Lính Nhật ăn phải
thuốc mê. Nhưng chỉ có ba tên mê man bất tỉnh, còn lại hai tên vẫn tỉnh
táo. Nếu cho thuốc mê vào thức ăn ngay từ đầu, chắc chắn cả bọn đều bất
tỉnh. Nhưng mãi đến món canh cuối cùng mới bỏ thuốc mê, nên chỉ ba tên
trúng thuốc. Đầu bếp Tiểu Đắc sợ mình nấu canh khê sẽ bị bọn Nhật và Mao Đán đánh đòn. Nào ngờ, bọn Nhật và Mao Đán uống rượu đã ngà ngà, đầu
lưỡi tê cứng, chẳng hề nhận ra canh bị khê. Mao Đán luôn miệng nói:
- Các anh thấy thế nào? Món canh trứng gà nấu với khoai lang là đặc sản ở đây đấy!
Lính Nhật vừa húp canh, vừa nói:
- Ngon, ngon!
Tên lính cũ và tên lính trẻ vẫn nghêu ngao hát, lát sau mới uống canh. Đang định uống, bỗng thấy ba tên lính Nhật và Mao Đán bắt đầu đổ gục xuống
bàn. Lúc đầu, tên lính già và tên lính trẻ tưởng cả bọn uống say, lay
gọi mãi không thấy bọn kia tỉnh, hai tên còn lại bỗng cảm thấy có một
điều gì đó bất ổn. Rượu bỗng biến thành mồ hôi lạnh làm chúng tỉnh táo
đầu óc. Hai tên lính Nhật còn lại không kéo người của mình nữa mà vội
quơ lấy súng, rồi chạy ra nhà sau bắt Tiểu Đắc. Bọn họ tưởng Tiểu Đắc đã cho thuốc độc vào canh, giết chết ba đồng đội của mình và Mao Đán. Tiểu Đắc đang cọ nồi ở bếp, thấy hai tên lính Nhật trợn mắt cầm súng xông
vào, giật nảy mình. Tên lính cũ xông đến giáng cho Tiểu Đắc một cái bạt
tai, trọ trẹ:
- Cái bụng mày xấu. Cho thuốc độc vào canh hả?
Tiểu Đắc sợ lú lẫn cả người, cũng không biết phải gọi người Nhật như thế nào, nói:
- Thưa ông, con là người thật thà, làm sao dám cho thuốc độc vào canh ạ?
Tên lính trẻ nói:
- Chết người rồi!
Tiểu Đắc ngạc nhiên:
- Chết rồi? Vừa nãy con vẫn trông thấy mấy ông uống rượu ở đó mà!
Tên lính cũ lại tát Tiểu Đắc một cái:
- Trưởng thôn đâu rồi?
Tiểu Đắc thấy bọn Nhật tức giận, không dám không khai, chỉ tay vào chuồng ngựa, rồi hỏi:
- Thưa ông, con đi được rồi chứ ạ?
Tên lính cũ nói:
- Mày chết, mày chết!
Tên lính trẻ vừa nãy trèo cây đập táo, hát múa như đứa trẻ, bây giờ giống
như một hung thần, chọc một nhát kiếm vào bụng Tiểu Đắc. Tiểu Đắc ôm
bụng, nhưng vẫn nói:
- Thưa ông, oan uổng quá, con không cho thuốc độc!
Rồi nằm gục trong vũng máu.
Đâm Tiểu Đắc xong, hai tên lính Nhật lại đến chuồng ngựa bắt Bố Đại. Trong
chuồng ngựa, Bố Đại đang nằm trên chiếc phản dành cho người chăn ngựa,
thấy hai tên lính Nhật xông vào, biết có chuyện. Nhưng vẫn nằm im. Tên
lính Nhật vốn định đâm Bố Đại, nhưng thấy ông ta không hề có chút sợ
hãi, dao đâm đến trước mặt cũng không chớp mắt liền rút kiếm lại. Tên
lính cũ trọ trẹ hỏi Bố Đại:
- Hạ độc lính Nhật, ai làm việc này?
Bố Đại thản nhiên:
- Bát lộ quân!
Tên lính cũ trợn mắt:
- Bát lộ? Mày thông với Bát lộ? Chết rồi, chết rồi!
Bố Đại gạt thanh kiếm trên tay tên lính cũ nói:
- Nếu thông đồng với Bát lộ quân, liệu tôi có nói không? Tôi không quan
tâm đến mấy cái chuyện nhăng nhít của các người. Tôi chỉ thu bột giúp
các anh, hơi đâu quan tâm đến chuyện ai giết ai?
Tên lính cũ định tra hỏi Bố Đại tiếp, bỗng sân trước rộ lên tiếng huyên náo. Hai tên
lính Nhật bỏ lại Bố Đại, chạy về phía sân trước. Bố Đại cũng thừa cơ
chui ra lỗ hổng ở bức tường phía sau chuồng ngựa, chạy đến ruộng hoa màu ngủ tiếp. Hai tên lính Nhật chạy đến bức tường sân trước, nhìn thấy
mười mấy người lính Bát lộ quân đang khiêng ba tên lính Nhật và Mao Đán
ra sân. Hai tên không nói gì, kê súng lên tường bắn. Tên lính trẻ bắn
súng cao su thì dở oẹt, nhưng bắn súng lại rất khá, ba phát súng hạ gục
ba người. Tên lính cũ hơi bị cận thị, bắn không giỏi bằng tên lính trẻ,
mãi mới hạ được một người. Lính Bát lộ quân trong sân tan tác như ong vỡ tổ.
Thì ra, khi Tiểu Đắc bưng âu canh lên nhà trước, trinh sát
viên của Bát lộ quân là Tiểu Phùng đã phi qua tường chạy như bay đến
ruộng đậu tương, hổn hển:
- Báo cáo đại đội trưởng, xong rồi ạ!
Thỉ Căn cầm súng đứng lên nói:
- Cái gì xong rồi?
- Bọn Nhật đã ăn canh bị con bỏ thuốc mê, bất tỉnh hết rồi!
Mọi người nghe nói bọn Nhật đã bất tỉnh, rất phấn khởi. Thỉ Căn khoát tay:
- Xuất phát!
Trung đội trưởng Đỗ dẫn hơn mười chiến sĩ theo Tiểu Phùng chạy đến thôn. Trên đường, đàn bà trẻ con thấy lính tráng chạy trên đường, không biết xảy
ra chuyện gì, cũng chạy theo. Đến nhà Bố Đại, các chiến sĩ tranh nhau
vào trong sân. Vào nhà, thấy bọn Nhật quả nhiên mê man bất tỉnh. Tên Hán gian Mao Đán cũng bị bất tỉnh. Mọi người phấn khởi nói:
- Bọn chúng bất tỉnh hết rồi!
Liền khiêng mấy tên lính Nhật và Mao Đán ra ngoài. Ra đến sân, Lão Ngũ bỗng nói:
- Trung đội trưởng, không ổn rồi!
Trung đội trưởng Đỗ hỏi:
- Cái gì không ổn?
- Nghe nói bọn Nhật có năm tên, sao đây chỉ có ba?
Trung đội trưởng Đỗ liền đi kiểm tra. Lúc này, phía tường sân sau vang lên
tiếng súng. Bốn, năm chiến sĩ Bát lộ quân lập tức bị bắn gục. Do các
chiến sĩ ở huyện đội ít tham gia đánh trận, không có kinh nghiệm, bất
ngờ thấy đồng đội mình liên tiếp bị bắn gục, liền vỡ trận, chạy tán
loạn. Trung đội trưởng Đỗ còn có một chút kinh nghiệm, nằm rạp ngay
xuống đất bắn trả, miệng hét:
- Mẹ kiếp, chạy cái gì, nằm xuống bắn đi!
Những chiến sĩ còn lại mới nằm xuống bắn. Nhưng đợi đến khi họ nhả một loạt
đạn, thì phía tường đã không còn tiếng súng. Các chiến sĩ lại reo lên:
- Bắn chết rồi, bắn chết rồi!
Rồi thi nhau chạy đến bức tường xem. Đến nơi, không thấy xác chết nào cả.
Thì ra, hai tên lính Nhật đã vòng qua chuồng ngựa trèo tường bỏ chạy.
Trung đội trưởng Đỗ giận dữ, mắng chiến sĩ:
- Chỉ tại các cậu, toàn bắn mò. Đuổi theo ngay!
Trung đội trưởng Đỗ dẫn lính tráng truy đuổi dọc theo đường làng. Lúc này,
hai tên Nhật đã chạy ra ngoài thôn. Lúc đầu, chúng chạy dọc theo đường
làng, sau khi phát hiện thấy có người đuổi theo, liền chạy vào ruộng hoa màu. Ra khỏi ruộng hoa màu, lại chạy về triền sông. Đang chạy, bỗng mắc vào một sợi dây thừng, ngã lăn quay. Lúc này, từ triền sông lại xuất
hiện hơn mười người lính Trung Quốc lao đến trói hai tên lính Nhật. Tên
lính cũ kêu lên:
- Bát lộ quân, trúng mai phục của Bát lộ quân!
Nhưng khi ngẩng đầu lên, té ra là quân Trung ương quần áo chỉnh tề. Tốp lính
này do tiểu đội trưởng Ngô dẫn đầu. Lúc này, hơn mười chiến sĩ Bát lộ
quân do trung đội trưởng Đỗ dẫn đầu cũng vừa đuổi đến nơi. Bát lộ quân
thấy bọn Nhật đã bị bắt, rất mừng, chạy lên phía trước nói với quân
Trung ương:
- Hay lắm. Các anh đã bắt được tù binh đang bị chúng tôi truy đuổi. Giờ trả lại chúng tôi đi!
Tiểu đội trưởng Ngô thấy Bát lộ quân vừa đánh có một trận mà quần áo xộc
xệch, chỗ nào cũng máu me, nói thì hổn hà hổn hển, đầu thì mướt mồ hôi.
Bàn tay đeo găng trắng tinh của của tiểu đội trưởng Ngô mân mê khẩu súng nói:
- Tù binh của các anh? Chúng tôi vừa bắt được bọn chúng, sao lại bảo là của các anh?
Trung đội trưởng Đỗ nói:
- Chúng tôi đang đuổi theo bọn chúng. Bọn chúng đã bắn chết bốn, năm người của chúng tôi!
- Tôi không cần biết các anh bị chết bao nhiều người. Tôi chỉ biết, tù binh bị chúng tôi bắt, phải là của chúng tôi!
- Anh nói như vậy mà nghe được. Cho tôi nói chuyện với chỉ huy của các anh!
- Tôi là chỉ huy ở đây!
Đang cãi nhau, bỗng “pằng pằng”, hai tiếng súng vang lên. Tiếp sau tiếng
súng, hai tên Nhật gục xuống. Phát súng này của chiến sĩ Bát lộ quân
Vương Lão Ngũ. Trong số những chiến sĩ Bát lộ quân vừa hy sinh, có một
người cháu họ của anh, khiến anh vô cùng tức giận. Bây giờ, trước mặt
bọn Nhật đã giết người thân của mình, anh chẳng cần biết đúng sai thế
nào, lên đạn bắn liền hai phát. Do cự ly quá gần, bắn chính xác, nên hai tên lính Nhật chết luôn tại chỗ. Quân trung ương thấy Bát lộ quân bắn
chết tù binh của họ thì nổi giận. Một người nói:
- Mẹ kiếp, bọn mày nổ súng trước à!
Một tên lính khác cầm súng bắn chết Vương Lão Ngũ.
Ngay lập tức, quân lính hai bên nằm rạp xuống, bên ở mé trong đê, bên ở mé
ngoài đê, bắn nhau tán loạn. Bên quân Trung ương có mười sáu, mười bảy
người. Phía Bát lộ quân chỉ có hơn mười người. Bát lộ quân chưa quen
đánh trận, không phải là đối thủ của quân Trung ương. Quân Trung ương
bắn chết năm người của Bát lộ quân, còn Bát lộ quân bắn chết ba người
của quân Trung ương. Năm chiến sĩ Bát lộ quân còn lại bị quân Trung ương bắt sống. Quân Trung ương trói năm chiến sĩ Bát lộ quân lại rồi giải về thôn. Đến nửa đường, lại bắt gặp Thỉ Căn, liền bắt sống cả Thỉ Căn,
trói lại, rồi giải tất cả đến trước sân nhà họ Lý.