“Sở Kiều, đây là Hoàn Hoàn.”
Ráng chiều đỏ như máu, thiếu nữ mặc y phục cưỡi ngựa, cổ áo viền lông lạc đà trắng toát cao đến tận cằm, đôi mắt to tròn xoe, con ngươi đen nhánh, trong trẻo long lanh như sao. Nghe được tên Sở Kiều, trong mắt thiếu nữ lộ ra vẻ kinh ngạc, nàng nhìn đánh giá cô gái trước mặt từ trên xuống dưới, cuối cùng thở dài nói: “Cô chính là Sở Kiều?”
“Hoàn quận chúa, thanh đao diễm lệ nhất cao nguyên Bắc Yến, được gặp quận chúa là vinh hạnh của Sở Kiều.”
Gió ngoài cửa thổi vào khiến tóc mai thiếu nữ khẽ bay, Hoàn Hoàn cẩn thận nhìn Sở Kiều, ánh mắt sáng ngời, phần giữa lông mày có mấy phần tương tự Yến Tuân, các nét còn lại đều rất khác. Nàng chỉ khoảng mười tám mười chín tuổi, kế thừa vóc dáng cao thon của Yến gia, da dẻ trắng nõn như tuyết, mắt sâu mũi cao, nhìn rất phóng khoáng mạnh mẽ.
Hoàn Hoàn đột nhiên nở nụ cười tươi rói, “Thì ra cô đã đến, chẳng trách, thảo nào...”
Yến Tuân nhướng mày, nhẹ giọng trách mắng, “Hoàn Hoàn, không được vô lễ.”
“Được rồi, ca.” Hoàn quận chúa cười tít mắt, thân mật vỗ vỗ vai Yến Tuân, nói: “Chỗ chết chóc như hoàng thành đúng là đã dạy hư huynh rồi, mở miệng không phải quy củ thì là lễ nghĩa.”
“Ta có nghe nói về cô.” Hoàn Hoàn quay sang, tươi cười lộ hàm răng trắng tinh, thân mật nói: “Cô cùng ca ca ta ở lại hoàng thành hết tám năm, chịu khổ không ít, trước đó còn đánh nhau với Đại Hạ một trận để cứu binh, thật oai phong!”
“Quận chúa mang Hỏa vân quân tung hoành ngang dọc ở Bắc Yến, đánh cho quân của Ba Đồ Cáp chạy tán loạn, cũng sớm lan truyền thành giai thoại rồi.”
“Ha ha, ta là con cháu Yến gia, ta không giết người khác thì bọn họ sẽ tới giết ta, không thể so sánh, cô đúng là đại công thần của Bắc Yến chúng ta.” Hoàn Hoàn cười nói: “Vừa rồi nghe nói ca ca mang một nữ nhân về, ta còn đang lo hắn làm chuyện có lỗi với cô nên mới chạy tới, nhưng nếu là cô thì ta không nhiều chuyện nữa!”
Thiếu nữ nở nụ cười giảo hoạt, quay sang làm mặt quỷ với Yến Tuân rồi nhanh như chớp chạy ra ngoài.
Bên ngoài gió thổi xào xạc khiến vạt áo choàng của thiếu nữ bay phấp phới, một tiếng ngựa hí chợt vang lên, ngay sau đó là tiếng vó ngựa dần xa cùng tiếng kêu của hạ nhân đang đuổi theo, “Quận chúa! Đó là ngựa của điện hạ!”
“Con bé này từ nhỏ đã vậy, lúc nào cũng lỗ mãng.” Yến Tuân nhìn theo hướng Hoàn Hoàn rời đi, khẽ cười nói.
Sở Kiều nghiêng nghiêng nhìn một bên mặt của Yến Tuân, cảm nhận được ánh mắt dịu dàng mà nàng chưa từng thấy qua. Nàng biết, đó chính là vẻ ấp ám tình thân đã lâu chưa từng xuất hiện trên mặt Yến Tuân.
Mặt trời cuối cùng cũng lặn xuống, bóng đêm thâm trầm ôm lấy cả vùng đất, ánh sao lấp lánh trên đỉnh đầu như vô vàn đôi mắt sắc lạnh đang nhìn bao quát toàn bộ Bắc Yến. Sở Kiều hít sâu một hơi, không khí cao nguyên tràn vào phổi, lạnh lẽo như băng.
“Thật ra thì so với muội ta vẫn may mắn hơn nhiều.” Nam nhân không quay đầu lại mà vẫn nhìn ra chân trời đằng xa, đột nhiên thấp giọng thở dài, ánh mắt sâu trầm như biển, tay trái chợt đưa lên nắm lấy tay Sở Kiều.
.................................................................................................
Ngày thứ hai, một đoàn quân rời Bắc Sóc Quan tiến về phía thành Lữ Ấp. Báo cáo của hội nghị hôm qua hiển nhiên đã được truyền ra ngoài, chính quyền Bắc Yến lần này rất nghiêm túc, chỉ trong một đêm ngắn ngủi đã quyết định triệu toàn thể tướng quân đoàn trưởng về thành Lữ Ấp họp khẩn cấp. Sở Kiều và Yến Tuân cũng biết điều gì đang chờ đợi hai người, nhưng bọn họ quả thật không có lựa chọn nào khác, muốn đứng vững ở Bắc Yến, đây là chuyện phải làm.
Lữ Ấp cách Bắc Sóc chỉ khoảng một trăm hai mươi dặm nên trưa hôm đó quân của Yến Tuấn đã tiến qua cổng thành Lữ Ấp. Thủ thành là một nam nhân béo mập trắng trẻo, luôn cười chất phác, thoạt nhìn giống một đầu bếp của tửu lâu hơn.
Về sau Sở Kiều mới biết mình vậy mà lại đoán đúng, thành thủ Đồng Hoa đã từng là ông chủ của một tửu lâu ở Lữ Ấp, cũng xuất thân đầu bếp. Năm xưa ông ta gia nhập Đại Đồng Hành, nhận trách nhiệm chuyển tin tình báo, sau khi Bắc Yến giành lại độc lập, luận công ban thưởng ông ta lại được nhảy lên làm thành thủ nơi này.
Sở Kiều chậm rãi thúc ngựa đi theo sau Yến Tuân, Bắc Yến tháng mười rất lạnh nhưng đường phố ở Lữ Ấp vẫn hết sức náo nhiệt, người đến người đi không ngừng, ngựa xe như nước, cửa hàng san sát hai bên đường. Chúng bá tính cũng tụ tập xung quanh, nhìn thấy đoàn quân đi vào liền lớn tiếng tung hô dù không biết là quân của ai đến. Ngày đó chuyện Yến Tuân rời khỏi Bắc Yến đi Biện Đường đã được giữ kín tuyệt đối, chỉ có vài tướng quân cấp cao biết được, cho nên tin hắn trở lại dĩ nhiên cũng bị phong tỏa.
Khắp thành trì đều tràn ngập không khí vui mừng, mặc dù trạm phòng thủ trước cổng thành còn hơi hoang tàn và hỗn loạn, nhưng nhìn tòa thành vẫn còn được bảo trì khá tốt qua vô số trận chiến, Sở Kiều không thể không nói, Đồng Hoa, vị từng là ông chủ tửu lâu này, xử trí sự vụ cũng không tệ.
Tướng lĩnh cấp cao của các binh đoàn khác vì đường sá xa xôi nên tạm thời vẫn chưa đến được, Sở Kiều và Yến Tuân được sắp xếp ở trong phủ thành thủ.
Sau bữa tối, Sở Kiều ngồi trong thư phòng xem xét kế hoạch tác chiến sắp tới. Tình hình hiện tại của Bắc Yến rất không lạc quan, ban đầu vì để phối hợp với cuộc khởi nghĩa ở thành Chân Hoàng, Bắc Yến cũng phát động binh biến trong cùng một ngày. Hội viên Đại Đồng Hành cùng với thuộc hạ cũ của Bắc Yến vương dẫn dắt quân binh chiếm lấy hai thành trì quan trọng ở hai đầu Bắc Yến. Nhưng Mỹ Lâm Quan ở phía Bắc từ trước đến nay vẫn luôn là phòng tuyến quan trọng trong việc chống Khuyển Nhung của đế quốc, tường thành vừa cao vừa dày, quân binh đế đô đóng trong thành hơn vạn người, thủ dễ nhưng công cực khó. Hơn nữa, Bắc Yến lúc ấy vừa thiếu binh lực vừa nhầm lẫn chiến lược do sự chậm trễ tin tức từ phía Đông, nên lúc quân khởi nghĩa chạy đến Mỹ Lâm Quan thì quân Hạ đã chuẩn bị xong đâu vào đó từ sớm.
Đại Đồng Hành mặc dù được xem là đông đúc nhân tài nhưng lại không nhiều người am hiểu chiến lược chiến tranh, thủ đoạn tác chiến sơ sài không quá cao minh. Trước đây sở dĩ bọn họ có thể liên tiếp hành sự thành công hoàn toàn đều dựa vào nhuệ khí của các chiến sĩ. Nhưng Sở Kiều biết, đối đầu với tinh binh chính quy của Đại Hạ, chỉ có tinh thần anh dũng sẽ không đủ. Chiến tranh là một bộ môn nghệ thuật, mà ở thời đại này, người am hiểu nghệ thuật này thật sự ít đến thảm thương.
Sở Kiều nhanh chóng điều chỉnh kế hoạch tác chiến, dùng bút đỏ đánh dấu vào chỗ quan trọng cần chú ý, làm xong thì trời đã sập tối.
Bên ngoài đột nhiên vang lên tiếng gõ cửa, Sở Kiều lên tiếng mời vào. Cửa phòng bị đẩy ra, Hoàn Hoàn lấp ló thò đầu vào, nhỏ giọng hỏi: “Ca ca ta đâu? Có ở đây không?”
“Không có.” Sở Kiều đứng dậy, “Yến Tuân đang ở tiền sảnh tiếp khách, quận chúa có chuyện cần tìm huynh ấy?”
“Không có thì tốt.” Nghe nói Yến Tuân không có ở đây, Hoàn Hoàn liền nhảy tót vào phòng, sải bước chạy đến trước mặt Sở Kiều, nói: “Ta tới tìm cô thôi, chúng ta ra ngoài.”
Dứt lời, cũng không chờ Sở Kiều phản ứng, Hoàn Hoàn lập tức túm tay kéo nàng ra ngoài, Sở Kiều cũng chỉ kịp luống cuống quơ vội cái áo lông cầm theo.
“Quận chúa tìm ta có chuyện gì sao?”
Hai người băng qua ngõ hẻm đi thẳng đến phía Tây thành Lữ Ấp. Địa thế tòa thành này tương đối cao, phía Tây là một sườn núi nhỏ, doanh trại quân đội phần lớn được đóng ở đây. Hiện giờ đã gần tối, từng đống lửa được đốt lên khắp nơi, đâu đâu cũng dậy mùi thức ăn, các binh sĩ không nhận ra Sở Kiều, nhưng vừa nhìn thấy Hoàn Hoàn từ xa thì đều lớn tiếng cười chào hỏi: “Ối chà! Là Hoàn đại nhân, đã ăn chưa? Có muốn ngồi xuống ăn cùng chúng thuộc hạ không?”
Hoàn Hoàn hào sảng cười mắng: “Cút! Ở trong kia ta ăn toàn cá muối, tôm hùm với thịt chân giò, ai cần mấy thứ canh toàn nước này của các ngươi chứ!”
Đám lính cười ha hả, không hề tức giận mà còn rốt rít nhường đường cho hai người, có điều lúc Sở Kiều đi ngang qua đều có chút chú ý nhìn nàng.
“Đây, cho cô đấy!” Hoàn Hoàn cười một tiếng rồi đẩy Sở Kiều lên trước.
Hai mắt Sở Kiều bất chợt sáng lên, dưới gốc đại thụ trước mặt nàng có cột một chú chiến mã lông đỏ toàn thân, bốn chân đen nhánh, đầu mũi có một đốm lông trắng, thân mình rắn chắc, mắt sáng ngời, nhìn qua liền biết là bảo mã. Sở Kiều chậm rãi đưa tay ra sờ lên mũi chú ngựa, nó liền ngoan ngoãn phát ra vài tiếng phì phì, hơi thở phả vào lòng bàn tay nàng, vừa nóng hầm hập vừa ngưa ngứa.
Sở Kiều vui vẻ bật cười, Hoàn Hoàn ở bên cạnh cũng cười nói: “A Đồ thích cô đấy.”
“A Đồ?”
“Ừ, tên của nó, là ta đặt.” Hoàn Hoàn vỗ đầu chú ngựa, cười đắc ý, “Nó vốn là vua ngựa hoang dưới chân Hồi Sơn, ta mất bảy ngày mới bắt về được, huấn luyện hết hơn một năm. Giờ nó là của cô.”
Kể từ ngày mất đi Lưu Tinh, Sở Kiều vẫn không có một con ngựa riêng cố định nào. Đây quả thực là một con ngựa tốt, nàng chợt thấy ấm áp trong lòng, cười nói: “Đa tạ quận chúa.”
“Chớ gọi ta quận chúa nữa có được không?” Hoàn Hoàn nói: “Ta không phải xuất thân từ dòng chính Yến thị, lúc phụ thân còn sống cũng chưa được gọi như thế, bây giờ lại càng không thể.”
“Ừm, vậy nên gọi cô là...?”
“Gọi ta Hoàn Hoàn là được, ta cũng bắt chước ca ca gọi cô là A Sở nhé, không ai thiệt.”
Sở Kiều mỉm cười, “Hoàn Hoàn.”
Hoàn Hoàn cũng tít mắt cười theo, Sở Kiều nhìn thì có chút cảm khái trong lòng. Thiếu nữ này còn chưa tròn hai mươi, năm đó toàn bộ Yến thị đều bị tàn sát. Nàng là con gái duy nhất của Yến Thế Phong, đệ đệ Yến Thế Thành, nhờ giả dạng một hạ nhân mới may mắn thoát chết, trên đường bị áp giải về thành Chân Hoàng làm nô lệ, nàng đã được người của Đại Đồng Hành cứu thoát. Những năm trước, thân là huyết mạch của Yến thị ở Bắc Yến, nàng luôn thay Yến Tuân đứng ra làm lãnh tụ tinh thần, hiệu triệu thuộc hạ cũ cùng hạ nhân gia nhập quân khởi nghĩa. Nhất là những năm gần đây, nàng càng trưởng thành thì càng thêm xông pha tiền tuyến, dần trở thành đại tướng số một ở Bắc Yến. Những gì một cô gái như Hoàn Hoàn trải qua trong chiến hỏa cơ hồ đủ để viết thành một truyền kỳ thời loạn.
“A Sở, Chân Hoàng nhiều thứ thú vị lắm có đúng không?” Đến cùng vẫn là một thiếu nữ mười tám mười chín tuổi, Hoàn Hoàn hàn huyên với Sở Kiều một hồi, đề tài liền chuyển sang hướng khác, “Ta nghe nói chỗ đó đặc biệt phồn hoa, còn có người tóc đỏ mắt xanh từ bên kia biển đến buôn bán, cô có từng gặp qua không?”
Sở Kiều cười nói: “Gặp rồi, nhưng cũng không nhiều lắm. Nói đến sự phồn hoa cùng đông đảo người từ bên kia biển, Biện Đường vẫn nhiều hơn.”
“Biện Đường?”
“Ừ.”
Hai người dắt ngựa đi một hồi rồi ngồi xuống bên một sườn núi, vai kề vai, vạt áo lông quết trên mặt đất, ánh trăng loang loáng chiếu lên bờ vai.
Sở Kiều chậm rãi nói: “Đó là một đất nước rất đẹp, hàng năm không hề có tuyết rơi, cũng không có mùa đông, một năm bốn mùa lúc nào cũng ấm áp như xuân, vô vàn đủ loài hoa, thương nhân buôn bán phát đạt. Chỉ dân số ở Đường Kinh thôi cũng đã hơn ba trăm vạn, gần bằng một phần ba dân số Bắc Yến.”
“Thật sao!” Thiếu nữ chưa từng rời khỏi Bắc Yến mở to hai mắt, “Đến mức ấy cơ à?”
“Ừ.” Sở Kiều bật cười, trong đầu chợt hiện ra bộ dạng đắc ý của Lý Sách, “Đến mức ấy đấy.”
“Có cơ hội nhất định phải đi nhìn một lần.” Hoàn Hoàn quơ nắm tay lên, ra vẻ kiên định nói: “Sau khi đánh thắng ta sẽ đi.”
Sở Kiều nói: “Ừ, sau khi đánh thắng, đến lúc đó ta sẽ giúp cô.”
“Là cô nói đấy nhé, đến lúc đó không được nuốt lời.” Hoàn Hoàn vội vàng quay sang chỉ vào chú ngựa đang gặm cỏ bên cạnh, cao giọng kêu lên: “Có A Đồ làm chứng cho ta.”
Chú ngựa thông minh nhận ra chủ nhân gọi tên mình thì lập tức ngẩng đầu lên nhìn, trong mắt lộ ra chút khó hiểu.
Sở Kiều cười nói: “Được, có A Đồ làm chứng.”
Lúc này phía dưới sườn núi đột nhiên truyền đến tiếng động, Hoàn Hoàn hớn hở nhỏm người lên nhìn xuống, vui mừng phất tay hét lớn: “Tiểu Hòa, Tiểu Hòa, ở đây, ở đây này!”
Chỉ chốc lát sau, tiếng vó ngựa tiến đến gần, một thanh niên anh tuấn khoảng hai mươi tuổi nhảy xuống khỏi lưng ngựa, chạy đến trước mặt Hoàn Hoàn, vừa thở hổn hển vừa hỏi: “Có chuyện gì mà vội vã tìm ta như vậy?”
“Giới thiệu bằng hữu cho ngươi biết.” Hoàn Hoàn chỉ vào Sở Kiều, đắc ý nói: “Biết đây là ai không? Nói ra thì có thể hù chết ngươi đấy, hừ. Đây chính là Sở Kiều, người đã dẫn dắt quân Tây Nam trấn phủ sứ đánh cho quân Tây Bắc thua chạy tan tác.”
“Cái gì?” Tiểu Hòa nhất thời sửng sốt, mắt mở thật to như rất kinh ngạc, không thể tin được kêu lên: “Còn trẻ như vậy?”
Hoàn Hoàn quăng sang một cái liếc xéo như chê hắn không có kiến thức rồi nói với Sở Kiều: “A Sở, đây là Tiểu Hòa, đại danh là... Ý? Tiểu Hòa, đại danh của ngươi là gì nhỉ?”
Tiểu Hòa lập tức sầm mặt, buồn bực nói: “Ngay cả ta tên gì cô cũng không nhớ?”
“Ai rảnh rỗi nhớ mấy chuyện này?” Hoàn Hoàn nhướng mày, vô cùng thẳng thắn nói: “Có đại danh mà không ai gọi thì có cũng chẳng để làm gì.”
Tiểu Hòa liếc Hoàn Hoàn một cái rồi quay sang nói với Sở Kiều: “Sở cô nương, ta họ Diệp, Diệp Đình Hòa, là quan sử ký* của binh đoàn số 1, mọi người đều gọi ta là Tiểu Hòa, cô nương cũng có thể gọi ta như vậy.”
*Quan sử ký = người làm công tác ghi chép, lưu giữ tài liệu, lịch sử.
Sở Kiều cười đáp lời: “Tướng quân Tiểu Hòa, hân hạnh được gặp.”
“Xì, hắn mà là tướng quân gì chứ, kiếp sau đi.”
“Này Hoàn Hoàn! Có thể chớ nói ta thế ngay trước mặt bằng hữu mới không? Thực không nghĩa khí!”
Hoàn Hoàn thẳng lưng, “Ta cứ không nghĩa khí như vậy đấy thì sao, thấy mỹ nữ liền mắt sáng rỡ. Cho ngươi biết, A Sở chính là của ca ca ta, chớ hòng mơ tưởng.”
Tiểu Hòa mặt đỏ tới mang tai, “Ta có ý đó hồi nào? Cô ngậm máu phun người!”
Hoàn Hoàn chỉ tay vào ngực Tiểu Hòa, vô cùng bá đạo nói: “Ta cứ ngậm máu phun người như vậy đấy, sao hả?”
Tiểu Hòa sầm mặt nói: “Đồ đanh đá! Không nói với cô nữa, Sở cô nương, ta còn có việc, xin đi trước.”
“Làm ơn đi, ngươi thì có việc gì chứ? Quan sử ký, hừ, cũng chẳng biết là làm gì, Ô tiên sinh vì nể tình mới tùy tiện cho ngươi một chức đó thôi.”
“Cô!”
Mắt thấy hai người trợn mắt phùng mang như sắp đánh nhau đến nơi, Sở Kiều vội vàng giảng hòa: “Hiện giờ cần chiêu nhập nhiều tân binh, quan sử ký đảm nhiệm việc sổ sách bận bịu cũng là chuyện đương nhiên.”
“A Sở, không cần nói đỡ cho hắn.”
Sở Kiều cười nói: “Không phải, hiện tại tiền tuyến đã khai chiến, quan sử ký ở hậu phương rất quan trọng. Trách nhiệm bao gồm chiêu mộ, huấn luyện binh, đề ra quân pháp thành lập trật tự, chỉnh đốn dân binh, tổ chức công tác tiếp viện cho tiền tuyến, bố trí tân binh bảo đảm an toàn nội thành cùng cơ cấu chính trị mới, ổn định dân tâm, gom góp lương thảo cùng quân nhu, sắp xếp dân phu vận chuyển lương thảo, sự vụ phức tạp, người bình thường khó có thể đảm nhiệm hết.”
Sở Kiều dứt lời, thấy hai người đang ngây ngốc nhìn mình thì có hơi sững sờ, kinh ngạc hỏi: “Sao thế? Ta nói sai cái gì sao?”
“Không, không có.” Hoàn Hoàn quay sang hỏi Tiểu Hòa: “Hiện giờ ngươi làm hết mấy chuyện này sao?”
“Không có.” Tiểu Hòa lắc đầu, “Ta chỉ chịu trách nhiệm ghi chép báo cáo chiến sự, thỉnh thoảng còn giúp đám lính viết thư gửi về nhà.”
Sở Kiều nhất thời có hơi quẫn bách, quan sử ký ở đây đúng là chỉ làm công việc liên quan tới giấy tờ thôi sao?
“Tiểu Hòa, xem ra ngươi phải thường xuyên theo học hỏi A Sở.” Hoàn Hoàn chớp mắt, “Nàng sẽ dạy ngươi được nhiều thứ.”
Tiểu Hòa cũng vội vàng gật đầu, “Thảo nào có thể đánh thắng quân Hạ đông đảo như vậy, thật lợi hại, hiểu biết thực nhiều.”
Sở Kiều bất đắc dĩ thở dài, xem ra quân đội Bắc Yến cần phải được chấn chỉnh từ trên xuống dưới một lần mới được.
Ba người nói thêm vài câu rồi đều cáo từ. Sở Kiều đi xa rồi, quay đầu vẫn thấy Hoàn Hoàn và Tiểu Hòa vừa đi vừa ồn ào đánh qua đánh lại thì không khỏi có chút buồn cười.
Tiểu Hòa từng là con trai của hạ nhân trong phủ Yến Thế Phong, lúc Bắc Yến tấn công, hắn và Hoàn Hoàn đều bị bắt. Theo lời Hoàn Hoàn nói thì năm đó Tiểu Hòa khóc sướt mướt, bị dọa đến tè ra quần, chính là nàng đã cực kỳ dũng mãnh cứu hắn thoát khỏi ma trảo của Đại Hạ. Nhưng Sở Kiều lại nghe nói, năm đó Hoàn Hoàn được một đứa trẻ cứu thoát, đứa trẻ đó đã cõng nàng lội tuyết đi hết đoạn đường hơn trăm dặm mới được đội cứu viện của Đại Đồng Hành tìm thấy. Xem ra đứa trẻ kia chính là nam nhân gọi Tiểu Hòa này rồi.
Trong bão tuyết mịt mù, hai đứa trẻ cửa nát nhà tan, một đứa chỉ hơn mười tuổi cõng đứa còn lại bôn ba trong tuyết hơn cả trăm dặm, thật sự là một chuyện không thể tưởng tượng nổi.
Trở lại thư phòng thì thấy Yến Tuân cũng không có trong phòng, Sở Kiều đi đến phòng hắn cũng không tìm được người, hỏi thị vệ canh cửa thì hắn nói vừa nhìn thấy Yến Tuân như đi đến sau đồi.
Thành Lữ Ấp có địa thế cao, phủ thành thủ lại tọa lạc ở nơi cao nhất thành, sau phủ có một ngọn đồi nhỏ. Sở Kiều khoác áo choàng dày, nặng nề leo từng bước một lên đồi, xa xa đã thấy đỉnh đồi chỉ có một gốc cây trụi lá, hai bên là tường thành bằng đá đổ nát, mặt đất không một ngọn cỏ. Yến Tuân ngồi trên một tảng đá, trong bóng đêm, cành cây khô cằn càng lộ ra vẻ dữ tợn.
Bị tiếng chân của Sở Kiều đánh động, Yến Tuân quay đầu lại, đưa tay ra với nàng, cười nói: “Về rồi à?”
“Ừm.” Sở Kiều hơi thở gấp, nắm lấy tay Yến Tuân rồi ngồi xuống bên cạnh hắn, cười nói: “Hoàn Hoàn tặng ta một con ngựa, còn nói con ngựa đó vốn là vua ngựa hoang dưới chân Hồi Sơn, rất đẹp.”
“Chớ tin con bé đó.” Yến Tuân mỉm cười: “Mấy ngày nay nó đã tặng ngựa cho rất nhiều người, với ai cũng nói là vua ngựa hoang dưới chân Hồi Sơn, nó phải sống mái một phen mới bắt về được. Nghe theo lời nó thì không chừng ngựa dưới chân Hồi Sơn có đến cả đàn, mà con nào cũng đều là vua ngựa.”
Sở Kiều thoáng sửng sốt, sau đó lắc đầu cười, nhớ tới bộ dạng thần bí kia của Hoàn Hoàn thì không khỏi nói: “Thật là trẻ con.”
Yến Tuân liếc mắt nhìn nàng, “Muội thì lớn hơn chắc?”
Sở Kiều chống chế, “Đầu óc thành thục hơn.”
Yến Tuân quay đầu đi không đáp, ánh trăng mông lung chiếu lên khiến sắc mặt hắn có phần tái nhợt.
Sở Kiều hỏi: “Thân thể huynh có khá hơn chút nào không? Nơi này lạnh như vậy, vẫn nên trở về thì hơn.”
“Không sao, ta muốn ngồi một lúc nữa.” Yến Tuân lắc đầu, đưa mắt nhìn thành trì bên dưới, nhàn nhạt nói: “Lúc trước không có muội ở đây, ta luôn cảm thấy đứng ngồi không yên. Bây giờ muội đã trở lại, ta mới có thể tĩnh lặng ngắm nhìn Bắc Yến một cách kỹ càng.”
Dưới chân đồi lấp lánh vô số ngọn đèn, cảnh vật an tĩnh êm đềm, trong màn đêm tiếng quân ca vang vọng ở xa nghe có mấy phần thê lương nặng nề, chiến ưng chao lượn trên không trung, tầm mắt như có thể bao quát cả một vùng.
Yến Tuân đột nhiên thở dài nói: “A Sở, Bắc Yến hiện tại đã không còn là Bắc Yến khi xưa nữa rồi, không những nghèo khó mà nội bộ lại không ngừng lục đục. Hai hôm nay muội rất thất vọng có đúng không?”
Sở Kiều quay sang, thấy Yến Tuân cũng không nhìn mình thì nhẹ giọng nói: “Nếu Bắc Yến vẫn là Bắc Yến trước kia thì chúng ta đã không cần phải nỗ lực cố gắng rồi.”
Thân thể Yến Tuân thoáng khựng lại, nhưng hắn cũng không nói lời nào.
Sở Kiều nắm lấy tay trái Yến Tuân, tay hắn rất lạnh, lạnh như băng vậy, ngón út đã bị cụt mất một đoạn, bốn ngón thon dài còn lại đầy vết chai thô ráp vì thường xuyên luyện võ cầm đao và làm việc nặng, hoàn toàn không giống bàn tay của quý tộc thế gia. Sở Kiều nâng tay hắn lên môi nhẹ hà hơi, chà xát một chút rồi ngẩng đầu lên cười: “Nói đến nghèo, còn ai nghèo hơn chúng ta năm đó sao?”
Yến Tuân quay đầu lại, nhìn thấy thiếu nữ hai mắt sáng ngời, môi nở nụ cười rạng rỡ như hoa nở. Nhớ đến những gì đã trải qua, hắn đột nhiên thấy chua xót.
Làm sao có thể?
Năm đầu tiên đón năm mới, cả hoàng thành như được bao phủ bởi không khí vui mừng, pháo hoa đầy trời, trong cung vang dội tiếng đàn sáo tưng bừng. Ở góc Tây Bắc hẻo lánh nhất cung Thịnh Kim, trong một trạch viện rách nát bốn phía gió lùa, hai đứa trẻ rúc vào nhau để giữ hơi ấm, quấn chăn may bằng màn cửa sổ, ăn mặc tồi tàn như hành khất.
Trước mặt hai đứa trẻ có một cái nồi được đun trên lửa nhỏ, bọn họ vừa sưởi vừa dè dặt bỏ thêm củi. Mặt đỏ bừng vì lạnh, cô bé vẫn cố cầm muôi liên tục khuấy bên trong nồi.
Mỗi người nửa bát cháo trắng cùng chút dưa cải đào ra được từ dưới băng tuyết chính là buổi cơm tất niên của bọn họ. Yến Tuân buồn bực không chịu ăn, Sở Kiều bưng chén dỗ dành, nói chút đạo lý hắn mới chịu ăn một chút. Ăn xong Sở Kiều liền dựa vào vai Yến Tuân ngủ thiếp đi. Yến Tuân cúi đầu nhìn nàng, thấy da tay nàng đều nứt nẻ hết cả, rõ ràng là vừa ăn xong nhưng bụng vẫn còn kêu rột rột, mặt mày xanh xao, bộ dạng gầy gò như vĩnh viễn không lớn nổi. Khi đó cậu thiếu niên đã âm thầm thề, sẽ có một ngày hắn cho nàng cuộc sống thật tốt. Thoáng cái đã nhiều năm như vậy, mà nàng vẫn theo hắn bôn ba khắp nơi, không ngừng vào sinh ra tử.
“Á!” Sở Kiều đột nhiên kinh hoảng kêu to.
Yến Tuân kinh ngạc hỏi: “Sao vậy?”
“Rượu chúng ta chôn trong cung, lúc đi đã quên uống rồi.”
Yến Tuân bật cười, trong mắt nhất thời lóe ánh nhìn sắc lạnh, nhẹ giọng nói: “Yên tâm đi, sẽ có cơ hội.”
Chỉ một câu nói đơn giản nhưng lại lộ sát khí khó che giấu. Nam nhân đưa mắt nhìn về phía trước, gió lạnh phớt qua thái dương cùng mày kiếm lạnh lùng của hắn.
“Yến Tuân, huynh nói vấn đề lương thảo cùng vũ khí trong thời gian ngắn sẽ được giải quyết, nhưng có nắm chắc không? Mặc dù Lý Sách đã ngầm đồng ý cho chúng ta giao dịch với chợ đen ở Biện Đường, nhưng nhu cầu quá lớn sẽ kinh động đến thượng tầng.” Suy nghĩ cả hai ngày nay, Sở Kiều vẫn không nhịn được nói ra nghi vấn trong lòng.
Yến Tuân khẽ cụp mắt, một lúc sau mới thấp giọng nói: “Hoài Tống.”
“Hoài Tống? Vì sao Hoài Tống lại giúp chúng ta?”
“Ta đã đi gặp Trưởng công chúa của Hoài Tống.”
“Nạp Lan Hồng Diệp?” Sở Kiều cả kinh, mở to mắt nhìn thẳng vào mặt Yến Tuân, đắn đo thật lâu mới trầm giọng nói: “Nói vậy lúc huynh nói với Lý Sách muốn vào chợ đen ở Biện Đường thu mua lương thảo cùng quân nhu chỉ là trên danh nghĩa thôi sao? Mục đích thật chính là muốn mượn thủy lộ ở Nam Cương tiến vào Hoài Tống?”
Yến Tuân gật đầu, “Muội nói không sai.”
Sở Kiều cau mày, nói: “Biện Đường hiện đang bất hòa với Hoài Tống, chúng ta làm vậy tương đương với thiết lập quan hệ mua bán vũ khí với Hoài Tống, có tính là đứng về phía Hoài Tống mà đối địch với Lý Sách không?”
“Không thì phải làm sao?” Yến Tuân quay đầu lại, ánh mắt lộ vẻ sắc bén, “Biện Đường không muốn công khai đối địch với Đại Hạ nên không dám trợ giúp chúng ta, ta cũng không thể tới Đại Hạ tìm mua lương thực, chỉ có thể tìm người thứ ba. “
Dẫu trong lòng hơi không đành lòng nhưng Sở Kiều không thể không thừa nhận Yến Tuân đúng. Nàng cũng biết bọn họ may mắn vì Hoài Tống có gan làm như vậy, bằng không bây giờ bọn họ chỉ còn nước đánh ra khỏi Mỹ Lâm Quan đi bàn chuyện làm ăn với Khuyển Nhung mà thôi.
“A Sở, muội cho rằng Lý Sách không biết ý đồ của ta sao?” Yến Tuân thở dài, chậm rãi tiếp lời: “Bất luận chúng ta có cẩn thận đến mức nào, mấy ngàn xe lương thảo muốn bình yên băng qua nội cảnh Biện Đường thì phải vòng qua khu vực chợ đen một bận, muội cho rằng Lý Sách không hề hay biết?”
Sở Kiều ngẩng đầu lên, trong mắt khẽ lóe.
“Hắn chẳng qua chỉ giả vờ không biết đấy thôi, đối với Biện Đường mà nói, Đại Hạ và Bắc Yến đánh đến ngươi chết ta sống, giằng co hơn chục năm rồi đồng vu quy tận là tốt nhất. Hoài Tống giúp đỡ chúng ta thì Biện Đường cũng có lợi, vì vậy bọn họ mới có thể ngó lơ ngầm đồng ý như thế. Ba đại quốc giữ thế chân vạc nhiều năm như vậy, kẻ địch của Biện Đường không chỉ có Hoài Tống, mãnh hổ chiếm cứ Hồng Xuyên là ai, Lý Sách hiểu rõ hơn muội nhiều.” Yến Tuân khẽ thở dài một hơi, mắt nhìn xa xăm xuống hàng vạn ánh đèn dưới chân núi.
“Huống chi, chúng ta cũng thực sự không thể cầm cự được lâu. Cuộc chiến với Đại Hạ chính là chiến tranh lâu dài, nhất định phải nhìn xa, không thể chỉ biết mỗi cái lợi trước mắt. Bắc Yến nhiều năm liên tục có chiến loạn, phương Bắc còn không ngừng bị Khuyển Nhung quấy phá, vụ mùa thu đông hàng năm dân chúng đều chịu nạn cướp bóc, cộng thêm sự tàn phá của chiến tranh, tổn thất quả thật quá lớn. Bọn họ mong chờ ta có thể trở về Bắc Yến, nhưng lại không biết chỉ cần ta trở về, chiến tranh sẽ được phát động ở quy mô cao nhất, khổ sợ của bọn họ chỉ có tăng chứ không giảm. Trong hội nghị hôm trước muội nói rất đúng, bá tính chính là nền tảng của nghĩa quân Bắc Yến. Ta nghe nói hiện giờ có rất nhiều gia đình không có lương thực dự trữ cho mùa đông, nếu năm nay không có tiếp tế, dân chúng sẽ bị chết đói vô số kể. Trong khi đó ta cần phải làm cho dân chúng cảm thấy, chỉ cần ta trở về thì đời sống ở Bắc Yến sẽ khá hơn, chỉ có như vậy bọn họ mới có thể trung thành theo ta đến cùng.”
Sở Kiều gật đầu, trong lòng vẫn có chút khổ sở nhưng chỉ nhẹ giọng nói: “Huynh nói đúng.”
“A Sở, chớ suy nghĩ quá nhiều, mọi chuyện rồi cũng sẽ qua.” Yến Tuân vỗ vai Sở Kiều, kiên cường cười nói: “So với bao nhiêu khổ sở chúng ta đã trải qua thì hiện tại có là gì.”
Gió đêm buốt giá phả lên mặt Sở Kiều, lông mi của nàng rất dài, vừa đen vừa dày, chớp chớp nhìn như hai cánh quạt nhỏ. Nàng mỉm cười, nói: “Yến Tuân, ta tin tưởng huynh.”
“Ừ.” Yến Tuân đưa tay ôm lấy Sở Kiều, hôn nhẹ lên trán nàng, cánh môi ươn ướt lành lạnh như băng.
Sở Kiều tựa vào lồng ngực rộng rãi rắn chắc của Yến Tuân, qua lớp áo lông dày cộm vẫn có thể nghe được từng tiếng tim đập vững vàng kiên định của hắn. Động tác của hai người rất tự nhiên, suốt tám năm qua vẫn luôn như vậy, dù không lên tiếng nhưng hai người luôn cực kỳ ăn ý, sự thấu hiểu đó như rượu ngon, ủ lâu năm sẽ tỏa ra hương thơm nồng đậm.
Có loại cảm tình giống như bờ đê cứ sừng sững đứng chắn bên bờ sông, từng năm này qua năm khác, không ồn ào khoa trương nhưng lại hết sức vững vàng. Có lẽ rất nhiều người sẽ không để mắt tới bờ đê vì sự lặng lẽ của nó, nhưng một khi nó không còn, đại hồng thủy sẽ lập tức ập đến tàn sát mọi thứ, để lại hậu quả không thể tưởng tượng nổi.
Tương nhu dĩ mạt* nhưng khi ở cạnh nhau, hai người Sở Kiều và Yến Tuân đều bình thản đến thái quá, thực không hợp với số tuổi. Nhưng cũng không thể trách, những nỗi thống khổ cùng từng trải kia đã sớm khiến bọn họ trưởng thành, mọi nhiệt huyết cùng kích động vẫn còn nhưng chẳng qua đều được che giấu rất tốt.
* Thành ngữ này nằm trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nghĩa đen của thành ngữ miêu tả tình cảnh của hai chú cá sống trong một suối cạn nước, đã cùng phun nước bọt để làm ướt cho nhau. Nghĩa bóng của thành ngữ là lúc hoạn nạn thì hãy giúp đỡ lẫn nhau.
“Yến Tuân, Đại Hạ sẽ phái ai lãnh binh tấn công Bắc Yến? Mông Điền? Triệu Triệt? Sẽ là ai chứ?”
“Mông Điền đã già.” Giọng Yên Tuân có chút nặng nề tang thương, trong gió đêm còn hơi khàn khàn, “Về phần Triệu Triệt, bản thân hắn hiện tại có lẽ còn đang chịu không ít phiền toái.”
“Hửm? Vì sao?”
Yến Tuân mỉm cười, cúi đầu búng nhẹ lên trán Sở Kiều, nhướng mày nói: “A Sở, không phải muội đang cố ý đó chứ? Chuyện như vậy mà cũng phải hỏi?”
Sở Kiều lầm bầm xoa xoa trán, chun mũi nói: “Ở cùng huynh nên người ta không muốn động não chứ sao nữa.”
Yến Tuân dở khóc dở cười, xem ra cho dù có cơ trí đến đâu thì phụ nữ vẫn luôn có lúc lộ bộ mặt trẻ con.
“Sau khi hoàng thành xảy ra nội loạn, thổ phỉ các chốn đều theo đó mà vùng lên, chư hầu phiên vương vài nơi cũng không ngừng thăm dò thực lực của Triệu thị, ngoài ra, thành Chân Hoàng còn bị ôn dịch hoành hành nên Triệu thị bất đắc dĩ phải dời đô. Đây là lần đầu triên trong suốt trăm năm qua Triệu thị bị thất thế đến như vậy, cơ hồ đã trở thành trò cười của khắp thiên hạ. Nhưng chỉ có Triệu Triệt không hề rút lui mà vẫn cứng rắn lưu lại bảo vệ dân chúng hoàng thành chống đỡ thổ phỉ, thiết lập sự uy hiếp lên đám chư hầu phiên vương, cho nên bất kể là về mặt chính trị hay quân sự đều đạt được uy danh mạnh mẽ. Muội cho rằng, Hạ hoàng luôn nhìn chăm chăm những người có khả năng tiếm quyền mình và đám trưởng lão luôn nhăm nhe quyền lực kia sẽ dung nạp được hắn sao?”
Sở Kiều gật gà, “Huynh nói rất đúng.”
Thấy mắt Sở Kiều sắp không mở nổi, Yến Tuân bật cười, nói: “Đúng cái gì, nhìn bộ dáng gà gật của muội kìa.”
“Không... có... ta đang lắng nghe mà.” Sở Kiều ngáp một cái.
Yến Tuân đứng dậy, ôm bổng Sở Kiều lên, “Trở về thôi, chớ quan tâm chuyện người khác nữa, dù sao đi nữa, ai tới cứ tới, chúng ta cứ chờ xem ai sẽ đứng ra làm chim đầu đàn là được.”
Sở Kiều vòng tay qua cổ Yến Tuân, nép vào trong ngực hắn, buồn bực 'ừ' một tiếng rồi ngủ thiếp đi.
Quân doanh xa xa vang lên tiếng kèn báo hiệu tắt đèn, hàng nghìn hàng vạn ngọn đèn dần vụt biến mất, chỉ còn lại không gian mênh mang ánh trăng. Yến Tuân nhìn thiếu nữ trong lòng, bất chợt cảm thấy tràn đầy sinh lực, lần đầu tiên trong đời cảm thấy tràn trề hy vọng đối với cuộc sống. Cuối cùng hắn đã bảo vệ thành công, đã đoạt lại được thứ thuộc về mình.
.................................................................................................
Cùng lúc đó, chân núi Thương Mục sừng sững thuộc Hồng Xuyên cách đó vạn dặm sáng rỡ ánh đèn, vô số ngọn đuốc rồng rắn kéo thành hàng dài, tiếng ngựa hí cùng chiến ca hành quân của binh sĩ không ngừng vang xa. Bốn phía gió thổi rì rào, cỏ dại cao đến nửa người, xám xịt cả một vùng, áo giáp cùng võ kiếm của binh sĩ va chạm phát ra tiếng leng keng trong trẻo.
Triệu Triệt đứng ở đầu hàng, gió lạnh thổi lên khuôn mặt bền bỉ hiện dấu phong sương của hắn, vạt áo choàng đen sau lưng tung bay phần phật, để lộ chiến giáp màu đỏ sậm bên trong, tay hắn đặt trên chiến đao đeo bên hông, toàn thân như một bức tượng điêu khắc bằng băng. Nam nhân nhìn đoàn quân từ từ đi qua trước mặt, chậm rãi nhưng cuồn cuộn như dòng thủy triều, dấy lên bụi mù ngập trời, người ngựa không ngừng lướt qua rồi dần biến mất sau đường núi quanh co. Trong màn đêm, bóng lưng cao ngất kia nhìn vừa vững vàng vừa sắc bén như một lưỡi đao, nhưng mỗi khi gió thổi qua khiến vạt áo choàng run rẩy, hắn lại lộ vẻ cô độc cùng tịch mịch khó tả bằng lời.
“Điện hạ, mời lên ngựa, chúng ta cần phải trở về hoàng thành trong vòng hai ngày, Thánh thượng rất nhớ ngài.” Gã quan viên ở thượng luật viện* đứng sau lưng nam nhân lên tiếng.
*Nơi ban bố điều luật, thi pháp trong triều đình Đại Hạ
Đứng cách hai người không xa là hai trăm binh sĩ vũ trang đầy đủ của thượng luật viện, tuy đao còn chưa rời vỏ nhưng ai cũng mang sắc mặt lạnh lùng không thể xâm phạm.
Không khí lộ vẻ lúng túng gượng gạo, hô hấp tất cả đều hơi dồn dập, đối mặt với vị Thất hoàng tử vốn nổi danh trong triều từ sớm, không ai dám coi thường dù chỉ một chút.
Triệu Triệt chậm rãi xoay người lại, sắc mặt vô cùng bình tĩnh chứ không hề kích động như trong tưởng tượng của gã quan viên, ánh mắt sắc lạnh của hắn lẳng lặng quét một vòng khiến ai nấy đều bất giác có phần nao núng.
.................................................................................................
Đầu tháng 12, Thất hoàng tử Triệu Triệt của Đại Hạ được triệu về kinh từ Thương Mục sơn, hai mươi vạn quân Tây Nam của hắn bị chuyển sang cho Tam hoàng tử Triệu Tề làm thống soái. Ba ngày sau, Triệu Tề hội họp cùng Thập Tứ hoàng tử Triệu Dương vừa trở về từ Tây Bắc, chỉnh đốn quân hai bên, đổi tên thành quân phạt Bắc. Đại quân chỉ nghỉ ngơi hồi sức trong một ngày rồi nhanh chóng hành quân theo hướng Tây Bắc, được các quận châu nhỏ dọc đường tích cực cung ứng lương thảo cùng quân nhu. Cứ như thế, cuộc chiến phạt Bắc của Đại Hạ đã chậm rãi được mở màn.
Ngày Triệu Triệt trở lại thành Chân Hoàng, cả thành trong nháy mắt liền sôi trào, dân chúng đều chen nhau chạy đến sườn núi Lạc Mã ba mươi dặm ngoài thành, hô hào một cách vui mừng, khiến xe ngựa của Triệu Triệt không thể đi được. Đối với vị điện hạ một mình ở lại thủ đế đô này, dân chúng trong thành đều thật lòng ủng hộ hắn, dân chúng hai bên đường ai cũng lớn tiếng hô lên vương hiệu của hắn, ai cũng đưa ánh mắt nhiệt tình nhìn cỗ xe ngựa phong trần kia. Phụ nữ cùng trẻ em cũng lớn tiếng mong mỏi: “Điện hạ, xin hãy lộ mặt, xin ra ngoài cho chúng ta nhìn thấy!”
Đám đông cuồng nhiệt như say thuốc, không ngừng quơ tay kêu lớn: “Điện hạ của chúng ta đã về rồi!”
Trước đó thậm chí còn có quân nhân lén chạy ra khỏi quân doanh, thay quân phục ra rồi theo trưởng quan của mình đi đón vị điện hạ vừa bị tước đoạt quân quyền này, nhiệt tình tung hô: “Kính chào điện hạ, mừng ngài đã về!”
Sắc mặt của đám binh sĩ thượng luật viện đều rất xấu, xuyên qua vòng vây của thủ vệ hoàng thành, ánh mắt xem thường của quần chúng vẫn thi nhau chĩa vào người bọn họ, lạnh lẽo sắc bén như lưỡi đao không thấy máu thề không tha.
Triệu Triệt ngồi trong xe ngựa, mặt tái nhợt. Nghe được tiếng tung hô của quần chúng bên ngoài nhưng hắn cũng không dám thò đầu ra, thật sự không biết nên dùng thái độ cùng vẻ mặt gì đối mặt với đông đảo dân chúng thật lòng ủng hộ mình kia. Trước đây, hắn chưa từng thực sự chú tâm để mắt nhìn những người này, hắn cho rằng bọn họ đều là nô lệ của đế quốc, có thể tùy ý giết chóc như heo như chó, mạng sống nhỏ bé không đáng một đồng. Mặc dù hắn từng một mình lưu lại bảo vệ hoàng thành, nhưng đó chỉ là vì hắn muốn bảo vệ quốc gia, gìn giữ huyết mạch của mình, gìn giữ uy nghiêm của Đại Hạ chứ không phải vì muốn bảo vệ gia đình nhà cửa của những thường dân kia.
Nhưng sau nhiều lần vào ra sinh tử, kinh qua trăm trận chiến, sau khi ổn định cục diện, đế quốc lại hoài nghi chèn ép hắn, ngay cả phụ hoàng cũng kiêng dè năng lực của hắn, hội trưởng lão thì một lời cũng không nhắc tới chiến công của hắn. Mà ngược lại, vô số tấu chương được đưa đến thượng luật viện, nói cái gì e sợ hắn nhân thời loạn bồi dưỡng thực lực, e sợ hắn tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, e sợ việc uy danh của hắn được nâng cao trong quân đội. Việc binh quyền bị tước đoạt, bị giam lỏng trên danh nghĩa nhiều năm trước lại một lần nữa tái hiện, mà khi hắn tay trắng trở lại hoàng thành, người vẫn trước sau như một kính yêu cùng ủng hộ hắn, chỉ có dân chúng với hai bàn tay trắng này.
Đối với phần thiệt tình cùng cảm kích của bọn họ, Triệu Triệt đột nhiên cảm thấy bi ai đến cùng cực.
Bọn họ còn chưa rõ, chính bởi vì chính sách cai trị tàn bạo của đế quốc mới dẫn đến cơn loạn lạc này, bọn họ lẳng lặng chịu tất cả mọi hậu quả nhưng vẫn có thể vì một chút nhân từ của một thành viên trong giai cấp đầu sỏ mà cảm động đến rơi lệ.
Triệu Triệt đột nhiên nhớ đến trước đó không lâu, khi Sở Kiều còn ở trong Kiêu kỵ binh đã từng nói với hắn: “Trên thế gian này, người có tấm lòng bao dung khoan hồng nhất chính là dân chúng, trăm ngàn năm qua, bọn họ luôn im lặng chịu đựng hết mọi thứ. Chính sách tàn bạo, thuế cao, áp bức đè nặng, bọn họ nhịn nhục lao lực nhưng lại ăn bữa hôm lo bữa mai, cực khổ trăm bề làm lụng mà cuối cùng phải đem hết thành quả cống nạp lên trên, chỉ được lưu lại chút ít để sống nhưng chưa từng một câu oán hận. Thế nhưng chỉ cần ngươi ban cho bọn họ một chút từ bi, đối xử với bọn họ tốt một chút thì bọn họ sẽ lẳng lặng ghi nhớ trong lòng, thật tâm ủng hộ cùng yêu kính ngươi.”
Khi đó vì đang lợi dụng nữ nô lệ thoạt nhìn không đáng bận tâm này, nghe xong hắn chỉ cười nhạt một tiếng, không buồn khinh bỉ mở miệng phản bác.
Nhưng hiện tại, hắn lại đột nhiên nhận ra được, nội tâm như có chút kích động đang sinh sôi nảy nở, giống như một hạt mầm đang phá vỏ từ từ sinh trưởng.
.................................................................................................
Viện Thanh Sơn, phủ Gia Cát.
Vị Tứ thiếu gia của Gia Cát gia đang nhàn rỗi ngồi trong phòng khách uống trà. Đã nhiều năm như vậy nhưng nam nhân này vẫn có yêu cầu rất cao với chất lượng cuộc sống. Hiện tại tuy địa vị trong gia tộc bị xuống dốc, nhưng hắn cũng không hề lộ vẻ chán nản ù lì như bên ngoài phỏng đoán, ngược lại còn rất thoải mái phẩm trà chăm lan, viết chữ đọc sách, thỉnh thoảng còn đi trường ngựa cưỡi ngựa dạo quanh.
Nhìn bộ dáng này của hắn, không ai tưởng tượng được rằng trước đó không lâu, người này vừa bị gia tộc thu hồi toàn bộ quyền lợi, bị đạp khỏi sân chơi chính trị lẫn quân sự. Hiện tại ngay cả cửa chính phủ Gia Cát hắn cũng không thể bước ra, nói chính xác là đã bị giam lỏng.
Nguyệt Thất tiến vào phòng, thấp giọng nói: “Thiếu gia, thuộc hạ đã về.”
Gia Cát Nguyệt chỉ lười biếng 'ừ' một tiếng, cẩn thận dùng nắp gạt lá trà trong chén sang một bên.
“Thất điện hạ hồi kinh rồi, hiện giờ đã đi đến cung Thịnh Kinh, binh sĩ thượng luật viện cũng đi theo canh chừng. Nghe nói quân Tây Nam cũng đã bị Tam hoàng tử tiếp quản rồi.”
Động tác của Gia Cát Nguyệt chỉ hơi khựng lại, ngay sau đó hắn khẽ cười một tiếng, nghe không rõ là buồn hay vui.
“Các châu quận ở Tây Bắc đều phải chuẩn bị tiếp ứng lương thảo, gia tộc Ba Đồ Cáp cử đi mười vạn tinh binh, Thập Tứ điện hạ cũng phải chạy tới nhập quân, lần này đế quốc xuất ra đến hơn sáu mươi vạn quân, toàn bộ đều là kỵ binh cùng bộ binh vũ trang đầy đủ, quả thực là số lượng áp đảo.” Gia Cát Nguyệt uống hớp trà, khẽ hừ một tiếng rồi thản nhiên nói tiếp: “Bầy chó có đông đến đâu cũng đánh không lại một con sư tử, cử đi một đám người vô dụng như vậy, theo ta thấy thì vận số của Đại Hạ sắp tận rồi.”
Nguyệt Thất hơi sững sờ, hỏi lại: “Thiếu gia, Tam điện hạ xuất thân từ Giảng Vũ Đường, Thập Tứ điện hạ gần đây tung hoành ở Tây Bắc cũng không ít lần đụng độ quân Bắc Yến, quân của Ba Đồ Cáp lại nổi danh binh cường mã tráng, làm sao có thể xem là đồ bỏ được?”
Gia Cát Nguyệt chậm rãi ngẩng đầu lên, ngước tròng mắt đen như mực, từ tốn nói: “Lý luận suông là một chuyện, còn chân chính động đao thương lại là chuyện khác. Trận này nếu chỉ Triệu Tề hay Triệu Dương chỉ huy thì còn có năm phần thắng, nhưng hiện giờ lại cho cả ba đại quân cùng xuất chinh, thống soái đều là người tự cho bản thân tài ba siêu phàm, ngươi cho sẽ dẫn đến chuyện gì?”
Nguyệt Thất nghe hỏi thì nhất thời cứng họng.
Gia Cát Nguyệt khẽ nhíu mày, trầm giọng nói: “Quân đội chỉ có thể có một tiếng nói, như vậy mới vận dụng được toàn bộ chiến lược đã đề ra, bằng không thì thế chân vạc hiện tại chỉ có nước kiềm chế lẫn nhau mà thôi. Nếu Yến Tuân không biết lợi dụng điểm này thì thật sự chính là đồ ngu.”
Thân ảnh cao gầy của nam nhân chậm rãi đứng dậy đi vào nội sảnh, vừa đi vừa nói: “Bảo Chu Thành gọi thương đội đóng ở Tây Bắc trở về hết, trận chiến này sẽ kéo dài, phía Tây sẽ không buôn bán gì được đâu.”
Khí trời cuối thu lành lạnh, ánh mặt trời sáng chói mắt, vạt trường sam màu xanh nhạt của nam nhân chậm rãi biến mất sau vườn lan um tùm. Nguyệt Thất nhìn theo bóng lưng hắn, đột nhiên có nghi vấn muốn hỏi nhưng cũng không dám nói ra lời.
Thật ra thì hắn rất muốn biết, thiếu gia hy vọng bên nào thắng đây?
Đầu tháng 10, gió bắt đầu trở mạnh.
Thập Tứ hoàng tử Triệu Dương thống lĩnh quân Tây Bắc, Tam hoàng tử Triệu Tề dẫn đầu quân Tây Nam, trưởng tử của gia tộc Ba Đồ Cáp là Ba Đồ Cổ Lực thống lĩnh quân Kim Nhật, quân liên minh của các quận châu ở Tây Bắc cũng đồng loạt lên đường tiến đến Tây Bắc. Quân Tây Nam và quân Kim Nhật tấn công chính diện, quân Tây Bắc bọc đánh mé trái, liên minh phương Bắc bọc đánh mé phải, bốn thế công như lưỡi đao sắc bén, ào ạt tiến đến bằng khí thế như núi thở biển gầm. Gần bảy mươi vạn binh sĩ, thêm quân hậu cần chịu trách nhiệm bảo vệ hậu phương cùng lương thảo, tổng cộng trên trăm vạn người, rầm rập tiến về phía Bắc Yến.
Trên con đường dẫn đến Tây Bắc thuộc lãnh thổ Đại Hạ, dòng người ngựa này đi mải miết ngày đêm không ngừng, vô số lương thảo, vật dụng, nhân lực cùng chiến mã không ngừng tuôn vào đại doanh của quân Bắc Phạt. Sau nửa năm tích cóp, Đại Hạ đã sẵn sàng ra trận, cơn cuồng giận của đế quốc đứng đầu đại lục này, một khi bộc phát sẽ có khí thế không ai bì nổi.
Chiến hỏa sắp nổi lên, đao kiếm đã mài bén, đại quân Bắc Yến tụ tập ở biên thành Bắc Sóc, binh lính cẩn mật canh phòng, ban đêm cũng luôn chống giáo chờ trời sáng.
Cuộc chiến có một không hai trên đại lục Tây Mông đã bắt đầu như thế.