tạ đại ân của công Cơ Anh nhận một lễ này của y.”
Phan Phương lại nói: “Từ nay về sau, xin làm trâu làm ngựa cho công tử, công tử tùy ý sai bảo!”.
Cơ Anh nói: “Không phải vội. Trước tiên huynh hãy lo hôn sự của mình, an tâm làm tân lang. Bao giờ khởi chiến, tự sẽ có chỗ dùng huynh”.
Phan Phương luôn miệng vâng dạ.
Cơ Anh quay người, đang định lên xe, đột nhiên dừng lại, nói: “A, đúng rồi, bây giờ đang có một việc phiền huynh giúp”.
Phan Phương vội vàng đáp: “Xin công tử dặn dò”.
Cơ Anh lại mỉm cười, khi Khương Trầm Ngư cảm thấy nụ cười này của
chàng không giống với trước kia, bớt đi mấy phần trang trọng, thêm mấy
phần giảo hoạt, thì nhìn thấy ánh mắt của chàng đã chuyển sang chỗ bọn
nàng trốn: “Trò hay hết rồi, hai vị vẫn còn chưa về nhà sao?”.
Chiêu Loan quay đầu định chạy, nhưng Phan Phương trong chớp mắt đã
đứng trước mặt, thân hình khôi vĩ đứng ở đó như một trái núi lấp kín
toàn bộ lối đi.
Lúc này Khương Trầm Ngư mới biết hóa ra Cơ Anh đã sớm nhìn thấy bọn họ.
Chiêu Loan bước tới trước mặt Cơ Anh, căm phẫn nói: “Con hồ ly chết
tiệt nhà ngươi mắt thật là tinh! Ngươi đi đường ngươi, làm như không
thấy không được à?”.
Cơ Anh vừa cười vừa lắc đầu, mở cửa xe ra, làm điệu bộ mời lên.
Chiêu Loan không sợ thái hậu không sợ hoàng đế, chỉ sợ mỗi mình
chàng, bởi vì nàng hiểu rõ Kỳ Úc công tử tuy ôn hòa văn nhã, phong độ
ngời ngời, nhưng một khi quyết định việc gì thì còn khó thay đổi hơn cả
thánh chỉ. Chuyến này bị chàng tóm gọn, cuộc du ngoạn chỉ có thể dừng ở
đây, nàng đành bĩu môi lên xe vẻ không tình nguyện. Khương Trầm Ngư
đương nghĩ nàng có nên lên cùng không thì Cơ Anh đã dặn dò phu xe mấy
câu, phu xe vung roi lên đánh ngựa rời đi.
Chiêu Loan thò đầu ra cửa sổ, hét lên: “Tỉ tỉ, ta về trước đây, lần sau lại tìm tỉ đi chơi, nhân tiện trả tiền…”.
Nhìn thấy xe ngựa rẽ sang một góc, biến mất khỏi tầm mắt, mà Phan
Phương cũng có việc cáo từ đi trước, cứ thế, trước cửa trà quán chỉ còn
lại nàng và Cơ Anh.
Trái tim nàng đập loạn nhịp, nàng cúi đầu không dám nhìn chàng. Mũi
ngửi thấy mùi hương phật thủ cam thoang thoảng toát ra từ trên người
chàng, nhất thời, nàng lại càng lúng túng không biết phải làm gì.
“Tiểu thư của Khương gia?”. Lời hỏi han bằng một giọng nói trầm ấm,
vô cùng lễ độ truyền đến tai nàng, lại làm tim nàng đập thình thịch lần
nữa.
Hóa ra chàng thực sự biết nàng… Khương Trầm Ngư vội vàng thỉnh an: “Khương Trầm Ngư tham kiến hầu gia”.
Nàng ngước mắt, thứ nhìn thấy vẫn là nụ cười nhàn nhạt tựa như nước.
So với vẻ lúng túng ngượng ngùng của nàng, Cơ Anh rõ ràng trấn tĩnh hơn
nhiều, gương mặt chàng vô cùng ung dung: “Sắc trời đã muộn, Anh đưa tiểu thư về phủ nhé”.
Trong tim nàng vừa lo lại vừa mừng, thẹn thùng gật gật đầu.
Chiếc xe ngựa duy nhất đã rời đi, hai người đành phải đi bộ. Khương
Trầm Ngư nhìn bóng chàng và nàng in trên mặt đất, tất cả xung quanh đều
hóa thành hư vô trong sắc chiều, chỉ còn lại bóng của hai người bị ánh
tà dương kéo dài, thật dài.
Mơ hồ như mộng cảnh.
Không, cho dù là trong giấc mộng xa xỉ nhất, nàng cũng chưa từng nghĩ, có một ngày nàng sẽ cùng Cơ Anh sánh vai dạo bước.
Chàng biết nàng.
Chàng đưa nàng về phủ.
Không có câu hỏi, không có trách cứ, cũng không có lời nói dư thừa nào, cứ lặng lẽ như thế đưa nàng về nhà.
“Ngài…”. Cuối cùng nàng không kìm nổi cất tiếng hỏi, “Sao ngài lại biết ta và công chúa ở đó? Sao lại biết… thân phận của ta?”.
“Ta nhìn thấy đám vệ của quý phủ”.
Hóa ra là như thế. Tương truyền Kỳ Úc hầu không chỉ tao nhã phong
lưu, võ công cũng cực cao, chẳng trách những đám vệ đó rõ ràng đã nấp
trong góc khuất, nhưng vẫn bị chàng nhận ra.
“Ta… ta cải trang thành thế này, cùng công chúa đi chơi phố, rất…
thất lễ phải không?”. Nàng lo lắng nhìn chàng, sợ rằng chàng sẽ coi nàng là một nữ tử dễ dãi, nhưng Cơ Anh vẫn mỉm cười như trước, trong giọng
nói xen lẫn sự dịu dàng thật khẽ: “Không đâu, tiểu thư mặc nam trang rất đẹp”.
Chàng đang khen nàng đẹp ư? Khương Trầm Ngư cắn môi, trái tim dường như đã sắp nhảy lên tận cổ họng rồi.
“Càng huống hồ”, Cơ Anh lại nói, “quán rượu lầu trà vốn là nơi người
ta tiêu khiển vui chơi, nam tử có thể đến, nữ tử có gì mà không đến được chứ”.
Khương Trầm Ngư nghe thấy càng vui mừng, Cơ Anh quả nhiên là một nam
tử phi phàm, không chỉ không có cái nhìn thiển cận, khắt khe, mà còn
biết hóa giải sự khó xử của người khác, ở bên chàng giống như tắm trong
gió xuân, chẳng trách lại có một tỉ tỉ như thế( 17).
Còn định nói mấy câu nữa, nhưng chớp mắt đã tới tướng phủ, Cơ Anh
dừng lại cách cổng khoảng mười thước, chắp tay nói: “Thứ cho Anh chỉ có
thể tiễn đến đây”.
“Đa tạ… công tử”. Vốn định gọi chàng là hầu gia, nhưng lời đến bên
miệng, cuối cùng lại biến thành công tử. Bởi vì, chàng đối với nàng xưa
nay chưa bao giờ liên quan đến tước vị thân phận…
Khương Trầm Ngư cắn môi, cố gắng hết sức không để lộ vẻ mặt lưu luyến quá mức, rảo bước vào trong cổng phủ. Nhưng sau khi qua cổng, vẫn không kìm được quay đầu lại nhìn thấy Cơ Anh đứng nguyên chỗ cũ, ánh mắt
không dõi theo nàng mà nhìn mặt đất phía trước chàng, thần sắc chăm chú
như đang suy ngẫm điều gì.
Chàng đang nghĩ gì thế?
Tại sao con người đó khi không có ai ở bên nhìn chàng, chàng lại không bao giờ cười?
Tại sao rõ ràng chàng đối với nàng lễ nghi có thừa, nhưng trước sau vẫn đem lại cho nàng một cảm giác vô cùng xa cách?
Công tử… Khương Trầm Ngư nhìn bóng người cao lớn như ngọc tạc dưới
ánh tà dương đó, lòng thoáng nghĩ, rốt cuộc chàng có biết không, hoặc
là, rốt cuộc chàng có bằng lòng để nàng trở thành… thê tử của chàng
không?
Ghi chú: (1) Theo phong tục của người Trung Quốc, con trai mười
ba tuổi làm lễ đội mũ, con gái mười lăm tuổi làm lễ cài trâm (cập kê),
đánh dấu là người trưởng thành, đến tuổi dựng vợ gả chồng (ND).
(2) “Trầm Ngư, Lạc Nhạn, Bế Hoa, Tu Nguyệt” là những từ thường
dùng để miêu tả dung mạo của người con gái, ý chỉ dung mạo xinh đẹp
khiến cá phải lặn, chim phải sa, hoa phải cụp cánh, trăng phải thẹn.
Trong văn hóa Trung Quốc, từ “trầm ngư” thường được chỉ người đẹp Tây
Thi thời Chiến Quốc.
(3) Nhã đức khiêm cung, tiến lui hợp lẽ: Các đức tính cần có của
một tiểu thư khuê các là Nhã (tao nhã), Đức (đức hạnh), Khiêm (khiêm
nhường), Cung (cung kính), tiến lui hợp lẽ là hành xử mọi việc đều phải
theo lẽ, căn cứ vào hoàn cảnh sao cho thỏa đáng (ND).
(4) Thế tập là chế độ truyền thừa tước vị, quan chức thời cổ đại, cũng có nghĩa là quan tước, quyền lực đời đời không thay đổi.
(5) Nghệ tinh lục học, tài đủ chín nghề (nghệ tinh lục học, tài bị cửu năng): Chỉ một người có tài năng lớn, đa tài đa nghệ.
(6) Tạ Quang Phát dịch: “Trông kìa trên khuỷu sông Kỳ, Bờ tre mới mọc xanh rì thướt tha. Có người quân tử tài ba, Như lo cắt dũa để mà
lập thân. Dồi mài dốc chí siêng cần”. Thơ “Kỳ Úc” được coi là hình dung
tiêu biểu về người quân tử trau dồi tài đức trong quan niệm của Nho
giáo.
(7) “Tăng Nhất A Hàm Kinh” là kinh điển cơ sở của Phật giáo (ND).
(8) Linh thú Tư Thần tức gà trống gáy báo sáng (ND).
(9) “Nội tắc” là một bộ phận của “Lễ ký”, nội dung chủ yếu là những lễ nghi, tôn thứ trong nhà (ND).
(10) Trung lang tướng: Tên chức quan thời cổ, thống lĩnh thị vệ của hoàng đế.
(11) “Trường Tương Thủ” nghĩa là “mãi bên nhau”, “Vật Tương Vong” nghĩa là “chớ quên nhau”.
(12) Canh thiếp: Thiếp viết tên tuổi và quê quán của nam, nữ khi đính hôn.
(13) Bát tự: Tám chữ can chi chỉ về năm, tháng, ngày, giờ sinh đẻ của một người, nhà thuật số thường lấy tám chữ ấy mà suy đoán họa phúc
cát hung của đời người.
(14) Từ gốc là “Đồ đằng” – totem, vật tổ, chúng tôi dịch thoát
cho hợp với văn cảnh, vì hình Bạch Trạch không đại diện cho một thị tộc, mà đại diện cho một quyền lực (ND).
(15) Vung rìu đắm thuyền (Phá phủ trầm chu): ý chỉ không chừa lại đường lui, quyết đánh thắng mới thôi (ND).
(16) Cùng kéo xe hươu (cộng vãn lộc xa): ý chỉ vợ chồng đồng lòng, an bần lạc dạo (ND).
(17) Tỉ tỉ ở đây chỉ Cơ Hốt – phi tử được mệnh danh là tài hoa xuất chúng.