Sóng nước khẽ vỗ, chim âu bay lượn, Khương Trầm Ngư đứng ở mũi thuyền, ngóng nhìn về phía đế đô, ánh mắt trầm tư.
Đi ra khỏi con sông Di này là vào Thanh Hải. Qua Thanh Hải là đến
Trình quốc. Cũng tức là, hễ đi ra biển là ra khỏi cương thổ của Đồ Bích. Trước khi đi, rất nhiều người đều nhúm một nắm bụi đất dưới chân thả
vào túi thơm mang bên mình, xem ra, không chỉ có mình nàng lưu luyến cố
hương. Thế nhưng, đại bộ phận đều hào hứng háo hức, lòng đầy hiếu kỳ
trước chuyến xuất hành này, nếu xét kỹ ra có lẽ chỉ có nàng và một người nữa thực sự không vui vẻ chút nào…
Khương Trầm Ngư quay người, ngẩng đầu nhìn tầng hai của khoang thuyền!
một người nằm trên cột buồm, bắt chéo chân, trong tay cầm một bình rượu, trầm ngâm nhìn trời xanh đó là Phan Phương.
Từ lúc lên thuyền y không nói năng gì, cả ngày nằm trên cột buồm uống rượu, trên gương mặt râu ria lởm chởm, luôn mang một vẻ đờ đẫn tê dại.
Nếu không biết thân phận của hắn thực khó mà tưởng tượng, người này lại
là đệ nhất danh tướng của Đồ Bích sau Tiết Hoài.
Xem ra, y vẫn chưa hồi phục sau cú sốc cái chết của Tần nương. Mà
hoàng đế lại muốn y cưới công chúa Trình quốc, chẳng trách y lại u uất
không vui như thế.
Khương Trầm Ngư thở dài trong lòng.
Có lẽ vì bản thân tận mắt chứng kiến cảnh Phan Phương cầu hôn Tần
nương, nên đối với nam tử nhìn tưởng thô lậu mà thực sự thâm tình này,
nàng tự nhiên có thiện cảm. Bây giờ thấy bộ dạng lặng lẽ đau lòng của y
khiến nàng không kìm được hối hận: Nếu không phải nàng đề nghị với hoàng đế phái y đi Trình quốc, lúc này hẳn y đang thủ tiết trước mộ Tần
nương. Vì lợi ích của bản thân, lại lôi người vô tội xuống nước, sao
trong lòng có thể thoải mái.
Khương Trầm Ngư không dám nhìn tiếp, vội vàng nhìn lên bờ. Xa xa
phảng phất có sắc hồng liên miên không dứt, thuyền càng lúc càng lại
gần, dần dần trở nên rõ ràng…
Chi chít, sum suê, sắc hoa tuyệt đẹp cành lá xinh tươi, hoa đầy sắc
đượm, tựa như vạn điểm phấn hồng, chiếm trọn gió xuân. Lại có cành cây
cổ thụ cực lớn, la đà bên bờ nước, soi bóng dưới dòng sông, càng nổi
dáng thơm.
Đó chính là hoa hạnh.
Khương Trầm Ngư chau mày, mắt không kìm được nóng lên, buồn bã nghĩ: Hoa hạnh đã nở rồi…
“Hoa hạnh đã nở rồi”.
Một giọng nói thanh nhã êm tai vang lên bên cạnh nàng, nói đúng điều
nàng nghĩ trong lòng. Khương Trầm Ngư sững người, nghiêng đầu nhìn, chỉ
thấy một nam tử thanh y phấp phới, mặt như ngọc tạc đang tựa tay trên
lan can, chăm chú nhìn rừng hạnh, mỉm cười nói.
Bên cạnh hai người không có người thứ ba, có thể thấy hắn đang nói với nàng.
Người này hai tháng trước vẫn còn không chút tiếng tăm, nhưng hai
tháng sau lại vang danh thiên hạ, một bước trở thành quý tộc đệ nhất đế
đô.
Con trai độc nhất của Đề điểm Thái y viện Giang Hoài.
Môn khách của Kỳ Úc hầu.
Thần y của dân gian.
Và anh họ của Hy Hòa phu nhân.
Bốn vầng sáng chói lóa vô song đó cuối cùng đều tụ hội trên người hắn, đó chính là – Đông Bích hầu Giang Vãn Y.
Trước khi rời cung, Chiêu Doãn từng giới thiệu bọn họ một cách vắn
tắt, chỉ nói nàng là A Ngu, trên danh nghĩa là y sư nhưng thực tế là một ám sứ, bảo Giang Vãn Y chăm sóc và phối hợp với nàng.
Khi đó nàng nghĩ, hắn liệu có nhận ra nàng không? Trong Bảo Hoa cung, cái ngày Hy Hòa thổ huyết, lần đầu tiên hắn tiến cung để trị bệnh cho
Hy Hòa, lúc ấy nàng cũng có mặt.
Nhưng mấy ngày ở cạnh nhau, Giang Vãn Y vẫn không nhắc nửa lời về
thân phận của nàng, thái độ hành vi lời nói đều rất tự nhiên, là thực sự không biết thân phận của nàng, hay là lòng dạ sâu xa vờ như không biết?
Bây giờ, hắn chủ động chào hỏi nàng, lại nhắc đến hoa hạnh, loài hoa
đã trở thành kỵ húy của nàng, là vô tình hay là cố ý thăm dò?
Đôi mắt Khương Trầm Ngư dần tối lại, nhưng khóe môi vẫn nhếch lên,
tươi cười với hắn: “Đúng thế, năm nay hoa nở muộn, nhưng lại đẹp hơn rất nhiều”.
“Dục vấn hạnh chi dữ chung tửu, cố nhân hà đắc bất đồng lai?”. (Muốn
hỏi cành hạnh và rượu trong chén, người xưa sao không đến?). Khi ngâm
nga câu thơ này, giữa cặp mày của Giang Vãn Y thoáng hiện vẻ thê lương,
giống như hồi tưởng chuyện xưa cũ nào đó, nhưng khi ánh mắt hắn chiếu
đến gương mặt nàng, lại hóa thành nét cười ấm áp, “Thực ra, lan tâm thảo cũng không phải là vạn năng”.
Khương Trầm Ngư bất giác sờ lên má phải, để tránh người khác chú ý,
cũng nhằm che giấu dung mạo thực sự, nàng không chỉ mặc áo chùng đen
rộng thùng thình che kín từ đầu tới chân, còn dùng nước ép từ lan tâm
thảo vẽ lên mặt một cái bớt màu đỏ sẫm to bằng nửa bàn tay, cứ như thế
mặt đã biến dạng.
Soi gương, nàng tự thấy mình vẽ rất giống thật, mấy ngày nay, những
người đồng hành đều bị che mắt, nhưng bây giờ Giang Vãn Y vừa nhìn đã
biết, xem ra cái danh thần y quả không phải hư truyền.
Nàng khẽ thở dài, cười nói: “Quả nhiên không thể qua mặt huynh”.
“Nếu không ngại muội hãy thử dùng cái này”. Giang Vãn Y lấy một chiếc bình ngọc từ trong tay áo ra, đưa cho nàng.
Nàng đón lấy, mở nắp bình, chất lỏng bên trong không màu không mùi, trong vắt như nước.
Phàm càng là kỳ dược lại càng không có đặc trưng, mắt Khương Trầm Ngư sáng lên: “Đa tạ”, dừng lại một lát, lại hỏi: “Huynh không hỏi muội
nguyên nhân sao?”.
“Nhân sinh tươi đẹp, ta muốn sống lâu hơn một chút”. Nói xong câu này, hắn quay người bước đi.
Khương Trầm Ngư nhìn thấy mấy nhạc nương phía xa vây quanh hắn, trò
chuyện ríu ra ríu rít, mà hắn ở giữa họ, cử chỉ ôn tồn nhưng không phóng đãng, văn nhã mà không xa cách, không biết hắn nói những gì mà khiến
đám con gái đó đều cười rộ cả lên.
Xem ra đây là một nhân vật phong lưu…
Lại nhìn Phan Phương trên cột buồm, hình tượng đối lập rõ ràng.
Khương Trầm Ngư vừa cảm khái vừa quay về khoang thuyền, trong khoang
là một tiền sảnh cực kỳ thoáng đãng, đi qua cửa sảnh tiến vào bên trong, từ cầu thang đi xuống đáy khoang là một thông đạo hẹp dài, mỗi bên có
mười hai gian phòng, gian phòng cuối cùng bên phải thông đạo chính là
phòng của nàng và Hoài Cẩn.
Trong phòng nội thất bố trí tinh xảo, đẹp đẽ, tuy nhỏ nhưng đầy đủ,
còn dùng rèm ngăn đôi phòng, Hoài Cẩn đang dọn dẹp đồ đạc ở cạnh bàn,
thấy nàng vào, cười nói: “Tiểu thư đến thật đúng lúc, vừa nãy nô tì đến
nhà bếp, trù nương nói trên thuyền còn dư một ít hoa quả tươi, cho tiểu
thư một giỏ, dọn sạch kho để chờ đến khi cập bến kế tiếp thì mua bổ sung thêm”.
Khương Trầm Ngư vừa nhìn thấy giỏ hoa quả trên bàn, chỗ quai xách còn thắt dải lụa màu vàng. Nàng hơi trầm ngâm, nói: “Thay ta cảm ơn bà ấy,
nhân thể nói với bà ấy, ta muốn tắm rửa, bảo bà ấy đun nước nóng”.
Hoài Cẩn trợn tròn mắt: “Tắm, tắm rửa?”. Tắm trên thuyền là một việc
vô cùng, vô cùng xa xỉ. Tiểu thư xưa nay hành sự kín đáo, cố hết sức
không gây phiền toái cho người khác, sao bây giờ đột nhiên lại đưa ra
yêu cầu nhũng nhiễu như vậy?
“Yên tâm đi, em đi nói với họ, họ không dám từ chối đâu”. Nói đến
đây, Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, tự cười giễu mình, “Ai bảo ta là sư
muội của Đông Bích hầu chứ”.
Đông Bích hầu là nhân vật đang lên của Đồ Bích hiện nay, không chỉ đi đến đâu cũng được bách quan tranh nhau lấy lòng, mà trong đội thuyền
này, ai ai cũng đều cung phụng ân cần với hắn, khiến nàng cũng được thơm lây không ít. Không thể không nói, Chiêu Doãn đã an bài cho nàng một
thân phận quá tuyệt diệu; Giang Vãn Y vốn đến từ dân gian, có một sư
muội cũng không có gì lạ, hơn nữa, vị sư muội này vừa không bị chú ý quá nhiều vừa có thể hưởng thụ một số thuận lợi mà thân phận này đem lại,
như là có một tiểu a hoàn, hoặc có thể tắm nước nóng xa xỉ trên thuyền.
Hoài Cẩn đi rất nhanh, quay về cũng nhanh, không lâu sau, hai trù
nương lực lưỡng thở hổn hển khiêng một thùng nước nóng tới, đổ nước,
chuẩn bị các đồ dùng xong xuôi bèn mau chóng rời đi. Hoài Cẩn đóng chặt
cửa, kéo rèm, đang định xắn tay áo hầu hạ thì Trầm Ngư nói: “Em cũng ra
đi, một mình ta là được rồi”.
Tuy Hoài Cẩn hơi ngạc nhiên, nhưng xưa nay nàng không phải là một nha đầu lắm chuyện, nên lập tức lui ra.
Khương Trầm Ngư bước đến cạnh bồn gỗ, nhìn hơi nước bốc lên nghi
ngút, khẽ nói: “Bây giờ ta phải tắm đã, sau đó các ngươi biết là phải
làm thế nào chứ?”.
Xung quanh lặng như tờ, không có bất cứ âm thanh nào.
Nhưng nàng hài lòng mỉm cười, đặt giỏ táo cạnh bồn gỗ, cởi áo bước
xuống nước, dựa vào thành bồn tắm khoan khoái thở dài một tiếng.
Hai viên ám vệ hoàng thượng ban cho nàng hẳn đã rời đi rồi chứ? Tuy
chưa từng cảm nhận được bọn họ, nhưng bọn họ cũng nên biết lúc này nếu
dám nhìn trộm hoàng phi tắm thì sẽ có hậu quả thế nào, ước chừng họ
không to gan đến mức, dám tiếp tục ẩn nấp trong gian phòng này.
Nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư cầm từng quả táo trong giỏ ra, đến quả
thứ chín, phía trên còn có sợi dây màu vàng, nàng dùng răng cắn đứt, sau đó men theo sợi dây vàng kia rút nhẹ, rút ra được một chiếc khăn lụa
rất nhỏ cuộn bên trong, mở ra xem, bên trong viết một câu: “Sau khi đến
Trình quốc, đến tiệm Sái Gia đường Vân Tường mua ba cân Mê Điệt hương”.
Nét chữ đơn giản rành mạch, như người mới học, nhưng mỗi nét chấm đều hất chếch về bên phải, đây là thói quen cố hữu của phụ thân khi viết
chữ bằng tay trái.
Vào cái đêm nhận nhiệm vụ đi sứ Trình quốc, nàng liền sai Ác Du báo
cáo chuyện này cho phụ thân, xin ông sai người gấp rút đến Trình quốc
chuẩn bị.
“Con cần tư liệu về phân bố thế lực nội bộ Trình quốc, danh sách quan viên ngũ phẩm trở lên và sứ giả đến dự yến lần này của Yên quốc, Nghi
quốc, phải có đủ thói quen sinh hoạt và sở thích của mỗi người. Cuối
cùng là mọi chuyện từ nhỏ tới lớn Di Thù từng trải qua, tất cả những
người nàng ta từng tiếp xúc. Càng tường tận càng tốt”.
Đây là yêu cầu mà nàng đã đề xuất với phụ thân hôm đó. Bây giờ, ông
gửi tới dòng chữ này, rõ ràng tất cả đã bố trí ổn thỏa. Tiếp theo, chỉ
cần đợi đến đó liên hệ với bọn họ là xong.
Khương Trầm Ngư suy xét sự việc từ đầu tới cuối một lượt, tin chắc
mình không có bất cứ sơ suất nào, nàng ném quả táo đi ngâm chiếc khăn đó vào trong nước, mực nước lập tức nhòa đi, đến khi lấy ra, đã biến thành một chiếc khăn tay bình thường ai cũng không thể tìm ra dấu vết gì trên bề mặt.
Làm xong tất cả, nàng quyết định chuyên tâm hưởng thụ cơ hội tắm nước nóng hiếm có này, ai ngờ, vừa mới nhắm mắt lại liền nghe thấy một tiếng “rầm”, cả thế giới đều chấn động mạnh, nước trong bồn cũng trào ra non
nửa.
Bên ngoài nổi lên tiếng huyên náo, dường như đã xảy ra chuyện gì.
Khương Trầm Ngư không hoảng loạn, nhẫn nại chờ đợi trong làn nước
nóng, quả nhiên, cơn chấn động qua đi, thuyền lại từ từ yên tĩnh trở
lại. Lại một lúc nữa trôi qua, Hoài Cẩn tới gõ cửa, gọi: “Tiểu thư, em
có thể vào trong không?”.
“Vào đi”.
Hoài Cẩn vội vã bước vào, đóng cửa lại, nói: “Tiểu thư, vừa nãy có sợ không?”.
“Xảy ra chuyện gì vậy”.
“Có một chiếc thuyền phía trước chúng ta va phải đá ngầm rồi chìm, dềnh lên sóng lớn, hại thuyền ta cũng tròng trành theo”.
“Sao lại không cẩn thận vậy? Không phải đã nói thuyền trưởng là một tay kỳ cựu sao?”.
“Không phải thuyền của chúng ta! Là thuyền của người khác bây giờ thuyền phụ của chúng ta đang bận rộn cứu bọn họ đó”.
Hả? Trên sông Di lại có thuyền của nhà khác? Lẽ nào đối phương không
biết, sứ thuyền hoàng gia xuất hành, thuyền của tất cả các nhà thuyền
khác đều phải nhường đường sao?
Khương Trầm Ngư lập tức đứng dậy mặc áo, Hoài Cẩn nói: “Tiểu thư, làm làm gì vậy?”.
“Đi xem xem”. Nàng muốn đi xem là kẻ to gan nào lại dám mạo phạm thiên uy.
Trên sàn thuyền, người đông nhốn nháo, vây kín mũi thuyền. Đám phụ nữ thì thào to nhỏ, rõ ràng kích động hơn bình thường.
Khương Trầm Ngư bước tới, mọi người nhìn thấy nàng, lần lượt nghiêng
mình nhường đường, sau khi đám đông tản ra, thứ đầu tiên nàng nhìn thấy
là một chiềc áo đỏ.
Chiếc áo đỏ vốn đã rực rỡ như lửa lại bị thấm nước, càng đỏ đến nhức
mắt, chói lọi như mây hồng trải trên một thân hình cao cao, cùng với mái tóc đen huyền, mang một vẻ đẹp yêu mị, càng khiến nam tử ngồi trên mũi
thuyền có một phong tư khó có thể diễn tả thành lời.
Y rất gầy, những khớp xương tay để lộ ngoài tay áo trắng đến gần như
trong suốt, tay và chân đều dài hơn người bình thường, khi cầm bình rượu ngửa mặt cuồng ẩm bộc lộ sự phóng khoáng, không chút câu nệ mà kẻ khác
không bắt chước nổi. Rõ ràng toàn thân ướt nhẹp, nhưng dáng vẻ tuyệt
nhiên không hề thảm hại.
Y uống hết rượu xong, dùng tay áo lau miệng, bấy giờ mới quay đầu lại, lắc lắc bình rượu với đám đông, chớp mắt nói.
“Rượu để hai mươi năm, quả nhiên là rượu ngon”.
Giang Vãn Y đứng bên cạnh, nghe nói liền vẫy tay gọi người mang rượu
lên, lấy ra hai chiếc bát lớn, đích thân rót đầy đưa cho nam tử áo đỏ
một chiếc, tự mình cũng cầm một chiếc, ngồi xuống sàn, đối diện với y,
nói: “Một mình độc ẩm vô vị, chi bằng hai người đối ẩm?”.
Sóng mắt của nam tử áo đỏ liếc xéo lên phía trên một cái, khi y làm
động tác đó, biểu cảm mê hồn không tả xiết, đến mức đám con gái xung
quanh đều đỏ mặt, tim đập loạn lên, còn y chăm chú nhìn Phan Phương trên cột buồm, cười nói: “Vị nhân huynh này xem ra cũng làđạo, không cùng
nâng chén sao?”.
Phan Phương cúi đầu, lặng thinh nhìn nam tử áo đỏ một lát, rồi khi
đám đông tưởng y sẽ không phản ứng lại, y đột nhiên tung người, khẽ nhảy xuống, ngồi xếp bằng tròn cạnh hai người.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư thoáng chuyển động, nàng bước ra khỏi hàng,
lấy chiếc bát từ chỗ thị nữ, đặt trước mặt Phan Phương, rót đầy rượu.
Sau đó gật đầu với Hoài Cẩn.
Hoài Cẩn hiểu ý, lập tức vào trong khoang thuyền mang cây cổ cầm ra.
Khương Trầm Ngư ngồi quỳ trên sàn, đặt đàn trên đầu gối, ngón tay lướt qua, tiếng vàng tiếng ngọc ngân lên.
Âm nhạc vừa nổi lên, nam tử áo đỏ bỗng rạng rỡ mặt mày, nâng bát rượu lên, Giang Vãn Y cũng nâng bát theo. Phan Phương tuy vẫn không tỏ vẻ
gì, nhưng uống còn nhanh hơn bọn họ, hễ ngửa cổ là một hơi uống cạn.
Hoài Cẩn tiến lên rót rượu.
Đám đông xung quanh trợn mắt, không hỏi câu nào, thân phận lai lịch đối phương cũng không rõ, sao lại đấu rượu với y?
Ba người ngồi xếp bằng tròn giống như bạn cũ huynh một chén ta một
chén, chẳng bao lâu sau, khoảng trống bên cạnh đã chất đầy bình rượu.
Mười ngón tay Khương Trầm Ngư lướt như bay, càng đàn càng nhanh, ba
người cũng theo đó càng uống càng nhanh, cuối cùng dây đàn chợt đứt,
tiếng đàn ngưng bặt, mà bát rượu trong tay Giang Vãn Y cũng đồng thời
“choang” một tiếng, vỡ tan thành từng mảnh, rượu còn sót lại bắn ra, làm bẩn chiếc áo mặc trên người hắn.
Giang Vãn Y “a” một tiếng, chậc lưỡi than: “Ai da, đây là chiếc áo ta thích nhất”.
Nam tử áo đỏ nhếch môi cười: “Ta đền cho ngươi một chiếc là xong”.
Giang Vãn Y lập tức đứng dậy, cung kính hành đại lễ: “Nếu vậy, Vãn Y xin đa tạ Nghi vương trước”.
Gì cơ? Nghi vương?
Đám đông xung quanh liền ồ lên.
Nam tử nhìn bề ngoài có vẻ hoa lệ vô song chói sáng rực rỡ này lại là quốc quân của Nghi quốc Hách Dịch sao?
Chẳng trách Yên vương Chương Hoa từng nói: “Trong bốn nước, Hành Xu
như cổ thụ ngàn năm, thâm trầm cao lớn; Minh Cung như chim ưng cô độc
trên sa mạc lạnh lẽo, cao ngạo tự biết mình; duy chỉ có Hách Dịch rực rỡ sáng chói, Hách Dịch rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt mới có thể sánh với ta”.
Yên vương nói câu này năm năm trước, quốc quân của Bích quốc vẫn là
tiên đế Hành Xu. Hành Xu nghe xong liền cười nói thêm một câu: “Hách
Dịch đúng thực tựa thái dương. Mà điểm giống nhất của y chính là – Chỉ
cần những nơi ánh dương chiếu đến đều có mối làm ăn của Nghi quốc”.
Nghi quốc nhiều tiền lắm của, từ quân thượng đến người hầu kẻ hạ, ai
nấy đều ham thích làm ăn buôn bán. Thương lữ của Nghi quốc đi khắp bốn
nước, mối làm ăn của Nghi quốc thông khắp mọi nẻo, quốc đô của Nghi quốc là Hạc thành, cư dân bản quốc chưa quá bảy nghìn, mà nhân khẩu ngoại
lai lại có ba vạn. Nghi quốc đất không rộng, binh không mạnh, nhưng về
tình thâm thì sánh ngang ba nước.
Mà giây phút này, con người cả tóc tai lẫn y phục đều đang nhỏ nước tí tách kia là Hách Dịch thật sao?
Mọi người đứng xung quanh nhìn với đủ mọi loại biểu cảm.
Còn đương sự lại bình thản đối diện với mọi ánh mắt phỏng đoán, kinh
ngạc, nghi ngờ, vỗ nhẹ vào áo mình nói: “Đáng tiếc thay đáng tiếc thay,
bây giờ ta chẳng có lấy một xu, tiền của đều để ở chiếc thuyền vừa mới
chìm kia…”.
Giang Vãn Y cười: “Nghi vương giàu có nhất bốn bề, chỉ đắm một chiếc thuyền thì có hề gì?”.
“Nói đến đây, ta bỗng nhớ ra một chuyện…”. Hách Dịch nói đoạn, lấy từ trong giầy ra một bàn tính vàng to bằng miếng đậu phụ khô, dùng những
ngón tay gầy, dài hơn tay người thường gầy như bay, rồi ngẩng đầu nói:
“Bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lượng. Đa tạ”.
Giang Vãn Y sững người: “Hả?”.
“Ba mươi súc gấm mây thượng đẳng của Chức Tú Phường, sáu mươi hộp
phấn nhất phẩm của hiệu Nùng Hương Trai, bảy mươi hòm giấy tuyết hiệu
Hồng Thư Lâu, chín mươi sọt dầu trẩu loại một, còn có những đồ tạp phẩm
khác, tổng cộng là năm nghìn bảy trăm tám mươi hai lạng bạc trắng, xét
ta và ngươi mới gặp mà như đã quen từ lâu, ngươi lại mời ta uống rượu,
ta giảm giá hai phần cho ngươi, chịu thiệt một chút, chỉ thu của ngươi
bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lạng”. Hách Dịch giơ bàn tính ra trước
mặt Giang Vãn Y.
Giang Vãn Y ngạc nhiên hỏi: “Nhưng ta đâu có mua những thứ này”.
“Đúng là ngươi không mua”.
“Vậy tại sao lại đòi ta tiền?”.
Hách Dịch chỉ chỉ mặt biển: “Vì thuyền của ngươi đột nhiên bẻ lái,
đâm phải đuôi thuyền ta, hại thuyền ta va phải đá ngầm, tất cả vật phẩm
đều chìm xuống biển, món nợ này ta không thể đòi Long vương, chỉ có cách đòi ngươi thôi”.
Giang Vãn Y dở khóc dở cười, than: “Thật không hổ là Nghi vương đứng
đầu bách thương… Vậy đi, nếu ngài đã đòi, ta không trả chẳng phải là vô
lý lắm sao”.
Hách Dịch nheo mắt: “Được, thật sảng khoái! Xem ra Bích vương quả nhiên tuệ nhãn biết nhìn người, chọn được một sứ thần tốt”.
Giang Vãn Y trầm ngâm: “Có điều món tiền này e rằng muộn một chút mới có thể trả cho ngài”.
Hách Dịch vươn vai biếng nhác, cười híp mắt nói: “Không sao không sao, chỉ cần khi ta xuống thuyền trả ta là được”.
Lúc này một viên tùy tùng vội vã chạy tới, thì thầm vào tai Giang Vãn Y mấy câu, Giang Vãn Y gật đầu, đứng dậy chắp tay nói: “Có chút chuyện
vặt phải xử lý, thứ cho tại hạ cáo từ trước”.
Hách Dịch đưa tay ra làm tư thế mời, nhìn Giang Vãn Y quay người rời
đi, rồi nhìn sang Khương Trầm Ngư: “Hôm nay may mắn được nghe tiếng đàn
của cô nương, thật khiến người ta ba tháng không biết đến mùi thịt(1) .
Cây đàn của nàng đã cũ không biết tiểu vương có thể có may mắn tặng cho
nàng một cây đàn mới không?”.
Khương Trầm Ngư từ chối cực kỳ dứt khoát: “Không”. Lúc này đến lượt Hách Dịch sững sờ.
Khương Trầm Ngư mím môi, cười nụ, nói: “Bởi vì ta không muốn có chung một kết cục như sư huynh. Nếu Nghi vương hỏi đền tổn thất do dây đàn
đột nhiên đứt đoạn làm kinh động ngự thể, ta biết làm thế nào?”.
Hách Dịch cười ha ha, chớp mắt nói: “Hảo cô nương, nàng thông minh hơn sư huynh nàng nhiều”.
Một thị nữ từ trong khoang thuyền bước ra, khom người nói: “Nước nóng đã chuẩn bị xong, cung thỉnh Nghi vương đi tắm rửa thay áo”.
Hách Dịch đứng dậy, rũ rũ chiếc áo đỏ, nói: “Hay lắm hay lắm, ‘tiêu
hồn đương thuộc tửu hậu táo, bất tiện thần tiên bất tảo triều(2)’ ha ha
ha”… Vừa cười vừa nghênh ngang bước đi.
Náo nhiệt đã hết, đám đông xung quanh cũng lần lượt tản đi. Còn
Khương Trầm Ngư lại nhìn chằm chằm về hướng Hách Dịch vừa đi, ánh mắt
thâm trầm, như đang suy tư điều gì, cho đến khi một tiếng ho khẽ vang
lên bên cạnh, nàng quay đầu lại nhìn, là Giang Vãn Y đã trở lại.
Giang Vãn Y cười với nàng: “Trời sắp tối rồi, gió đêm lạnh lẽo, còn không vào khoang thuyền?”.
Khương Trầm Ngư chau mày đáp: “Tại sao Nghi vương lại xuất hiện ở sông Di?”.
“Có hai khả năng. Thứ nhất, y vừa mới từ Thanh Hải tiến vào. Thứ hai, y cũng muốn ra biển như chúng ta”.
“Cho dù là khả năng nào, đường đường Nghi vương tới Bích quốc mà
trong nước lại không một ai hay biết, thực là…”. Nghĩ đến đây, trong
lòng Khương Trầm Ngư rối rắm muôn điều: Mật thám của hoàng đế, ám vệ của phụ thân đều là anh tài ngàn người chọn một, cứ tưởng kín kẽ không có
khe hở, nào ngờ trước đó chẳng nhận được chút tin tức nào! Nếu không
phải lần này va nhầm vào thuyền đối phương, e rằng sẽ không hề hay biết. Hơn nữa, sự kiện va phải đá ngầm này có thực chỉ là sự cố ngoài ý muốn
không? Hay là có huyền cơ nào khác?
Giang Vãn Y cười, nói: “Còn có sự tình ly kỳ hơn nữa”.
Khương Trầm Ngư nhướn mày.
Trong ánh chiều, nụ cười của Giang Vãn Y nhìn có vẻ hơi tha thiết,
giống như đang thấy một chuyện gì đó rất thú vị, không giấu được sự hứng thú: “Thuyền chìm rồi, chỉ có Nghi vương được cứu. Không phải là chúng
ta không muốn cứu những người khác, mà là…”, hắn giơ một ngón tay, xua
xua với nàng, nói từng chữ từng chữ một, “dưới sông căn bản không có
người thứ hai”.
Khương Trầm Ngư cả kinh.
Nơi chân trời, ánh tà dương cuối cùng đã thu tận, màn đêm buông
xuống, đèn trên thuyền chao đảo, đan thành tầng tầng bóng râm. Dường như tất cả mọi thứ xảy ra trong phút giây này khiến người ta nhìn không rõ, cũng đoán không thấu.
Nàng không nói gì, quay người trở vào khoang thuyền, về phòng mình, sau đó khẽ nói: “Các ngươi ra cả đi”.
Chiếc rèm thoáng lay, hai bóng người gần như xuất hiện cùng lúc, quỳ sụp gối xuống, không phát ra chút tiếng động nào.
Khương Trầm Ngư nhìn hai tên ám vệ, trong lòng trào dâng một thứ cảm
xúc phức tạp: Một mặt cố nhiên là tán thưởng tận đáy lòng sự nhanh nhẹn, linh hoạt của hai người này khi hành động, một mặt lại thầm lo lắng. Cứ tưởng ám vệ do phụ thân huấn luyện là đệ nhất thiên hạ, mà chưa từng
nghĩ, từ sĩ của hoàng thượng cũng chẳng hề kém cạnh. Sau này nếu có xung đột, hậu quả… nàng không dám tưởng tượng.
Nghĩ tới đây, nàng đặt cây cổ cầm lên bàn: “Các ngươi đã thấy chuyện
vừa rồi chứ? Giúp ta kiểm tra xem, tại sao dây đàn lại đứt?”.
Hai tên ám vệ y lời bước lên, săm soi thân đàn một lúc, cả hai ngẩng đầu, trao đổi cái nhìn phức tạp với nhau.
Khương Trầm Ngư chau mày, hỏi: “Thế nào?”.
Một tên đáp: “Nếu dùng nội lực để làm đứt dây đàn thì không khó,
nhưng, khi đó Nghi vương cách chủ nhân ba thước, phát lực cách khoảng
không, dây đứt mà đàn không rung, lại không làm người bị thương, muốn
làm vậy phải có kỹ thuật vô cùng cao minh…”.
“Cũng có nghĩa là, hắn không chỉ thân mang tuyệt kỹ, mà còn là cao thủ không lộ diện?”.
Ám vệ đáp: “Nếu thuộc hạ không đoán nhầm, khi ấy hắn đồng thời phát
lực với ba người, chủ nhân và hầu gia đều không biết võ công, vì thế một người thì đứt dây đàn, một người thì vỡ bát rượu, duy chỉ có Phan tướng quân là có thể đối kháng với hắn”.
Khương Trầm Ngư nhớ lại cảnh tượng lúc trước, khi ấy đúng thực chỉ có Phan Phương vẫn ngồi tại chỗ tiếp tục uống rượu, ngẫm ra là vô hình hóa giải lực độ của Nghi vương.
“Có điều.” Một tên ngần ngừ.
“Có điều cái gì”.
“Thuộc hạ còn phát hiện một điểm kỳ quái, chủ nhân xem này, vết đứt
của dây đàn này không hề bằng phẳng, nếu là thuộc hạ, có thể làm dứt
khoát gọn lẹ hơn, từ đó có thể thấy công lực của đối phương tuy linh
hoạt, nhưng độ kiên cường dẻo dai thì chưa đủ. Nhưng, Nghi vương có thể
đồng thời thăm dò ba người ở ba phương hướng khác nhau, võ công của hắn
ta tuyệt đối không kém thuộc hạ, vì thế, thuộc hạ hoài nghi… có thể Nghi vương bị thương, dẫn đến việc thiếu sức bền”.
Gì chứ? Y bị thương?
Nhưng vừa nãy nhìn y, tuy y có nhếch nhác nhưng khí sắc vẫn thịnh,
hơn nữa lại uống rượu phóng khoáng như thế, hoàn toàn không giống người
bị thương, tất cả chuyện này là thế nào?
Tại sao Nghi vương lại phải thăm dò bọn họ? Bên ngoài chỉ biết Nghi
vương tinh thông buôn bán, chẳng ngờ y còn giỏi võ, một hoàng đế quyền
cao chức trọng thân thể tôn quý, tại sao lại có võ nghệ cao thâm khó dò
như vậy? Còn nữa, tại sao thuyền đắm lại chỉ cứu được một mình y, mà y
còn bị thương? Tại sao y lại xuất hiện ở Bích quốc? Thuyền của y thực sự va vao đá ngầm, hay là còn có nguyên nhân nào khác?
Một chuỗi câu hỏi vây lấy Khương Trầm Ngư, dự cảm chẳng lành trong
chốc lát trào dâng trong lòng. Nếu ta là Chiêu Doãn – Khương Trầm Ngư
đột nhiên nhớ đến khả năng nào đó, lòng nàng chùng xuống…
Có lẽ nàng đã đánh giá thấp đế vương trẻ tuổi lòng dạ thâm sâu kia.
Đầu tiên, nếu Nghi vương thực sự bí mật vào Bích quốc, vậy thì, Chiêu Doãn rất có thể đã biết được tin tức này thông qua ám tuyến, vậy thì,
nếu nàng là y, nàng sẽ lập tức quyết định cần phải ám sát Hách Dịch.
Gọn lẹ dứt khoát tiêu diệt đối thủ luôn là tác phong hành sự của Chiêu Doãn.
Vì thế, Chiêu Doãn phái mật thám tấn công Nghi vương, tùy tùng của
Nghi vương đều bỏ mạng trong hành trình này, cuối cùng chỉ còn lại mình
y, nếu không, là một hoàng đế, y tuyệt đối không thể lên đường một mình.
Trong lúc nguy cấp nhất, Nghi vương tìm thấy cơ hội đó chính là thuyền quan đi sứ Trình quốc.
Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Y ngang nhiên giả vờ
được cứu lên thuyền, như thế một khi thân phận công khai, chúng nhân đều biết Nghi vương lên thuyền quan của Bích quốc, Chiêu Doãn sẽ không thể
làm gì y. Bởi vì nếu đế quốc quân Nghi quốc chết trên thuyền quan của
Bích quốc, tin tức này hễ truyền ra ngoài, hai nước tất đại loạn.
Hỏng rồi, chúng ta đều bị lợi dụng rồi…
Khương Trầm Ngư cắn môi, trong bóng tối dường như có một cánh tay vén tan tầng tầng mây mù, suy nghĩ của nàng dần trở nên sáng tỏ.
Hay cho Nghi vương!
Hay cho Hách Dịch “rực rỡ chói sáng”!
Vốn là như vậy, kẻ khôn khéo nhất thiên hạ là thương nhân, kẻ lắm mưu lược nhất là chính khách. Mà Hách Dịch, người kết hợp hoàn hảo hai thân phận này sao có thể là một nhân vật đơn giản?
Chiêu Doãn muốn âm thầm ám sát y, không ngờ đội thuyền của mình lại
bị Hách Dịch lợi dụng, trở thành bùa bình an của đối phương. Có lẽ lúc
này y đã biết tin, đang giận điên lên, nhưng cũng không có cách nào,
người đã lên thuyền, hơn hai trăm con người e rằng đều đã biết Nghi
vương lên thuyền mình, muốn động thủ lần nữa cũng đã muộn… trừ phi… Trừ
phi biến hai trăm tám mươi người này thành đồ tuẫn táng theo Nghi vương!
Khương Trầm Ngư bỗng đứng bật dậy, sắc mặt trắng bệch lấy hai trăm
tám mươi người đổi lấy một người, thực ra không phải là không đáng. Bởi
vì, hễ Nghi vương chết đi, Nghi quốc tất loạn, Nghi quốc mà loạn, thế
cân bằng trên bề mặt giữa bốn nước sẽ bị phá vỡ, Yên Trình tất có động
tĩnh, thiên hạ càng loạn, đối với Bích quốc mà nói lại càng có lợi.
Giông bão sau đó tạm thời chưa tính, bây giờ phải xem Chiêu Doãn có đủ
nhẫn tâm hy sinh hai trăm tám mươi người này không.
Phan Phương là đại tướng một nước, Vãn Y là quý tộc đương triều, nàng là phi tử, y hẳn sẽ giữ lại mạng sống của ba người bọn họ, nhưng những
người khác…
Nếu ta là Chiêu Doãn, ta có nhân lúc tin tức này chưa phát tán ra
ngoài, diệt khẩu toàn bộ người trên thuyền, sau đó ngầm đổi một đoàn
khác đi sứ Trình quốc không? Chỉ cần ba người dẫn đầu không thay đổi,
những người khác có đổi, các nước khác cũng không thể phát giác. Chỉ cần có thể giết được Nghi vương, hết thảy đều có ý nghĩa! Nếu ta là Chiêu
Doãn… nếu ta là Chiêu Doãn… Khương Trầm Ngư càng nghĩ càng cảm thấy sợ,
toàn thân bắt đầu run lẩy bẩy, ám vệ bên cạnh nhìn bộ dạng nàng, hai tên nhìn nhau, thấp giọng gọi: “Chủ nhân? Chủ nhân?”.
Hai giọt nước mắt bất ngờ trào ra khỏi đôi đồng tử đen láy, trong
suốt như thủy tinh của nàng, Khương Trầm Ngư nắm chặt vạt áo trước ngực, tuyệt vọng nhắm mắt lại. Không cần nghĩ nữa, nàng đã biết câu trả lời.
Chiêu Doãn chắc chắn sẽ làm như vậy.
Giờ Thìn ngày mai, đội thuyền sẽ cập bến cuối cùng trên dòng sông Di
Thiên Trì trấn, chuẩn bị và bổ sung thực phẩm lần cuối cùng, sau đó
chính thức ra biển, rời khỏi quốc thổ.
Nghe nói phong cảnh Thiên Trì trấn tuyệt mỹ, tất cả nhà cửa đều được
xây trên mặt nước, cư dân xuất hành, toàn bộ đều chèo thuyền mà đi, vì
thế được gọi là tiên cảnh trên mặt nước. Mọi người trên thuyền đều
ngưỡng mộ đã lâu, mấy ngày nay bàn tán rằng phải đi thăm thú một chuyến.
E rằng, đến khi thuyền cập bờ, cái chờ đợi bọn họ không phải là mỹ cảnh chốn tiên mà là rừng giáo mưa tên.
Những người này… những người đã cùng nàng chung sống trên thuyền từ
khi rời đế đô, tuy đại đa số đều không quen biết nhau, nhưng, bọn họ có
người vì nàng mà đi tuần tra, có người vì nàng mà chèo thuyền, lại có
người bưng trà rót nước, ân cần hỏi han, mà nay, đại nạn rơi xuống đầu,
họ sắp biến thành oan hồn chết uổng, hễ nghĩ đến khả năng này, sao nàng
có thể không khiếp đảm sợ hãi, bi thương vô cùng được đây?
“Không, ta nghĩ sai rồi… sẽ không kinh khủng đến thế… Ta cả nghĩ rồi…
không sao cả, không sao cả, không sao cả…”.
Nàng cố thuyết phục chính mình, chừa lại một tia hy vọng, nhưng ba
chữ cuối cùng càng nói nàng nhỏ, yếu ớt đến bản thân mình cũng chẳng
tin. Nếu như, hết thảy đều đúng như nàng dự đoán, mọi chuyện sẽ xảy ra
theo cách tồi tệ nhất, vậy nàng phải làm sao?
Trơ mắt nhìn những kẻ bất hạnh đó chết đi?
Nhưng không nỡ thì còn biện pháp nào khác? Đối đầu với thiên tử là
tội lớn, đến lúc đó thiên tử trút giận lên Khương gia thì biết làm thế
nào?
Nên dửng dưng đứng ngoài hay là ra tay trợ giúp? Là để thành đại sự
không câu nệ tiểu tiết, hay là mạng người là quan trọng nhất, không để
sinh linh lầm than?
Nếu ta là Chiêu Doãn… Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, men theo
vách thuyền, trượt xuống dưới sàn, nhưng ngay giây sau, lại nắm chặt bàn tay, loạng choạng đứng dậy: “Tại sao ta phải là Chiêu Doãn? Tại sao ta
lại phải nghĩ trên lập trường của y? Tại sao ta lại dùng sự máu lạnh và
tàn bạo của y để suy xét vấn đề? Tại sao ta không thể là người khác, ví
như công tử?”.
Nếu ta là công tử…
Giả thiết này vừa lóe lên, hệt như một chùm tia sáng, xuyên qua màn
đêm mù sương lạnh lẽo, mang theo ánh sáng và hơi ấm, cơ thể nàng ngừng
run rẩy một cách thần kỳ, nàng nắm chặt tay áo của mình, nghĩ hết lần
này đến lần khác…
Nếu ta là công tử…
Nếu ta là Cơ Anh, ta chắc chắn sẽ không thấy chết không cứu để những người vô tội đó chết không rõ ràng.
Công tử nhất định sẽ cứu bọn họ…
Cho dù để lỡ mất thời cơ tốt nhất trừ khử Nghi vương; cho dù Chiêu
Doãn sẽ vì thế mà giận dữ; nhưng, thà có lỗi với thiên tử, chứ không thể có lỗi với trời đất, đó mới là tác phong hành sự của công tử.
Đó cũng là điều trước mắt nàng nên làm.
Khương Trầm Ngư chải lại tóc, chỉnh trang mũ áo, rồi mở cửa đi ra ngoài.
Nàng đã biết bước tiếp theo nên làm thế nào.
Màn đêm đã buông, tháng năm là lúc xuân hè giao mùa, gió nhẹ trời ấm trăng sáng.
Khương Trầm Ngư đến khoang chính, hỏi lão Lý quản sự: “Lần này xuất hành, chúng ta có mang theo pháo hoa không?”.
Lão quản sự vội đáp: “Có có, pháo hoa nổi trên mặt nước của hiệu Bất
Dạ Kinh là số một, đặc biệt mang theo hai hòm, để chuẩn bị sau khi đến
Trình quốc…”.
Khương Trầm Ngư ngắt lời lão: “Mau mau lấy ra”.
Lý quản sự ngẩn ra: “Lấy ra? Dùng bây giờ ư?”.
Khương Trầm Ngư nhìn chăm chú về một hướng, cười nhạt: “Đương nhiên.
Giờ lành cảnh đẹp, khách quý vô song, lúc này không dùng còn đợi lúc nào”.
Lý quản sự liếc mắt nhìn theo, phát hiện hướng nàng nhìn chính là Hách Dịch.
Nghi vương hiển nhiên đã tắm rửa xong, thay chiếc áo mới màu thiên
thanh, dáng vẻ uể oải ngồi tựa trên lan can, mái tóc xõa còn ướt sũng,
trong tay cầm một bình rượu nhưng không uống, so với vẻ rạng rỡ khi mặc
chiếc áo đỏ như lửa lúc trước lại có vẻ yên tĩnh, ưu tư.
Y nhìn vô định lên bầu trời, dường như đang ngắm trăng, lại dường như chỉ là đang đợi gió hong khô tóc.
Quý tộc của Bích quốc sùng bái Khổng học, nghiêm cẩn tuân thủ lễ giáo “người quân tử không trang trọng thì không uy nghiêm, học cũng không
bền”, đã quen thấy nam tử áo quần chỉnh trang, ngồi ngay ngắn đường
hoàng, nay thấy Hách Dịch ngồi xiêu ngồi vẹo, lại thấy có chút mới mẻ.
Khương Trầm Ngư bước tới: “Trên thuyền thô lậu, tiếp đón bệ hạ chưa chu đáo, xin được lượng thứ”.
Hách Dịch nghe tiếng quay đầu lại, nhìn thấy nàng, nhướn mày cười:
“Có trăng có gió có rượu, còn có mỹ nhân, có bốn thánh vật này, sao lại
nói là thô lậu?”.
Ánh mắt Trầm Ngư lấp loáng, khoan thai nói: “Có lẽ còn thiếu chút gì đó”. Hách Dịch chớp chớp mắt: “Ví như?”.
“Nơi này quá yên tĩnh”. Cơ hồ lời này vừa dứt, liền nghe thấy một
tiếng rít dài phía sau lưng, ánh sáng rực rỡ mang theo chùm đuôi dài bay thẳng lên trời, sau đó nổ “bùng” lên, biến thành vô số điểm sáng, hiện
thành muôn đóa hoa, rồi lại chầm chậm tan biến.
Mà những đóa h đó trở thành bối cảnh đẹp nhất lúc này.
Nàng đứng dưới bầu trời đêm, nở nụ cười nhàn nhạt, giữa rèm mi như có ánh sao. Từng chùm từng chùm pháo hoa bay lên nở rộ, tan biến phía sau
lưng nàng.
Thuyền đi chầm chậm, bên bờ sông đã có những người bị pháo hoa thu hút, theo đâu mà đến, vỗ tay hoan hô.
Mọi người trên thuyền cũng kinh ngạc mừng rỡ vô cùng, toàn bộ đều chạy lên xem.
Một đêm vốn tĩnh mịch bình thường, trong phút chốc huyên náo hẳn lên, tựa như một nữ thần say ngủ mở choàng mắt, vạn vật đột nhiên sống lại,
trăm hoa khoe sắc, vạn điều đua tiếng, mang một nhan sắc diễm lệ vô
biên.
Còn bên này, Hách Dịch ngồi tựa trên lan can vẫn bất động, im lặng nhìn Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cao thâm khó dò.
Khương Trầm Ngư không bị vẻ mặt đó làm hoảng sợ, nhếch môi cười: “Bệ
hạ, đây là tiết mục đặc biệt tiểu nữ an bài cho ngài, ngài không thích
sao?”.
Ánh mắt Hách Dịch quét qua đám người ồn ào và pháo hoa trên không
trung rồi lập tức thu về, một lần nữa dừng lại trên gương mặt nàng, vẫn
không động thanh sắc.
Khương Trầm Ngư lại hỏi: “Chắc chắn bệ hạ sẽ thích, bởi vì…” Nàng ngừng lại, Hách Dịch quả nhiên tiếp lời: “Bởi vì sao?”.
“Bởi vì, bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lượng bạc tổn thất đó của bệ hạ đểu chìm ở đây”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư nghiêng đầu, cao giọng gọi: “Lý quản sự”.
Lý quản sự đương giám sát bọn hạ nhân đốt pháo hoa, nghe nàng gọi, vội vàng lật đật chạy đến: “Có thuộc hạ, Ngu cô nương”.
“Nhìn thấy những người bên kia sông chứ?”.
“Vâng, nhìn thấy”.
“Sai người chèo thuyền nhỏ qua đó, thu một trăm lượng bạc một người”. “Hả?”. Lý quản sự sững người.
Ánh mắt Khương Trầm Ngư lưu chuyển, cười châm biếm: “Trên đời làm gì
có trò vui miễn phí? Ngươi cứ đi đi, không cần sợ. Nếu họ có hỏi, thì
nói là mệnh lệnh của Nghi vương, pháo hoa chuẩn bị riêng cho ngài, bình
dân bách tính dựa vào cái gì mà đòi xem?”.
“Nhưng, nhưng nhưng… một trăm lượng bạc này cũng, cũng, cũng…” cũng
thực là đắt cắt cổ! Lý quản sự đành nuốt nửa câu sau xuống. Một trăm
lượng đủ cho một người dân bình thường sống cả năm.
Nghi vương còn nói là nếu không giao đủ một trăm lượng thì đi kiếm
thêm người xem pháo hoa, kiếm được càng nhiều người, một trăm lượng đó
chia đều ra sẽ càng ít hơn.
Cho nên, rốt cuộc nộp bao nhiêu tiền phải xem trước giờ Mão ngày mai
bọn họ có thể lôi kéo bao nhiêu người đến, nếu gọi được một trăm người
trở lên, vậy thì số tiền thừa ra đều cho bọn họ cả.
Tuy mệnh lệnh này vô cùng cổ quái, nhưng đã làm quản gia quản sự ba
mươi năm, Lý Khánh biết rất rõ có một số việc biết càng ít càng tốt, vì
thế chẳng nói nửa lời, liền đi làm ngay.
Sau khi lão đi, Hách Dịch từ đầu đến cuối vẫn im lặng, lúc này mới
nheo mắt, tinh quang thoáng ẩn thoáng hiện trong đôi mắt, y chầm chậm
nói: “Chuyện tốt chẳng ra khỏi cửa, việc xấu truyền xa vạn dặm…”.
“Thế nên, thậm chí không cần đến giờ Mão ngày mai, trong vòng mười
dặm quanh đây, tất cả mọi người đều sẽ biết bệ hạ đang ở trên thuyền của chúng thần”.
“Thanh danh của ta bị hủy hoại rồi. Bóc lột dân chúng đã là chuyện mà bách tính căm giận nhất, càng huống hồ là bóc lột dân chúng trên địa
bàn của người khác.”
“Nhưng”, Khương Trầm Ngư bắt chước dáng vẻ của y lúc trước, ngẩng đầu nhìn về phía chân trời xa xa, “trăng ngày mai sẽ tròn hơn hôm nay. Có
thể ngắm trăng tròn đêm mai, chẳng phải rất tuyệt sao?”.
Hách Dịch nhìn nàng chằm chằm một lát, chợt bật cười, tiếng cười càng lúc càng lớn, cuối cùng nhảy từ lan can xuống đất, vỗ tay: “Hay! Hay!
Vụ mua bán này quả là lời! Đây đúng là vụ mua bán đáng giá nhất trong
suốt hai mươi tư năm cuộc đời của ta”, y ngừng lại một lát, nhìn nàng
mỉm cười: “Tiểu cô nương, nàng rất thú vị. Nàng tuyệt đối không phải là
một dược nữ bình thường”.
Khương Trầm Ngư “ừm” một tiếng.
“Nàng cũng không phải sư muội của Giang Vãn Y”.
Khương Trầm Ngư vốn định phủ nhận, nhưng trong đầu đột nhiên xuất hiện một ý nghĩ, cuối cùng nói thẳng: “Quả là không phải”.
Ánh mắt Hách Dịch sáng lên, khi nhìn lên gương mặt nàng, ánh mắt ấy trở nên dò xét một cách thâm trầm: “Nàng là ai?”.
“Ngài đoán xem?”.
“Quản sự của thuyền này hết sức cung kính, không dám trái lệnh nàng,
là dược nữ, địa vị của nàng quá cao; là quan viên, đáng tiếc nàng thân
là nữ nhi; là lãnh tụ, nàng còn quá trẻ; nếu đoán nàng chỉ là một thiên
kim tiểu thư vì hiếu kỳ mà đi theo đoàn sứ thần, nàng lại quá thông
minh…”. Hách Dịch nói đến đây liền lắc đầu, “Ta đoán không ra”.
Kỳ thực không phải y ngốc, mà là trên thế gian này, ai mà ngờ được
hoàng đế Bích quốc lại có thể sai phi tử của mình đi làm gián điệp ở
địch quốc? Nghĩ tới thân phận khó xử của mình, lòng Khương Trầm Ngư
chùng xuống, nhưng miệng vẫn cười nói: “Không sao, bệ hạ có thể từ từ
đoán. Vì chuyến đi Trình quốc lần này còn hơn mười ngày, nếu ngài có thể đoán ra thân phận của tiểu nữ, tiểu nữ sẽ làm cho ngài ba việc”.
“Nếu như ta không đoán ra?”.
“Vậy đổi lại là bệ hạ làm cho tiểu nữ ba việc”.
Nét mặt Hách Dịch khẽ thay đổi, tuy vẫn cười nhưng lại thêm vài phần
kinh ngạc: “Nàng phải biết, không nên tùy tiện đặt cược những chuyện như vậy. Trước đây ta có biết một cô gái, cũng đánh cược với người ta, nếu
bị thua, đối phương có thể yêu cầu bất cứ điều gì. Cuối cùng…”.
Khương Trầm Ngư ngắt lời y: “Cuối cùng cô gái đó gả cho người thắng cược chứ gì”.
Hách Dịch nháy mắt: “Hóa ra nàng biết”.
Khương Trầm Ngư cười rạng rỡ: “Tiểu nữ biết”.
“Vậy nàng không sợ sao?”. Giọng nói cố tình nhấn mạnh vẻ mờ ám, vừa khéo dừng lại đúng lúc, đôi mắt Hách Dịch lại càng sáng hơn.
“Tại sao phải sợ? Có thể gả cho Nghi vương là việc bao thiếu nữ hằng mơ ước”.
Bị phản pháo, Hách Dịch quả nhiên không biết đối đáp ra sao, sững ra
một lúc, đành cười khẽ: “Thú vị, thú vị… quả nhiên ta đã lên đúng thuyền mới có thể gặp được tiểu a đầu thú vị như nàng”.
Khương Trầm Ngư nhìn y cười, chậm rãi nói: “Những chuyện thú vị còn
rất nhiều, tiểu nữ đảm bảo, bệ hạ đi chuyến này không uổng phí chút
nào”.
Chuyến đi này, người không thấy uổng phí thực ra là nàng.
Nếu không phải Chiêu Doãn phái nàng đi sứ, nàng không bao giờ có thể
ngờ được rằng, mình có thể kết giao với quân tử của Nghi quốc, hơn nữa
còn cứu mạng y, để y nợ mình món ân tình lớn đến vậy.
Mượn việc đốt pháo hoa, dẫn dụ bách tính bên sông tới xem, sau đó lại dùng cường quyền vô cùng bá đạo trưng thu ngân lượng, khiến cho dân
chúng oán trách. Phải biết rằng trong thiên hạ, tiếng xấu là truyền đi
nhanh nhất, gây ầm ĩ nhất. Cho nên, vơ vét tiền của là giả, truyền tin
mới là thật. Khi người người đều biết quân vương Nghi quốc đang ở trên
thuyền quan đi sứ Trình quốc, Chiêu Doãn có thủ đoạn cay độc hơn nữa
cũng vô ích. Y có thể hy sinh đi lược hai trăm tám mươi người, nhưng có
thể hy sinh được hai nghìn tám trăm người, hai vạn tám nghìn người
không? Chuyện này càng truyền càng rộng, muốn giết người diệt khẩu càng
khó. Cho dù Chiêu Doãn có giận, có tức đi nữa, cũng chỉ có thể trơ mắt
nhìn thuyền bình an xuất cảnh.
Một nguy cơ đã được hóa giải.
E rằng mọi người trên thuyền vừa từ Quỷ Môn quan trở về mà không hay.
Người biết sự tình cũng chỉ có nàng và vị Nghi vương nhìn có vẻ phóng túng hào sản nhưng kỳ thực cực kỳ khéo léo này.
Đánh cược với y để lấy ba lời hứa, thắng đương nhiên là tốt nhất thua thì cũng không sao, thân phận của nàng một khi bại lộ, y có thể làm gì, chẳng nhẽ định lấy nàng chắc? Cho dù nàng cầu xin y, hay là y cầu xin
nàng, sự ràng buộc giữa hai người một khi đã phát sinh, sẽ không biến
mất. Đây chính là quân cờ tuyệt thế, nếu có thể lợi dụng tốt tương lai
tất có chỗ dùng.
M những quân cờ như thế còn rất nhiều ở bờ biển bên kia…
Trời đêm thoáng đãng, rõ ràng cùng trời và đất đó, nhưng phút giây này đối với nàng mà nói, hết thảy đều đã đổi khác.
Lúc đầu, thế giới của nàng rất nhỏ rất nhỏ, chỉ có sân nhà, sau đó
một ngày nọ, vô tình nhìn thấy Cơ Anh, thế giới đã rộng lớn thêm một
khoảng, chuyển động vây quanh Cơ Anh, đến lúc tiến cung, lại mở rộng
thêm khoảng nữa, nhưng rốt cuộc vẫn còn chật hẹp.
Nhưng giờ đây, nàng đang đứng trên mũi thuyền, đối mặt với dòng sông, tất cả ánh sao đều chiếu xuống nàng, gió nhẹ lướt qua, mang theo hương
hoa hai bên bờ sông. Con đường phía trước còn mơ hồ, chẳng phải cũng
chính là còn có vô vàn khả năng đó sao? Chỉ cần nắm chắc những khả năng
này, nàng sẽ có thể có được kết cục như ý nhất.
Đừng sợ hãi nữa.
Đừng hoang mang nữa.
Cũng đừng rụt rè nữa.
Đây chính là trời và đất của nàng.
Phải làm mưu sĩ, không có nghĩa là thần phục Chiêu Doãn, hết thảy
ngọn nguồn chẳng qua là để bản thân được sống tốt hơn. Mà tuân theo sự
sắp đặt của Chiêu Doãn đi sứ Trình quốc không phải là thực sự giúp Chiêu Doãn thành công, chỉ là thể hiện giá trị của bản thân, để chờ đợi một
ngày đứng trên cả vận mệnh. Như nàng giờ phút này, cứu Nghi vương là vì
cứu những kẻ vô tội trên thuyền, cũng là giành được một cơ duyên khác
cho mình.
Trời và đất bao la đến vậy…
Khương Trầm Ngư mải miết nhìn, làn sương trong đáy mắt chầm chậm dâng lên.
Trong mông lung dường như đã có thứ gì mất đi, không thể tìm lại
được, cũng không thể khôi phục lại dáng vẻ ban đầu, nhưng lại có thứ gì
bắt đầu thăng hoa, giống như con nhộng phá kén chui ra, hóa thành bươm
bướm.
“Bệ hạ”. Nàng nghiêng đầu, “Đêm dài dằng dặc, bệ hạ có muốn chơi một ván cờ với A Ngu không?”.
Hách Dịch cười, khóe mắt cong lên, mang theo ba phần đùa cợt ba phần
tự đắc lại kèm một phần tựa như cưng chiều: “Ta chơi cờ rất giỏi đấy”.
Khương Trầm Ngư học điệu bộ y, mỉm cười: “Thật khéo, tiểu nữ cũng vậy”. Gió đêm khẽ thổi, nước sông lững lờ trôi.
Người bên sông nhốn nháo, càng lúc càng đông, tiếng oán thán, tiếng
cầu xin, tiếng cãi vã, hội tụ thành bối cảnh đánh cờ của hai người, cùng với pháo hoa bay vút lên không trung, hóa thành vĩnh viễn.
Giờ Mão ngày hôm sau, khi bình minh chiếu sáng trên sông, đám phu
thuyền bê từng chiếc hòm lên thuyền, sắp thành hàng rồi mở nắp.
Lý quản sự hai mắt vằn máu, trông có vẻ tiều tụy tay bê sổ sách bẩm
báo: “Đêqua tổng cộng có ba ngàn sáu trăm bảy mươi chín người xem pháo
hoa, đều nộp tiền mặt. Trừ một số ít còn chưa nộp ra, tổng cộng thu được bốn nghìn hai trăm linh chín lượng bạc. Đã kê khai đầy đủ, mời cô nương xem qua”.
Khương Trầm Ngư nhìn những hòm bạc đó, mỉm cười bình thản.
Ngược lại, Hách Dịch đang đánh cờ với nàng hoàn toàn không còn dáng
vẻ gà gật buồn ngủ lúc trước, y nhảy phắt xuống khỏi ghế, xông tới chỗ
những hòm bạc đó, sung sướng nói: “Rất tốt rất tốt, đều thu được cả rồi, đều là của ta…”, y đang định giơ tay ôm bạc, Khương Trầm Ngư liếc mắt
ra hiệu, đám phu thuyền lập tức đóng nắp hòm lại.
Hách Dịch sửng sốt quay đầu lại hỏi: “Chẳng phải trả cho ta sao?”. “Ai nói là trả cho bệ hạ?”.
“Rõ ràng các ngươi nợ ta bốn nghìn…”.
Khương Trầm Ngư giơ tay, Lý quản sự hiểu ý đưa ngay bàn tính của lão
cho nàng, nàng đón lấy gẩy gẩy, vừa tính vừa nói: “Chúng ta đâm chìm
thuyền của bệ hạ, theo lý phải đền bù tiền hàng trên thuyền tổng cộng
hết bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lượng. Nhưng bây giờ bệ hạ đang ở
trên thuyền của chúng ta, ăn của chúng ta dùng đồ của chúng ta, mỗi ngày ba bữa một trăm lượng, còn có điểm tâm, trà nước, đồ ăn đêm, tính thêm
năm mươi lượng, còn các khoản quần áo giày dép, cùng đồ dùng thường
nhật, tính sơ sơ thêm tám mươi lượng. Còn tiền trả cho bọn thị nữ, tiền
thưởng cho đám người hầu…”.
Hách Dịch cuống lên: “Đợi đã, tại sao ta phải chi tiền thưởng?”.
Nhưng Khương Trầm Ngư chẳng thèm đếm xỉa y, gẩy hạt bàn tính nhanh
như bay: “Lại thêm tiền phòng, một ngày vị chi tiêu hết ba trăm mười
lượng, sau mười lăm ngày đến Trình quốc, tổng cộng là bốn nghìn sáu trăm năm mươi lượng. Còn nữa, chúng ta đưa Nghi vương đến Trình quốc, Nghi
vương thân phận tôn quý, phải tính với giá của khách quý, vậy thì thêm
một nghìn lượng lộ phí. Như vậy trừ đi tiền bồi thường cho bệ hạ, bệ hạ
phải trả thêm cho chúng ta một nghìn không trăm hai mươi tư lượng bạc
nữa. Tiểu nữ biết bây giờ bệ hạ không có tiền, không sao, đợi đến khi
thuyền cập bến Trình quốc, chúng thần sẽ phái người đi cùng bệ hạ đến
trạm dịch lấy tiền, và sẽ không tính món tiền công xe ngựa, người đưa
này”.
Hách Dịch đờ người ra nhìn nàng, mãi lâu sau mới trút một hơi thật
dài, cười khổ nói: “Bây giờ ta nhảy khỏi thuyền còn kịp không?”.
Khương Trầm Ngư tươi cười: “Lẽ nào bệ hạ chưa nghe câu lên thuyền dễ xuống thuyền khó?”.
Hách Dịch giơ ngón tay, chỉ vào nàng một lúc lâu, cuối cùng đành bất
lực vỗ vào trán mình: “Nàng lợi hại, nàng lợi hại, đánh cờ giỏi, tính
toán cũng tinh, ta phục rồi”. Vừa nói vừa đi về phía khoang thuyền.
Khương Trầm Ngư gọi: “Bệ hạ, cờ vẫn chưa đánh xong”.
“Không đánh nữa! Tránh lát nữa thua rồi phải nộp bạc cho nàng, bản
vương phải đi ngủ đã, không ai được quấy rầy…”, tiếng nói càng lúc càng
xa, mấy tì nữ xung quanh không nhịn được cười rộ lên.
Lý quản sự hỏi: “Cô nương, chỗ bạc này chuyển xuống khoang đáy nhé?”.
“Lão sai mấy người ở lại đây. Đợi qua giờ Ngọ thì đem số bạc này hoàn trả cho dân chúng”.
“Hả?”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười: “Nhưng không được nói là Nghi vương trả, mà nói là hoàng thượng chúng ta nghe tin Nghi vương lạm thu của dân, cho
nên xuất tiền bồi thường cho họ”.
“Vâng”. Lý quản sự tỏ vẻ đã hiểu.
Khương Trầm Ngư nhìn ván cờ mới chơi được một nửa trên bàn, thực ra
kỳ lực của nàng và Hách Dịch tương đương, giao đấu một đêm vẫn chưa phân thắng bại, tiếp tục đánh nữa, Hách Dịch vị tất đã thua. Nhưng y không
đánh nữa, đương nhiên vì thấy thu được nhiều bạc như vậy, tức là sự việc đã được lan truyền rộng khắp, tính mệnh không còn đáng ngại, cho nên nể mặt nàng mà rời đi.
Còn bản thân hóa giải một trận mưu sát, tuy có thể thoái thác là
không biết hoàng đế muốn giết Hách Dịch, nhưng dù sao đi nữa, chung quy
vẫn làm hỏng đại sự của Chiêu Doãn, cho nên, dùng danh nghĩa của Chiêu
Doãn để phát khoản tiền này, thay y giành lấy tiếng thơm, mua chuộc lòng người, cũng coi là một cách bổ cứu. Bây giờ đang là lúc dùng người,
Chiêu Doãn dù giận nàng, nhưng cũng sẽ không đối phó với nàng.
Chuyện này đến Trình quốc, nếu sự thành, y sẽ vui vẻ, có lẽ không truy cứu nữa.
Cho dù ra sao, chuyện cũng đã làm rồi, người cũng đã cứu rồi, có
những việc nàng có thể khống chế, nhưng cũng có những việc lo nghĩ cũng
chẳng ích gì, đến đâu hay đến đó.
Khi thuyền cập bến Thiên Trì trấn, khắp trấn là một ầu không khí trời êm bể lặng, khi đám thuyền viên mua hàng hóa, Khương Trầm Ngư ngóng
nhìn dòng người qua lại và bến thuyền dường như không có gì khác với
ngày thường, bất giác trào dâng một nỗi bâng khuâng.
Âm mưu kinh tâm động phách đêm qua rốt cuộc là từng thực sự tồn tại,
chỉ là vì bị nàng phá hoại mà không thể diễn ra, hay chỉ là nàng quá
nhạy cảm đa nghi, tự tưởng tượng ra?
Cho dù thế nào, ánh dương sáng rỡ này chiếu trên cánh tay của những
thuyền phu, những giọt mồ hôi sáng lấp lánh; rọi vào gương mặt tươi cười của đám thị nữ, những tiếng cười nói vui tai như chuông kêu – sinh mệnh tươi đẹp là thế.
Chỉ cần còn tồn tại là tốt rồi.
Nghĩ đến đây, nàng nhấc váy bước xuống thuyền, nắm một nhúm đất, bỏ vào túi thơm đeo bên hông.
Bỉ thử ly ly, hành mại thê thê.
Bích hề Bích hề, ngô tâm như ế(3).
Một cầu cha mẹ mạnh khỏe, ơn dưỡng dục biết bao sâu nặng; Hai cầu
công tử bình an, nét mặt vui cười những ngóng trông; Ba cầu thịnh thế
bình an, đợi ngày ta trở về.
Ngày thứ mười bảy trên biển, đương tầm tháng sáu.
Có lẽ trời cao phù trợ, hành trình tiếp theo hết sức thuận lợi, dọc
đường sóng êm biển lặng, thuyền viên đều tắc lưỡi nói, nhất định vì có
Nghi vương trên thuyền, khí tượng phúc quý của quân vương đã che chở cho họ.
Khương Trầm Ngư nghe xong chỉ cười nhạt, vị Duyệt đế(4) đó không mang theo tai họa là tốt lắm rồi. Có điều kể ra cũng lạ, tuy họ đã đánh
cược, nhưng Hách Dịch hình như không hề bận tâm, không những không dò
hỏi người khác về lai lịch của nàng, mà còn từ sau lần đó, cũng tuyệt
đối không nhắc đến chuyện đó nữa.
Y không nhắc, Trầm Ngư đương nhiên càng không đả động tới.
Cứ thế nửa tháng trôi qua, đúng như lịch trình dự kiến, giờ Tí ngày
mùng một tháng sáu, đội thuyền cập bến hải cảng lớn nhất của Trình quốc, cũng là đế đô của Trình quốc – Lô Loan.
Khi Trầm Ngư cùng Giang Vãn Y ra khỏi khoang thuyền, dù đã chuẩn bị
tâm lý, nhưng nhìn thấy đội quân đứng sắp thành hàng tăm tắp nghênh đón, nàng vẫn cảm thấy chấn động.
Đội quân này mười người một hàng, xếp thành mười chín hàng, chiều cao tương đương, thân mặc áo đen, thắt lưng vải gấm, đội mũ bạc cắm lông vũ đỏ và mặc áo khoác lông cùng màu, tỏa sáng lấp lánh dưới ánh dương, khi gió thổi, lá cờ thêu chữ “Trình” mang đồ đằng kim xà bay phần phật, thể hiện vẻ uy vũ khó diễn tả thành lời.
Mà trong số đó, người bắt mắt nhất chính là một nam tử trẻ tuổi cưỡi bạch mã.
Con bạch mã rất cao lớn, nam tử lại hơi thấp bé.
Tuổi tác của hắn chừng ngoài hai mươi, mặc một bộ khôi giáp màu đỏ,
ngũ quan sắc nét, thần sắc nghiêm trang, trên gương mặt sát khí đằng
đằng, nhìn là biết được tôi luyện trên sa trường, khiến người ta trông
mà sợ hãi.
Khương Trầm Ngư thầm nghĩ, đây chắc là Hàm Kỳ, Hồng Dực tướng quân
lừng danh của Trình quốc, con thứ của Trình vương Minh Cung. Nghe nói
người này võ nghệ phi phàm, kiên nhẫn thiện chiến, khá được lòng quân,
nhưng tâm địa cay nghiệt lại vui giận thất thường, đặc biệt kỵ húy người khác nói hắn thấp bé.
Nghe nói binh mã đô giám tiền nhiệm của Trình quốc là Mã Khang muốn
lấy lòng hắn, đặc biệt tìm một con Hãn Huyết Bảo Mã chỉ mới ba tháng
tuổi, cười nói: “Dắt con ngựa nhỏ này của ta đến dâng cho nhị hoàng tử,
tiểu mã phối với tiểu nhân mời họp”.
Hàm Kỳ không nói lời nào, nhưng khi bọn thuộc hạ dắt con bảo mã đó
đến trước mặt, hắn liền một đao chém rơi đầu con ngựa nhỏ, máu tươi bắn
lên toàn thân Mã Khang, khiến cho tất cả mọi người ở đó đều hồn bay
phách tán. Duy chỉ có tam hoàng tử Di Phi đứng bên cạnh cười hì hì:
“Tiểu nhân phối tiểu mã, vậy thì đại nhân phải phối với đại kỵ đúng
không? Cũng được, ở đây Mã đại nhân lớn tuổi nhất mà trong bách kỵ voi
là lớn nhất, Mã đại nhân từ nay về sau cưỡi voi lên triều đi!”.
Mã Khang tự biết nịnh bợ nhầm chỗ, không những phạm phải chỗ kỵ húy
của Hàm Kỳ, mà còn vì hành động nịnh bợ lại quá rõ ràng, nên đồng thời
cũng đắc tội với các hoàng tử khác, hối hận không sao kể xiết, nhưng Di
Phi đã ra lệnh, sao dám làm trái đây, từ đó về sau đành cưỡi voi lên
triều, trông thì oai phong, nhưng thực ra xấu hổ, trở thành trò cười một dạo.
Cũng vì thế, trước lúc xuất hành, Khương Trọng từng tổng kết: “Trong
ba hoàng tử của Trình vương, thái tử Lân Tố tầm thường vô năng, là một
kẻ không có chủ trương; nhị hoàng tử Hàm Kỳ bạo ngược tàn nhẫn, tuyệt
đối không được chọc giận, tam hoàng tử Di Phi trông có vẻ chơi bời,
nhưng lại là kẻ nham hiểm, cần phải cẩn thận đề phòng”.
Bây giờ, Khương Trầm Ngư nhìn Hàm Kỳ cách xa mười trượng, nhớ đến lời dặn dò của phụ thân, lòng bỗng trào dâng một nỗi thổn thức vô cớ – Hàm
Kỳ và Hách Dịch đều là những người nàng từng chỉ nghe kể trong những lời đồn thổi, tựa như những người sống trong thế giới khác, vĩnh viễn không thể gặp gỡ, giờ đây lần lượt từng người lại xuất hiện trước mặt nàng,
thật là không thể không nói thế sự khó lường.
Khi nàng đang chìm trong suy nghĩ, Hàm Kỳ quất ngựa đi đến đầu bến
cảng, chắp tay nói với bọn Nghi vương đã xuống thuyền: “Quý khách đến,
không tiếp đón từ xa, mong được lượng thứ!”.
Hách Dịch đương định đáp lễ, một giọng nói khác đột nhiên từ xa vọng
tới: “Nhị ca thật quá đáng, nghênh tiếp khách quý cũng không gọi đệ đệ
đi cùng, sợ đệ làm mất mặt huynh sao?”.
Giọng nói biếng nhác, mang theo vài phần ranh ma lẫn châm chọc, nhưng lọt vào tai mỗi người một cách hết sức rõ ràng.
Khương Trầm Ngư quay đầu, thấy ba kẻ giống như tùy tùng theo một thiếu niên đi tới.
Sở dĩ nói “giống như” tùy tùng, là vì ba người đó khí chất đều không
giống tùy tùng, nhưng khi họ đi cạnh thiếu niên đó họ đều tụt hạng xuống thành tùy tùng.
Thiếu niên đội một chiếc mũ xiêu xiêu vẹo vẹo, mặc bộ y phục có hơn
mười màu, lùng bùng xốc xếch, không vừa người, nút áo ở cổ còn chưa cài, để lộ làn da ngăm ngăm và xương quai xanh, dáng đi cũng lả lướt nghiêng ngả.
Không chỉ gã như thế, ba tên tùy tùng của gã cũng đi như lướt.
Vì thế, khi bốn người này đi xuyên qua đội ngũ đón khách, giống như
bốn con sâu xuyên qua ngọc mễ, những chỗ đi qua liền trở nên hỗn độn.
Khương Trầm Ngư thấy thích thú, không rời mắt nổi. Gã chính là tam hoàng tử của Trình vương – Di Phi sao?
Nhưng khi thiếu niên đó tới gần, gương mặt trở nên rõ ràng, ngũ quan
cực kỳ tuấn mỹ, nhưng biểu tình tầm thường, ánh mắt chớp nhá, lại thêm
toàn thân phục sức lòe loẹt hoa hòe hoa soi, trông gã không giống hoàng
tử mà giống lưu manh hơn.
Ánh mắt của tên “lưu manh” này quét một vòng qua mặt mọi người, đặc
biệt nhìn nàng lâu hơn một chút, sau cùng nói: “Xin lỗi xin lỗi. Nghi
vương bệ hạ, Đông Bích hầu, Phan tướng quân, các vị đi đường vất vả, cho nên tiểu vương cố ý chuẩn bị một tiết mục, coi như để chào đón các vị”.
Nói đoạn gã vỗ tay, một tràng tiếng trúc tiếng tơ dìu dặt nổi lên,
tấu khúc “Dương xuân bạch tuyết”, đồng thời một cỗ xe ngựa xuất hiện.
Khương Trầm Ngư chưa bao giờ thấy cỗ xe ngựa nào lớn đến thế, lớn
bằng một căn phòng, phía dưới có hai mươi tư cặp bánh xe, do hai mươi tư con tuấn mã kéo, thong thả lại gần.
Thân xe chia làm hai phần, nửa trước là một mặt sàn, mấy nhạc sư ngồi trên đó, người tấu đàn, người thổi, người gõ. Mà nửa sau là thùng xe,
bấy giờ bốn cánh cửa xe đồng ạt mở ra, hết thiếu nữ này đến thiếu nữ
khác từ trong bước ra.
Những thiếu nữ này ai nấy dung mạo diễm lệ, mặc áo lụa kim tuyến gần
như trong suốt, để lộ đôi chân thon dài, trắng trẻo, gợi cảm mà yêu mị.
Cả đội quân vốn chỉnh tề nghiêm trang đã có chút rối loạn trước sự
xuất hiện của bốn người Di Phi, nay những cô nương như hoa như ngọc lao
tới, lại càng trở nên hỗn độn, mất hết uy phong.
Các thiếu nữ chạy đến bến tàu, sắp thành một hàng đằng sau Di Phi,
không hề ngượng ngùng đánh giá các khách nhân, mồm năm miệng mười nói:
“Ai da, vị mặc áo đỏ kia là Nghi vương trong tồn tại sao? Ngài tuấn tú
quá…”.
“Ta thích vị mặc áo xanh kia, một lang quân tuấn nhã làm sao, có cảm giác thoát tục xuất trần…”.
“Các ngươi ngốc chết đi được, nếu là ta, ta sẽ chọn vị tướng quân
kia, nhìn thân thể chàng cường tráng thế, bản lĩnh đối phó với nữ nhân
chậc chậc… cứ phải gọi là…”.
Nghe thấy những lời xằng bậy đó, gương mặt vốn đã thâm trầm của Hàm
Kỳ lại càng tối sầm, cuối cùng không nhịn được mắng: “Trước mặt Nghi
vương hạ, sao có thể dung túng cho bọn chúng làm càn được, còn không bảo bọn oanh oanh yến yến này của đệ cút hết đi!”.
Di Phi kêu lên một tiếng, đáp: “Chính vì đệ biết Nghi vương giá đáo,
cho nên mới đặc biệt dẫn đám én vàng này đi cùng. Từ lâu đã nghe nói
Nghi vương phong lưu vô song, không thể thiếu mỹ nhân bầu bạn, chuyến
này lần đầu tới Trình quốc, đương nhiên phải tặng cái ngài thích, đầu
tiên là dâng mỹ nhân Trình quốc của chúng ta… Không biết đám mỹ nữ này
có thể lọt vào mắt xanh của bệ hạ không?”.
Khương Trầm Ngư bỗng hiểu ra: Di Phi làm vậy rõ ràng muốn cướp uy thế của Hàm Kỳ. Gã biết Hàm Kỳ sẽ tới nghênh đón đoàn thuyền, cũng biết Hàm Kỳ xưa nay tự hào vì quân luật nghiêm minh, cho nên, khi Hàm Kỳ nghênh
đón Nghi vương, nhất định sẽ càng làm cho không khí trở nên vô cùng uy
nghiêm. Vì thế, gã cố ý mang theo đám nhạc sư và mỹ nữ đến, làm cho nơi
này trở nên hỗn loạn… Kỳ lạ là gã khiêu chiến Hàm Kỳ cũng được, nhưng
không sợ hành động ngông cuồng, khinh mạn khách quý, sẽ khiến người đời
dị nghị sao?
Đang lúc nghi hoặc, lại thấy Nghi vương biến sắc, nhìn chằm chằm Di
Phi, đột nhiên bước lên trước một bước, nắm chặt tay gã, cảm động nói:
“Tam hoàng tử đúng là tri kỷ của trẫm!”. Nói rồi buông tay ra, quay
người, hai cánh tay cực kỳ tự nhiên kéo hai mỹ nhân lại, lôi họ ra khỏi
hàng, mỗi bên ôm một người, hỏi: “Nàng tên gì?”.
Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy ảo giác tiêu tan, nàng nhầm rồi! Đối
với vị Duyệt đế này, e rằng kiểu tiếp đón này mới là thích hợp nhất…
Thiếu nữ cắn môi, cười ngọt lịm: “Thiếp tên là Châu Viên”.
“A, Châu Viên, tên đẹp lắm”. Hách Dịch quay đầu, hỏi người kia: “Thế còn nàng?”.
Thiếu nữ kia chớp mắt: “Thiếp là muội muội của tỉ ấy, bệ hạ đoán xem thiếp tên gì?”.
“Châu (Trư) Đầu?”.
“Đáng ghét quá, người ta tên là Nhuận Ngọc!”. Ba người vừa cười nói, vừa nhẹ nhàng lên xe.
Sắc mặt Hàm Kỳ càng khó coi hơn, Di Phi lại càng cười bỉ ổi hơn, nói
với đám thiếu nữ phía sau lưng: “Các ngươi thật vô dụng bị Châu Viên,
Nhuận Ngọc qua mặt rồi…”.
Gã vừa nói vậy, đám thiếu nữ lập tức tỉnh ngộ, cùng nhau xông lên,
vây chặt lấy Giang Vãn Y và Phan Phương, tranh nhau nói: “Tướng quân
tướng quân, để Minh Châu đưa ngài lên xe nhé… Nghe nói hầu gia y thuật
thần thông đúng không? Ai da, mấy hôm nay thiếp đều cảm thấy hơi đau
ngực…”.
Giữa quang cảnh diễm lệ ấy, Giang Vãn Y toàn thân cứng đờ và Phan
Phương mặt không biểu cảm bị đám thiếu nữ kẻ lôi người kéo lên xe ngựa,
những người còn lại chỉ biết đưa mắt nhìn nhau.
Còn Di Phi thu ánh mắt nhìn theo bọn Giang Vãn Y lại, nhìn Trầm Ngư,
nói: “Vị này chắc là Ngu cô nương – sư muội của Đông Bích hầu?”.
Ánh nắng chớm hạ tỏa những tia sáng màu vàng nhạt, rọi trên chiếc mũ
cao cao và y phục sặc sỡ, trong một tích tắc, sự ngược sáng khiến gương
mặt gã trở nên mơ hồ, nhưng ngay giây sau, nhìn kỹ lại, rõ ràng vẫn là
dáng vẻ tà khí khinh mạn như trước. Gã giơ một tay ra, làm điệu bộ ân
cần dìu bước: “Ngu cô nương, mời đi cùng xe tiểu vương”.
Khương Trầm Ngư im lặng nhìn gã một lúc, chợt nghiêng đầu nói với
những người phía sau: “Đừng ngây ra nữa. Kẻ nào cần dỡ hàng thì dỡ đi,
kẻ nào cần ghi danh thì ghi danh đi, tất cả thu xếp ổn thỏa xong theo ta về dịch quán”.
Đám người nhận được mệnh lệnh, vội vàng bắt đầu hành động. Khương
Trầm Ngư phẩy tay áo cười nhạt với Di Phi: “Xe ngựa của tam hoàng tử cao quá, tiểu nữ ngồi không tới, đi sau xe thì hơn”.
Nói rồi, chẳng buồn nhìn cánh tay giơ trước mặt nàng lấy một cái,
lách người lướt qua, đi thẳng đến trước mặt Hàm Kỳ, ngẩng đầu nhìn Hàm
Kỳ trên lưng ngựa, nói: “Phiền nhị hoàng tử sai người dẫn đường cho
chúng ta”.
Ánh mắt Hàm Kỳ sâu thẳm, mang theo vài phần thăm dò, nhưng rốt cuộc vẫn vung roi quất ngựa, tự mình dẫn đường.
Khương Trầm Ngư đã dẫn theo đoàn sứ giả rầm rộ như thế cùng Hàm Kỳ rời khỏi bến tàu.
Nàng cảm nhận được ánh mắt hừng hực của Di Phi trên lưng mình, thủy
chung vẫn nhìn nàng chằm chằm không chớp mắt, dường như muốn đốt cháy
nàng.
Nàng nhếch miệng, nở nụ cười đầy trấn tĩnh.
Vừa xuống thuyền liền chứng kiến màn kịch huynh đệ đối chọi đặc sắc
nhường ấy, không thuận nước đẩy thuyền một phen thì quả là không được.
Mâu thuẫn giữa Hàm Kỳ và Di Phi đã thật sự đến giai đoạn gay gắt,
trước mặt sứ thần nước bên cũng không chịu che giấu một chút hay là đôi
huynh đệ này hợp tác diễn kịch hay, nhân đó làm mọi người mất cảnh giác?
Cho dù thế nào, có thể khẳng địnhđiều là – đôi chân này từ trên
thuyền bước lên đất Trình quốc, là đã mặc định rằng màn kịch lớn bắt đầu mở màn, cho dù diễn phân đoạn gì, nội dung gì, hết thảy đều liên quan
đến nàng.
Đã chắc chắn không thể làm người đứng xem giữ mình thanh tịnh, vậy
thì, hãy biến bị động thành chủ động, góp thêm một vai diễn đặc sắc của
riêng mình đi.
Ánh dương tháng sáu tươi đẹp như thế, nhưng phía chân trời, gió cuộn mây trào.
Khương Trầm Ngư dẫn mọi người đến dịch quán, sửa soạn hành trang phân chia phòng ở, đợi khi mọi thứ đều được bố trí ổn thỏa đã là giờ Thân,
Lý quản gia báo cáo, hầu gia và tướng quân đều đã trở về.
Nàng vội vã ra đón, vừa mới vén rèm đã nhìn thấy Giang Vãn Y cùng
Phan Phương từ bên ngoài bước vào, sắc mặt Phan Phương vẫn bình tĩnh,
không có gì khác biệt so với bình thường, còn Giang Vãn Y lại khá nhếch
nhác, toàn thân thanh y nhau nhúm, cổ áo cũng bị kéo rách trên lớp áo
trong còn in dấu môi son…
Khương Trầm Ngư che miệng, trêu: “Sư huynh thật có diễm phúc…”.
Giang Vãn Y thở dài, bất lực nói: “Muội đừng có giậu đổ bìm leo nữa
đi, vừa rồi quả là một phen hãi hùng nhất trong đời hành y của ta, nếu
không nhờ Phan tướng quân, e rằng bây giờ ta đã bị các cô nương đó ăn
sống nuốt tươi rồi…”.
Khương Trầm Ngư nhớ lại dáng vẻ bị ép buộc lên xe của hắn lúc trước,
không khỏi bật cười, thấy Giang Vãn Y bối rối, liền vội vàng ho một
tiếng, lấy lại vẻ nghiêm túc: “Các huynh làm sao thoát được ra? Muội còn tưởng các huynh sẽ ăn cơm tối ở phủ tam hoàng tử chứ?”.
Hai thị nữ đưa Phan Phương về phòng y, Giang Vãn Y nhìn theo bóng
Phan Phương, lúc này mới thuật lại chuyện đã xảy ra. Thì ra sau khi hắn
và Phan Phương lên xe, liền bị đưa tới yến tiệc khoản đãi ở phủ tam
hoàng tử.
Trong bữa tiệc, đám thiếu nữ đó cũng không rời đi, vây quanh hỏi này
hỏi nọ, da mặt y mỏng, trước những câu hỏi về bệnh tình của đối phương,
đều trả lời nghiêm túc, kết quả không ngờ những thiếu nữ đó nhận ra điều này, còn mượn cớ mình đau chỗ này chỗ kia, tóm tay hắn sờ vào người họ… Các nàng, kiều diễm như thế, y như ngồi trên thảm đinh; còn Nghi vương
hai tay ôm hai người, cực kỳ thích thú; duy chỉ có Phan Phương, dù thiếu nữ nào sán lại gần y, trêu chọc y, y cũng đều không cất lời, ngồi im
phăng phắc, cuối cùng đột nhiên mở miệng: “Bây giờ mấy giờ rồi?”.
Một thiếu nữ thấy y lên tiếng, vui mừng đáp: “A, giờ Mùi ba khắc, sắp tới giờ Thân rồi”.
Phan Phương lập tức đứng dậy, khiến thiếu nữ ngồi trên đùi y suýt
chút nữa thì ngã lăn ra đất, còn y vẫn lạnh lùng, chỉ nói một câu: “Ta
phải đi thắp nhang cho vong thê”.
Hoàn toàn không bận tâm đến đám quan viên Trình quốc bồi tiếp ở đó, dứt khoát rời đi.
Giang Vãn Y thấy y đi, cũng cuống quýt tìm cớ chuồn mới có thể về dịch quán.
Khương Trầm Ngư “à” một tiếng, nhớ ra Phan Phương đúng là có mang
theo bài vị của Tần nương lên thuyền, giờ Thân mỗi ngày đều thắp ba nén
hương, chưa từng gián đoạn.
Nàng dường như lại quay về cái ngày Hy Hòa thổ huyết, ngày đó trong
cung hoàng hậu lâm nạn, ngoài cung Tần nương vong mạng, còn trong nhà
canh thiếp bốc cháy…
Bây giờ nhớ lại, tất cả những chuyện chẳng lành dường như đều bắt đầu từ ngày hôm đó…
Giang Vãn Y đảo mắt, chuyển chủ đề: “Nói ra, muội không cùng lên xe, thật làm ta bất ngờ”.
Khương Trầm Ngư mỉm cười: “Chốn ôn nhu, nơi tiêu hồn(5), muội đi há chẳng phải bất tiện sao?”.
“Nếu muội đến, những cô nương đó có lẽ sẽ không ngang ngược đến vậy”.
Khương Trầm Ngư cười, lại nghiêm trang nói: “Kỳ thực muội không lên xe, ngoài lý do không tiện ra, còn vì hai nguyên nhân”.
“Hử?”.
“Trình vương bệnh nặng, đang là lúc tranh quyền đoạt vị, ba vị hoàng
tử không ai nhường ai, tranh giành trong tối ngoài sáng. Hôm nay tiếp
giá, rõ ràng là Hàm Kỳ đến trước, bọn huynh lại lên xe ngựa của Di Phi
cùng Nghi vương, truyền đến tai người ngoài, chẳng phải tuyên bố Nghi
quốc và Bích quốc đều đứng về phía Di Phi sao? Thế cục chưa rõ, không
nên xác định lập trường quá sớm, cho nên, muội dẫn mọi người đi theo Hàm Kỳ, như thế, người ta sẽ không hiểu chúng ta rốt cuộc giúp vị hoàng tử
nào, đó là nguyên nhân thứ nhất”.
Giang Vãn Y mắt sáng lên, biểu tình lộ rõ vẻ trang nghiêm.
“Muội tuy là quân cờ ngầm của hoàng thượng, nhưng, nếu như hành sự
quá kín đáo, thì sẽ không có địa vị, có những chuyện muội sẽ không được
tham dự, ví như…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ngừng lại, mắt nhìn cửa
phòng.
Giang Vãn Y quay người, thấy một tên tùy tùng tay bưng thư tín vội vã bước tới quỳ xuống, trình thư lên rằng: “Đây là thiếp mời gửi tới từ
hoàng cung, nói tối nay Trình vương thiết yến trong Tú Minh cung, mời
hầu gia tới dự”.
Giang Vãn Y tiễn đón lấy, mở ra xem, thấy trên phần tên khách mời viết tên ba người: Phan Phương, Giang Vãn Y.
Và Ngu thị.
Hắn quay đầu, nhìn thấy ánh mắt đầy thâm ý của Khương Trầm Ngư, đột
nhiên hiểu ra ý nàng. Quả nhiên, nếu chỉ là sư muội của hắn, một dược
nữ, thân phận này không đủ tư cách cùng hắn vào hoàng cung dự tiệc, phải để người khác biết rằng, nàng không chỉ là sư muội của Đông Bích hầu,
hơn nữa còn là một sư muội rất xuất sắc.
Trước đó nàng dẫn theo các sứ thần còn lại lựa chọn nhị hoàng tử, từ
góc độ nào đó tỏ rõ với người ngoài, nhìn bề ngoài đoàn sứ thần Bích
quốc là do Đông Bích hầu và Phan tướng quân đứng đầu, nhưng thực ra thực quyền lại nằm trong tay Ngu thị. Vì thế, trong thư mời của Trình vương
gửi tới mới có tên nàng.
Đi một bước nhìn trước ba bước, khống chế toàn cục.
Tâm cơ như thế, mưu trí như thế đều giấu trong đôi mắt thu trong veo, không sắc nhọn, dịu dàng mà lại cứng cỏi ấy…
Giang Vãn Y khẽ thở dài trong lòng, không nhận ra được mình rốt cuộc
là khâm phục nhiều hơn một chút, hay là thương xót nhiều hơn một chút,
hoặc là còn xen lẫn một sự bi ai kỳ lạ, giống như nhìn thấy một cây hoa
khuynh quốc bị buộc phải rời đất mẹ, đem trồng vào mảnh đất cằn cỗi
không thích hợp, nhưng dù hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, nó vẫn bừng nở
diễm lệ như xưa.
Lúc này Hoài Cẩn bưng một chiếc khay tiến vào, khom người thưa: “Tiểu thư, y phục tiểu thư cần”.
Khương Trầm Ngư gật đầu, nhấc mảnh lụa trên chiếc khay ra, bảo Hoài
Cẩn đưa khay đến trước mặt Giang Vãn Y, nói: “Còn một canh giờ nữa là
đến giờ dự yến, huynh mau thay áo, sau một tuần hương, chúng ta tập hợp ở đây, cùng nhau xuất phát”.
Giang Vãn Y ngó y phục trong khay, sững người: “Muội… chuẩn bị y phục cho ta?”.
Hoài Cẩn cười nói: “Tiểu thư nói hầu gia có lẽ thích màu xanh, cho
nên chỉ mặc áo xanh, vốn cực kỳ trang nhã, nhưng hôm nay là cung yến,
lại là đến chúc thọ chủ nhà, mặc quá nhã e là thất lễ, cho nên đã chuẩn
bị một chiếc áo khác cho hầu gia. Hầu gia xem xem có ưng không ạ?”.
Trên chiếc khay bằng gỗ mun, trường bào màu tím thẫm loang loáng như
nước, vạt áo và tay áo đều dùng chỉ bạc cực kỳ tinh xảo thêu hình hạc
tiên tung cánh trên biển mây, phối cùng chiếc thắt lưng chạm rồng hình
rồng cuộn được dệt bằng ngân tơ, đeo thêm ngọc bội Noãn Ngọc Trúc Tiết
màu đỏ tươi.
Chưa mặc lên người, Giang Vãn Y đã biết chiếc áo này rất hợp với mình. Khương Trầm Ngư nói: “A Ngu vượt phận rồi”.
“Đâu có, là ta suy nghĩ còn thiếu chu đáo, phải cảm ơn muội đã nhắc nhở”.
“Đã vậy thì A Ngu xin được cáo từ trước”. Khương Trầm Ngư nói đoạn
cùng Hoài Cẩn quay người bước ra khỏi hoa sảnh đi qua một gian phòng,
thấy một thị nữ đang đứng ngoài cửa cắn môi lưỡng lự, vẻ mặt khó xử,
liền hỏi: “Sao thế?”.
Thị nữ này quay đầu lại thấy nàng, như thấy cứu tinh: “A Ngu cô
nương, cô nương tới thật đúng lúc, tướng quân không chịu thay áo…”.
Trầm Ngư nhìn chiếc áo trên tay nàng ta, lại nhìn cửa phòng khép chặt, nói: “Đưa ta”.
Thị nữ đưa chiếc áo cho nàng, Hoài Cẩn đang định nói, Trầm Ngư “suỵt” một tiếng, gõ cửa, không có tiếng đáp lại, nàng bèn mở cửa bước vào.
Trong căn phòng bài trí tinh xảo đẹp mắt, Phan Phương đang ngồi
khoanh chân, ngắm nhìn bức tranh trên tường, tựa như lão tăng thiền
định.
Mà người trong bức họa chính là Tần nương.
Trầm Ngư mím môi, bước tới đặt y phục lên mặt bàn, rồi nhìn bức họa đó, trầm giọng nói: “Không giống”.
Gương mặt vốn không chút cảm xúc của Phan Phương bị hai tiếng giản đơn này của nàng làm dậy sóng, y ngước mắt nhìn nàng.
Trầm Ngư cười với y: “Bức họa này vẽ không giống chút nào. Ta nhớ cằm của Tần tiên sinh phải nhọn hơn một chút, dưới đuôi mắt trái còn có một nốt ruồi nhỏ”.
Ánh mắt Phan Phương lóe lên vẻ kinh ngạc.
Trầm Ngư nói tiếp: “Đó là lần nghe kể chuyện hay nhất trong cuộc đời
ta, chỉ là khi ấy không biết đó lại là lần duy nhất. Vẻ tao nhã tuyệt
thế đó như còn rõ ràng trước mắt, dư âm vang vọng như còn bên tai”.
Ánh mắt Phan Phương ảm đạm trở lại, bị gợi đến chuyện đau lòng, trông y càng u uất.
Khương Trầm Ngư nói: “Bức họa này… tướng quân tìm người vẽ đúng không?”.
Phan Phương “ừ” một tiếng.
“Mực thô bút nhạt, tranh vẽ ra chẳng bằng một phần vạn của người
thật. Nếu tướng quân không chê, A Ngu xin vẽ một bức họa Tần tiên sinh,
tuy không dám tự khen là Đai Ngô áo Tào(6) , nhưng cũng giống hơn bức
này đến vài phần”.
Mi mắt Phan Phương run run, y kích động đứng dậy, nói: “Thật chứ?”
Khương Trầm Ngư mỉm cười: “A Ngu sao dám lừa tướng quân? Chỉ có điều, bây giờ phải nhờ tướng quân giúp cho một việc nhỏ thay bộ y phục này
vào, đừng để người bên cạnh khó xử”. Nói đoạn đưa y phục đến trước mặt
y.
Phan Phương liếc bộ y phục đó một cái, rồi lại nhìn nàng, không nói
gì cầm lấy rồi vào phòng trong thay áo. Khương Trầm Ngư thở phào nhẹ
nhõm, quay người bước ra ngoài, Hoài Cẩn đang đợi ở ngoài, thấy vậy bèn
hỏi: “Thế nào rồi?”.
Khương Trầm Ngư nói với thị nữ kia: “Tướng quân thay áo xong, ngươi giục ngài đến tiền sảnh, đừng để lỡ giờ”.
“Vâng”.
Nàng quay người đi tiếp về phía trước, Hoài Cẩn vội đi theo, vừa đi vừa hỏi: “Tiểu thư, bây giờ chúng ta về phòng à?”.
“Về phòng làm gì?”.
“Hầu gia và tướng quân đều thay áo chải đầu rồi, lẽ nào tiểu thư không trang điểm một chút?”.
“Cái đó không cần. Thứ nhất, vì ta không phải nhân vật chính, cũng
không dám trở thành nhân vật chính của đêm nay, thứ hai…”, nói đến đây,
nàng dừng bước, quay đầu lại chớp mắt nhìn Hoài Cẩn, mỉm cười nói: “trên mặt có vết bớt to thế này, nếu lại phí công quan tâm xiêm y trang sức,
vậy chẳng phải đã xấu xí lại còn gây chú ý sao?”.
Những tia nắng cuối chiều hắt lên gương mặt nàng, vết bớt màu đỏ sậm
càng nổi rõ hơn, điểm khác biệt so với khi dùng lan tâm thảo làm vết bớt chỗ đậm chỗ nhạt, hơn nữa còn ẩn hiện mấy đường gân xanh, rõ ràng tự
nhiên hơn rất nhiều.
“Thuốc của Đông Bích hầu quả nhiên thần kỳ…”, Khương Trầm Ngư không
khỏi khen ngợi. Điều thần kỳ nhất là loại thuốc nước đó hễ bôi lên da,
liền lập tức có hiệu nghiệm, nước rửa cũng không trôi, đợi ba ngày sau
thuốc hết công hiệu mới nhạt dần sau khi bay hết làn da còn trắng mịn
hơn cả lúc trước. Dùng sự xấu xí ba ngày đổi lấy vẻ đẹp dài lâu, loại
thuốc này nếu truyền ra ngoài, không biết các quý phụ danh khuê sẽ tranh giành đến mức nào…
Nàng mải miết nghĩ không hiểu vì sao một ý tưởng bỗng bật ra – Ấy? Có lẽ…
loại thuốc nước này Hy Hòa cũng từng dùng qua?
Màn đêm chớm buông, đèn hoa đã khêu.
Hơn ngàn ngọn đuốc chiếu sáng cả quảng trường lộ thiên rộng lớn, ở
giữa trải một tấm thảm cực kỳ lớn, trên thảm thêu đồ đằng kim xà và hoa
văn hình mây, ngoài chủ tọa ở hướng Bắc ra, ba bàn tiệc của khách đặt ở
các hướng Đông Tây, ngồi ghế trên ở bàn tiệc hướng Đông là Giang Vãn Y,
thứ đến Phan Phương, ghế dưới là Khương Trầm Ngư, còn ngồi ở ghế trên ở
bàn tiệc hướng Tây là Nghi vương, hai vị trí còn lại đều để trống.
Nghe nói sứ giả của Yên quốc vẫn chưa đến, hai vị trí trống đó là dành cho ai?
Nhìn vị trí chủ tọa, cũng chỉ có hai hoàng tử, không những Trình v không xuất hiện, thái tử cũng không tới.
Khương Trầm Ngư nhìn cảnh này, trầm ngâm im lặng.
Ngược lại Di Phi vẫn nhiệt tình nói với mọi người: “Nào nào, thời giờ không còn sớm, chúng ta đều đói cả rồi cứ vừa ăn vừa đợi đi, không cần
khách sáo. Đây đều là sơn hào hải vị mà tiểu vương đặc biệt chọn để tiếp đãi các vị khách quý, cái khác không nói, chỉ riêng Xà vương ngũ sắc
trong tô canh Long Phượng này đã tốn không biết bao nhiêu công phu, ăn
ngay lúc nóng, ăn ngay lúc nóng…”, vừa nói vừa đích thân múc một bát
nhỏ, sai cung nữ đưa đến cho mọi người.
Khương Trầm Ngư thầm nghĩ điều này thật thú vị, Trình quốc coi rắn là loài vật tôn quý nhất, coi như quốc thú, lại thích ăn thịt rắn, vừa thờ vừa ăn như thế, chuyện mâu thuẫn như vậy cũng chỉ có quốc gia vốn nổi
tiếng là ít phép tắc, thiếu liêm sỉ này mới làm được.
Đương nghĩ tới đây, chỉ nghe cung nhân từ xa hô lớn: “La quý phi giá đáo -
Di Thù công chúa giá đáo”.
Khương Trầm Ngư lập tức phấn chấn tinh thần, biết nhân vật quan trọng nhất đã ra sân khấu rồi, nàng quay đầu lại nhìn, chỉ thấy đầu hành lang dài dằng dặc đó, đèn đỏ nối nhau, giữa vòng vây của đám cung nhân, hai
nữ tử đang thướt tha đi tới.
Nữ tử đi trước mái tóc bới cao, cài mười đôi Thái Vân trâm, nghi dung đoan trang diễm lệ, hẳn là La quý phi, nghe nói nàng là phi tử được
sủng ái nhất của Minh Cung.
Nhưng khi người phía sau nàng xuất hiện, hết thảy hành lang, đèn đỏ,
mọi thứ xung quanh và cả nàng dường như đều trở thành vô hình.
Khương Trầm Ngư thoáng biến sắc, kinh ngạc đến mức suýt nữa đứng bật dậy.
Người đó rõ ràng xa xôi biết bao, nhưng gương mặt lại cực kỳ rõ ràng, sáng trong tinh khiết đến mức dường như hết thảy bụi trần của thế gian
này đều tự thấy xấu hổ trước nàng, cho dù ở cạnh cũng lập tức tự động
rớt xuống.
Người đó rõ ràng nhìn thẳng về phía trước, sắc mặt bình tĩnh, nhưng
trên vầng trán vẫn phảng phất sầu ưu vô hạn, tựa như đang nói, tựa như
mỉm cười, lại tựa như đang ân cần căn dặn điều gì.
Người đó mặc một bộ cung y màu lụa đào, vừa mang vẻ tươi sáng của hoa đào nhưng không hề thế tục như hoa đào, từng cử chỉ hành động đều toát
lên linh khí bức người…
Điều quan trọng nhất là nàng ta mi dài rợp bóng, môi mềm như hoa,
dung mạo ngũ quan giống Tần nương đến năm phần. Đặc biệt là dưới đuôi
mắt trái cũng có một nốt ruồi giọt lệ nho nhỏ.
Sau cơn kinh ngạc, Khương Trầm Ngư lập tức nhìn về phía Phan Phương,
quả nhiên, Phan Phương sắc mặt trắng bệch, bờ môi run run, rõ ràng là
chấn động, sửng sốt đến cực điểm.
Di Phi nhướn mày, nói: “Muội thật biết chọn lúc xuất hiện, sớm không
đến muộn không đến, lại chọn đúng lúc canh Long Phượng được bưng lên!”.
Di Thù đáp: “Có việc trì hoãn nên đến muộn. Người đâu, dâng rượu, ta tự phạt ba chén để tạ tội với chư vị khách quý”.
Cung nhân bên cạnh dâng khay, nàng ta lần lượt uống cạn ba chén rượu, quả quyết lạ thường, sau đó mới nhìn mọi người trên bàn tiệc một lượt,
cười nói: “Phụ hoàng mang bệnh đã lâu không thể tham dự, vì thế lệnh cho ta và quý phi đến khoản đãi chư vị, mong được lượng thứ”. Nói rồi, giơ
bình rượu lên rót đầy chén, quay sang nói với Hách Dịch: “Từ độ cáo biệt ở Hồng Sơn, bệ hạ vẫn phong độ như xưa”.
Hách Dịch cười ha hả, đứng dậy đáp lễ: “Đâu có đâu có, ba năm không
gặp, công chúa lại trở nên xinh đẹp thế này mới đúng là khiến người ta
phải kinh ngạc”.
“Đôi bên khen ngợi thật khiến người ta mát lòng, vì điều đó cũng xin cạn ba chén”. Di Thù nâng chén, lại một hơi cạn sạch.
Hách Dịch tươi cười: “Hay, tửu lượng cao, ta thích nhất là uống rượu với người sành uống!”. Nói đoạn cũng cạn ba chén.
Di Thù chúc rượu y xong, bước về phía Giang Vãn Y. “Vị này là Đông
Bích hầu? Nghe nói hầu gia y thuật cao minh, phụ hoàng đương mong ngài
tới!”.
Giang Vãn Y lập tức đứng dậy, đáp: “Vậy phiền công chúa sắp xếp thời gian, để ta chẩn trị cho Trình vương”.
Di Thù cười ngọt ngào, nói: “Chỉ đợi hầu gia nói câu này, thôi vậy ta sẽ sắp xếp sau dạ yến hôm nay, hầu gia chớ ngại vất vả nhé.” Nói đoạn,
lại đi rót rượu.
Giang Vãn Y lộ vẻ do dự, nhưng thấy Di Thù chỉ rót nửa chén rượu, hai tay bưng đến trước mặt hắn, nói: “Hầu gia lát nữa phải khám bệnh cho
phụ hoàng, giờ ta không thể chuốc ngài say được, cho nên, uống một ngụm
cho vui là được, ngài thấy thế nào?”.
Giang Vãn Y thở phào, hắn không giỏi uống rượu, đang lo nàng ta sẽ
chúc mình liền ba chén giống như Hách Dịch, lập tức vội vàng đón chén
rượu: “Đa tạ công chúa ban rượu”.
Di Thù mỉm cười, nàng chỉ mời Giang Vãn Y uống một ngụm, còn mình thì vẫn uống liền ba chén, sau đó đi đến trước mặt Phan Phương, cười nói:
“Đại danh của Phan tướng quân, Thù ngưỡng mộ đã lâu, nghe nói…”, nói đến đây, giọng nói đột ngột ngưng bặt.
Thực ra không chỉ có nàng, mà mọi người có mặt đều sửng sốt.
Lửa đuốc cháy bập bùng, hắt lên mặt Phan Phương lúc sáng lúc tối,
trong đôi đồng tử đen như màn đêm chất chứa kinh ngạc, chất chứa bi
thương, cứ thế nhìn Di Thù đăm đắm, sau đó rơi lệ.
Di Thù sau phút ngẩn người, quay đầu lại nhìn Giang Vãn Y. “Là ta nói sai gì sao?”.
Mặt Giang Vãn Y cũng đầy vẻ hoang mang, hắn chưa từng gặp Tần nương,
đương nhiên không biết vì sao Phan Phương lại thất thố như thế. Mà ngoài Phan Phương ra, người duy nhất rõ sự tình – Khương Trầm Ngư lại không
biết mình phải làm thế nào.
Đây là lần đầu tiên nàng thấy nam nhân khóc.
Không hề e ngại, gương mặt đẫm lệ, khóc trước mặt mọi người.
Nam tử này trên sa trường nếu có hắn trấn giữ, vạn người không qua
nổi, có sự anh dũng không ai sánh kịp; nhưng chỉ dám đứng đội mưa đội
gió bên ngoài quán trà của ý trung nhân biết bao năm, rõ ràng yêu sâu
đậm, nhưng thế nào cũng không chịu nói ra lời.
Nam tử này dưới sự cổ vũ của Cơ Anh khó khăn lắm mới dũng cảm bước
thêm một bước về phía ý trung nhân, vốn tưởng là khổ tận cam lai, lương
duyên vui vầy, ai ngờ chỉ trong nháy mắt lại thành tử biệt.
Nam tử này vì báo thù cho người vợ chưa cưới, từng liều chết, giận dữ xông vào Tiết phủ, cũng từng ẩn nhẫn chờ thời cơ thân đầy thương tích
quỳ suốt một đêm ngoài cửa phủ của Cơ Anh dưới trời tuyết rơi, cuối cùng không chút sợ hãi đối đầu với đệ nhất danh tướng Bích quốc, giành được
thắng lợi.
Nam tử này sau khi cởi bỏ khôi giáp, việc đầu tiên y làm là đến thủ lĩnh trước mộ vong thê.
Nam tử này bình thường luôn trầm mặc ít nói, cô độc uống rượu, tựa như linh hồn đã chết cùng với vong thê…
Không sai, Khương Trầm Ngư nhìn thấy rất nhiều rất nhiều dáng vẻ của
Phan Phương, nhưng, giờ đây, nam tử kín đáo cô độc hơn cả sói này lại
khóc ngay cạnh nàng.
Trong lòng dường như có thứ gì đó bị nén chặt, có chút nghẹt thở.
Nàng thì thương xót, còn Di Thù lại hoảng loạn: “Phan tướng quân? Phan tướng quân? Ngài… không sao chứ?”.
Phan Phương đột nhiên đứng bật dậy, chúng nhân cả kinh, cho rằng y sẽ làm gì đó khiến người khác kinh ngạc, ai ngờ y không nói một lời, chỉ
khom mình hành lễ, rảo bước rời đi.
Cho đến khi bóng Phan Phương hoàn toàn khuất dạng, mọi người mới bình tĩnh lại, đưa mắt nhìn nhau, vẻ nghi hoặc ánh lên trong đáy mắt.
Giang Vãn Y cười lớn, nói: “Cái này… thực ra công chúa không biết,
Phan tướng quân không khỏe trong người, hôm nay dự tiệc đã là gắng
gượng, cho nên đành rời tiệc sớm, có gì thất lễ mong được lượng thứ, ta
thấy y tạ tội với chư vị”.
Di Thù nghe xong nét mặt nhẹ nhõm hẳn nói: “Hóa ra là thế. Chẳng
trách ta thấy khí sắc Phan tướng quân không tốt các ngài từ xa tới, vất
vả trên biển lâu ngày, đêm nay vốn phải nghỉ ngơi trước mới đúng, là
chúng ta suy nghĩ chưa chu đáo rồi”.
Nàng vừa cười vừa nói như thế, bầu không khí cũng bình thường trở
lại, Khương Trầm Ngư vốn định giải thích, nhưng trong đầu chợt nảy ra
một ý nghĩ nên nàng chọn lựa giữ im lặng.
Bấy giờ, La quý phi rõ ràng thân phận tôn quý hơn Di Thù nhưng lại bị Di Thù xuất hiện sau hoàn toàn áp đảo, bỗng rót ba chén rượu, đặt lên
khay gỗ, đích thân bưng xuống bàn tiệc.
Mọi người bị hành động này của nàng thu hút, chợt quên sạch việc Phan Phương thất thố rời yến tiệc ban nãy.
Chỉ thấy La quý phi từng bước từng bước đi đến trước mặt Giag Vãn Y.
Giang Vãn Y vội vã đứng dậy nghênh đón, mặt thoảng nét kinh ngạc.
La quý phi mỉm môi cười với hắn: “Ngọc Quan, còn nhớ ta không?”.
Biểu cảm của Giang Vãn Y biến đổi một loạt, từ kinh ngạc chuyển thành hoảng hốt, lại từ hoảng hốt chuyển thành không dám tin, cuối cùng run
giọng nói: “Là… Tiểu Tử?”.
La quý phi cười kiều diễm, nói: “Ngọc Quan trí nhớ tốt, từ biệt mười năm, nhưng vẫn còn nhớ ta”.
Khương Trầm Ngư không ngờ hai người là chốn quen biết cũ, vốn cho
rằng Trình vương không thể đích thân dự tiệc, cho nên phái phi tử được
sủng ái nhất tham dự, nhưng bây giờ xem ra, sắp xếp như vậy dường như có đến vài phần cố ý.
Còn Giang Vãn Y tái ngộ cố nhân, vô cùng mừng rỡ: “Đúng là nàng ư? Không ngờ lại gặp nhau ở hoàng cung Trình quốc…”.
“Ngọc Quan trưởng thành rồi…”. Khi La quý phi nói câu này, ánh mắt
lưu luyến trên người hắn, bùi ngùi nói: “Năm đó ta còn là một a đầu
trong phủ, cùng các tỉ tỉ hầu hạ Ngọc Quan, ngài còn nhớ chứ?”.
“Đương nhiên vẫn nhớ, khi ấy nàng là người đá cầu giỏi nhất”.
La quý phi bật cười: “Đúng thế, năm ấy nghịch ngợm mà, chẳng ngờ sau
lại được thúc thúc có họ xa tìm được, giúp ta chuộc thân. Ta theo ông ta đi buôn bán đến Trình quốc, rồi định cư ở đây, lại có cơ duyên tình cờ
được tuyển làm tú nữ… Nghe nói trong đoàn sứ thần của Bích quốc lần này
có ngài, Ngọc Quan, ta thực sự rất vui.”
Mọi người thấy hai người mải ôn lại chuyện cũ, đều biết ý quay về chỗ ngồi dùng bữa, một bữa cơm tuy phát sinh không ít biến cố, nhưng vẫn
được coi là chủ khách đều vui.
Sau khi tan tiệc, Giang Vãn Y đi xem bệnh cho Trình vương, Khương Trầm Ngư tự ngồi kiệu về dịch trạm.
Việc đầu tiên nàng làm khi về tới dịch trạm là nói với thị nữ ra đón: “Có thấy Phan tướng quân không?”.
Thị nữ ra hiệu cho nàng một hướng.
Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, liền thấy Phan Phương nằm trên mái hiên,
lặng lẽ ngắm trăng, hôm nay lại là mùng một, trăng khuyết cong cong,
treo lơ lửng trên bầu trời đêm đen như mực, càng đượm vẻ thê lương, mà
ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên người Phan Phương, giống như bị chiếc áo
đen của y hút hết, không thể xóa bỏ, cũng không thể tan đi.
Khương Trầm Ngư mím môi, đến nhà bếp lấy một bình rượu, lại tìm một
chiếc thang chắc chắn, trèo lên dựa người vào mái hiên, giơ bình rượu
nói với Phan Phương: “Uống không?”.
Phan Phương im lặng nhìn nàng một lát, ngồi dậy, đưa tay đón lấy.
Khương Trầm Ngư cười, đang định xuống thang, Phan Phương bỗng cất tiếng: “Nàng… có biết đàn khúc “Ức cố nhân” không?”.
“Tướng quân muốn nghe đàn?”. Nàng hơi ngạc nhiên. Phan Phương “ừ” một tiếng.
Khương Trầm Ngư cười đáp: “Được”. Rồi lập tức về phòng đem cây cổ cầm ra, đặt lên chiếc bàn đá trong sân, vừa ngồi xuống vừa chỉnh dây đàn,
bắt đầu gảy đàn.
Nhà tranh ráng chiều buông phủ, cảm hứng dào dạt biết bao, cội mai
già nhìn hoa nở, hoa rụng, núi sâu bỗng dưng tiếc thương cảnh xuân.
Trăng sáng đêm lành ấy, xa nhớ cố nhân nay nơi đâu.
Núi xanh chẳng đổi, tóc bạc vô cớ, trăng khuyết hoa tàn. Những ngóng
người trong mộng, nhớ khi còn vui đùa bên nhau, giờ muốn gặp lại sao khó đến vậy. Núi non trùng điệp tầng tầng, hổ ẩn rồng cuộn, kìm nén lòng
mình nhớ về Trường An. Đường xa thăm thẳm, cây cao xa vời, đất trời mênh mang.
Ngậm ngùi sâm thương, đường xa ngàn dặm, trời lìa mỗi phương, có lòng mà bất lực. Tin thư vô tình, níu giữ thiều quang, nước chảy nuốt tà
dương…
Tiếng đàn trong trẻo thong thả, tựa như nước suối trong đêm trăng núi vắng, chảy róc rách, khiến bóng người trên bờ nhòa đi thành hai đường
sóng lăn tăn, bước bước nối nhau, lưu luyến không rời.
Liền sau đó là hoạt âm, đổi thành cao vút, từ gấp đến chậm, từ thưa đến dày, từ lên đến xuống.
Trăng sáng suối trong vẫn như xưa, nhưng người nắm tay cùng dạo chơi
nay đã hóa thành cát bụi, gió nổi, cát bay, liệu có người rưới rượu
trước mộ, có người thắp hương tiết Thanh Minh không? Lá úa còn biết
chiều muộn, xương lạnh có biết đông hàn?
Ngàn lời tâm tình, muốn nói lại thôi, dùng đàn bày tỏ, bâng khuâng bất tận.
Trong sân, Khương Trầm Ngư dùng tâm để đàn. Trên mái nhà, Phan Phương chăm chú lắng nghe.
Sắc đêm dần nhạt bớt, chân trời hé lộ bình minh.
Trong tiếng đàn liên miên không dứt, một đêm đã trôi qua. Còn Giang Vãng Y suốt đêm không về.
Ghi chú: (1) Nhắc đến tích Khổng Tử say mê học đàn, ba tháng ăn
thịt mà không hề nhận ra mùi thịt, ý tán tụng tài nghệ đánh đàn tuyệt
vời của Khương Trầm Ngư.
(2) Hai câu này có nghĩa là: Uống rượu xong mà được tắm nước nóng thì thật là sảng khoái, sự sung sướng đó còn hơn là được làm thần tiên, làm vua chúa.
(3) Bài này lấy ý thơ từ bài “Thử ly” thuộc Thi kinh, phần Vương
phong. Tạm dịch: Cây lúa đã trổ bông trĩu hạt, ta chầm chậm bước đi,
Bích quốc ơi Bích quốc, lòng ta nghẹn ngào.
(4) Nghi vương có biệt hiệu là Duyệt đế – đế vương vui vẻ, về biệt hiệu này sẽ được tác giả nói kỹ hơn ở phần sau.
(5) Chỉ nơi mỹ sắc làm con người mê đắm, thần hồn điên đảo.
(6) Đai Ngô áo Tào thường có hai thuyết. Thuyết thứ nhất nói,
trong nghệ thuật vẽ nhân vật cổ đại của Trung Quốc có hai phương thức
thể hiện đường nếp ở y phục đối lập với nhau. Tương truyền khi Ngô Đạo
Tử đời Đường vẽ người, vận bút cứng cỏi thẳng thắn, bút thế tròn trĩnh
chuyển vòng, y phục bay bướm, sống động sắc nét, còn Tao Trọng Đạt người nước Tề thời Bắc Triều có bút pháp tỉ mỉ, y phục chặt chẽ, người đời
sau vì thế mà gọi là “đai Ngô làm gió, áo Tào gợn nước”. Hai phong cách
này cũng lưu hành trên tượng điêu khắc, tượng đúc cổ đại. Còn có một
thuyết khác, Tào chỉ Tào Bất Hứng nước Ngô thới Tam Quốc, Ngô chỉ Ngô
Gián nước Tống thời Nam Triều. Đai Ngô áo Tào tức chỉ trình độ vẽ cao
siêu.