Hành lang đỏ son, mái ngói xanh biếc, ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá xuống trên đất, tô điểm thêm cho không gian cổ kính. Hoa nở rộ, hương vị ngày xuân treo hững hờ trên đầu ngọn liễu bên ngoài cửa sổ, lặng lẽ theo gió luồn qua song cửa vào phòng, ve vuốt nơi đáy mắt của cô gái trong phòng.
Bức thư trong tay nàng như mơ hồ thấm đượm mùi vũ khí và máu lửa, trên mặt giấy là nét bút cứng cáp, chỉ mấy dòng tựa như mặt nước gợn vài con sóng nhẹ, lẳng lặng lan tỏa trong tẩm điện ấm áp.
Sở Kiều mặc y phục xanh nhạt tựa người lên nệm lưng mềm mại, trước cửa sổ có treo một cái lồng chim, cửa lồng được mở rộng. Một chú chim trắng như tuyết đang lười nhác ngủ gà gật trong lồng, ba chiếc lông đuôi đỏ rực rũ xuống, nhìn không còn chút gì của vẻ uy phong ngày thường.
Nguyệt Thất nói con tuyết quyên được Gia Cát Nguyệt nuôi này vốn là giống chim hung dữ nhất ở Thanh Hải, bay cực nhanh, vuốt cũng cực sắc, hơn nữa còn hết sức thông minh.
Sở Kiều dùng đũa gắp một miếng thịt tươi đưa vào lồng, chú tuyết quyên không buồn mở mắt, chìa mỏ ngoạm lấy miếng thịt, chóp chép hai cái rồi nuốt chửng, sau đó nghiêng đầu ngủ tiếp.
Đúng là một con chim lười, cả ngày cũng không thèm kêu một tiếng.
Sở Kiều ngước lên nhìn nó, đầu ngón tay vuốt ve lá thư trong tay, trong lòng dâng lên cảm giác ấm áp.
Tuy lười nhưng rất hữu dụng.
Bức thư này từng là giấy báo tin, nhưng hôm nay đã xem như là thư nhà rồi.
Hôn kỳ gần kề, hai ngày nữa chàng sẽ trở về.
Nàng sẽ mặc hỷ phục, đội mũ phượng, ngồi lên kiệu tám người khiêng, đường hoàng bước qua cửa nhà chàng trong tiếng nhạc tưng bừng. Sau đó nàng sẽ là thê tử danh chính ngôn thuận của chàng. Nàng lấy tờ canh thiếp* luôn được đặt dưới gối ra, trên bao thiếp vẽ uyên ương nghịch nước và bỉ dực song phi bao phủ bởi trăm hoa, bên trong là tên của hai người bọn họ, một trái một phải.
*Canh thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái trao đổi canh thiếp của trai gái để đính ước với nhau.
Sở Kiều cảm thấy bản thân hiện giờ giống như loài tuyết quyên ở Thanh Hải này vậy, sau khi cởi bỏ lốt ngoài sắc bén sát phạt vốn có thì sẽ chỉ muốn yên ổn ở trong lồng son, dù cửa lồng mở rộng cũng chẳng chịu bay ra ngoài.
Trên đời có muôn vàn loại cửa, nhưng chỉ loại cửa vô hình mới có thể chân chính ngăn cản bước chân người khác một cách vĩnh viễn.
Chàng là Tư mã của Đại Hạ, nhưng lại có tước vị phiên vương, nàng cũng xuất giá theo lễ nghi dành cho công chúa, hồi môn và sính lễ chất đầy một sân. Các loại châu ngọc kỳ trân chất như núi, triều phục do Thượng y cục chuẩn bị cho nàng và vật phẩm ban thưởng từ trong cung xếp thành dãy dài, lễ vật do các thế gia hào môn đưa đến cũng đã chiếm trọn một gian điện vốn trống trải.
Nàng cũng hiếm khi hăng hái như hiện giờ, thỉnh thoảng còn dẫn Thanh Thanh, Mai Hương và Hoàn Nhi đi xem đống lễ vật kia, mấy tiểu cô nương chưa từng nhìn thấy nhiều đồ quý giá như vậy nên ai cũng tròn mắt kêu to vô cùng khoa trương, hệt như một đám người nhà quê mới lên kinh lần đầu.
Tối nay Sở Kiều sẽ phải đến ở tại chính phủ Gia Cát, để chủ mẫu Gia Cát gia chuẩn bị tiến hành các nghi lễ trước ngày cưới dành cho tân nương. Nàng không có nhà mẹ đẻ, cho nên trước ngày cưới chỉ có thể ở tại phủ Gia Cát, sau đó xuất giá từ khuôn viện mình ở lúc nhỏ là Thanh Sơn viện, gả vào phủ Tư mã tráng lệ.
Hoàng hôn phủ xuống, thời gian như gợn sóng trên mặt hồ, từng chút một mở rộng, bao trùm bốn phía.
Sau khi tiến vào phủ Gia Cát, Sở Kiều cũng chưa nhìn thấy chủ mẫu, chỉ có nhóm người Kinh gia là vẫn luôn theo bên cạnh. Nàng bảo Vu Tiêu Hòa đến bầu bạn cạnh mình. Cô thiếu nữ xuất thân không cao này nhìn thấy nàng thỉnh thoảng sẽ thất thần thì lẳng lặng lấy ra một nắm hương Tô Hà. Mùi hương rất quen thuộc, dường như rất lâu về trước, nàng từng học được phương pháp điều phối nó ở ngự dược phòng thì phải.
Một nhúm hạt tía tô, một nhúm bách hợp, một nhúm quế, một nhúm mẫu đơn, hai nhúm nhụy sen, hai phần dầu hoa hồng, hai phần dầu chuối, hai phần...
Cũng chẳng phải dược liệu quý giá gì nhưng có thể tạo ra mùi hương giúp an thần dưỡng khí, hiệu quả nhất trong việc giúp người hay bị ác mộng quấy nhiễu an giấc.
Hai ngày sau, hạ nhân đi vào nói Gia Cát Nguyệt đã trở về, có đến bái kiến phụ mẫu ở chủ phòng nhưng theo lễ nghi không thể tới gặp nàng.
Sở Kiều được tin vào lúc đang tắm, cả người chìm trong nước ấm, vô cùng thư thái. Hạ nhân đưa thư đến, nước từ đầu ngón tay nàng thấm ướt giấy khiến nét mực hơi nhòe, trên thư chỉ có một dòng chữ thanh mảnh nhưng cứng cáp: “Ta đã về, năm ngày sau sẽ đến đón nàng.”
Năm ngày sau chính là đại hôn của bọn họ.
Đến đêm, Sở Kiều đưa tay sờ vào hàng dây leo đã hơi héo vì ánh nắng ban ngày, đầu ngón tay dính chút bụi li ti. Suy nghĩ trong đầu tràn ra như tầng tầng dây leo. Hình bóng bức thư chi chít chữ vương vấn lượn lờ, trên thư là những câu chữ chân thành vẫn đang viết dở.
Đầu ngón tay Sở Kiều trắng bệch, tiếng binh giáp đao kiếm ngày xưa như quanh quẩn bên tai, tựa một khúc nhạc đều đặn không ngừng.
“Đại nhân, người có đi cùng ta không?”
Sở Kiều lắc đầu, khẽ cười: “Ta phải ở lại đây.”
Hạ Tiêu gật đầu, cúi mình hành lễ, “Đại nhân bảo trọng.”
Thành cửa sổ hơi ẩm ướt, trăng trên cao vừa sáng lại vừa tròn, Sở Kiều ngước lên nhìn vầng trăng trong trẻo, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Gió sắp nổi lên rồi.”
Gia Cát gia phái ba vị phu nhân đến chải tóc cho tân nương đều bị Sở Kiều đuổi đi, vài vị phu nhân lớn tuổi của Kinh gia chủ động yêu cầu cũng không được nàng đáp ứng. Đêm trước ngày cưới, cuối cùng vẫn là Mai Hương bị đẩy vào phòng ngủ.
Mai Hương luôn kiên cường nhưng bây giờ lại tay run run giúp nàng mặc hỷ phục bằng gấm tơ vàng dệt chìm hoa văn hải đường tinh xảo, viền áo thêu hình chim loan, hoa văn mẫu đơn tám màu trên tà váy điểm xuyến ngọc bát bảo, ngọc thiên thương, điền ngọc bạch ngọc và cả huyết ngọc. Bên dưới ánh nến, châu ngọc và trang sức vàng trên tóc càng thêm rực rỡ lộng lẫy.
Mai Hương chảy nước mắt lã chã nhưng khóe miệng lại nhoẻn cười vô cùng vui vẻ. Sở Kiều đưa tay lau nước mắt trên mặt cô gái nhiều năm qua vẫn ở cạnh mình rồi ôm nàng vào lòng.
“Tiểu thư.” Mai Hương cũng ôm lấy nàng, đã nói không ra lời, chỉ có thể không ngừng nức nở gọi: “Tiểu thư, tiểu thư...”
Sáng hôm sau, ngày đại hôn cuối cùng cũng đến.
Lễ quan Biện Đường dàn hàng ở hai bên, toàn bộ đều dựa theo nghi thức xuất giá của công chúa. Loan giá khởi hành ra khỏi phủ Gia Cát, trước đến biệt viện của Biện Đường ở kinh thành nhận thánh chỉ của tiên hoàng Lý Sách và chúc phúc của Đường hoàng Lý Tu Nghi rồi lần lượt đi qua cổng Trang Nghị, cổng Càn Khôn. Tiếng nhạc rộn ràng trỗi lên, lụa đỏ giăng khắp nơi, tiền vàng được ném ra suốt dọc đường đi. Đại Hạ cũng phái ra rất nhiều lễ quan đi theo xa giá, đều theo nghi thức hòa thân mà làm.
Dân chúng tụ tập chiêm ngưỡng đông như biển, tám mươi hỉ nương ngồi xe đi theo loan giá đều là tỷ muội và phu nhân của Gia Cát gia. Sở Kiều căng thẳng đến mức lòng bàn tay rịn đầy mồ hôi, hô hấp cũng khó khăn. Khăn hỉ che kín tầm mắt khiến nàng không nhìn thấy gì, chỉ có thể nghe được tiếng trống nhạc tưng bừng.
Đoàn xe càng đến gần phủ Tư Mã thì Sở Kiều càng khẩn trương. Nàng đã nhớ kỹ lộ trình, biết rằng nếu không có gì bất ngờ xảy ra, đến cầu Khổng Tước lễ quan Biện Đường sẽ chuyển giao kiệu hoa cho lễ quan Đại Hạ, Gia Cát Nguyệt sẽ đón dâu trên cầu Khổng Tước.
Song, đoàn xe vừa mới đến bờ hồ thì đột nhiên giảm tốc độ, sau đó ngừng hẳn lại.
Tim Sở Kiều giật thót, cùng lúc đó, từ hướng cung Thịnh Kim truyền đến một tràng chuông cổ ngân nga, mười bốn hồi chuông trang nghiêm văng vẳng lan khắp mọi nẻo đường, là năm hồi dài chín hồi ngắn chứ không phải là chín hồi dài năm hồi ngắn khi hoàng đế lên ngôi. Âm thanh thê lương tiêu điều như tiếng gió rít bao trùm đế đô Chân Hoàng phồn hoa.
Tất cả người đi lại trên đường đều dừng chân nhìn ra xa, mọi âm thanh đều im bặt, trời đất không một tiếng động, ngay cả chim trên trời như cũng ngừng bay. Không biết là ai phản ứng trước tiên nhưng ngay sau đó, tất cả mọi người đều đồng loạt quỳ rạp xuống đất, hướng về phía cung Thịnh Kim dập đầu.
Tiếng gào khóc vang vọng truyền đến quảng trường Tử Vi.
Sở Kiều giật hỉ khăn xuống, vén rèm xe nhìn ra ngoài, gió nhẹ phả lên mặt khiến tóc mai nàng bay bay.
Nàng chợt đột nhiên hiểu được...
Hạ hoàng đã băng hà.
Lễ quan Đại Hạ lập tức bi thương khóc to, còn lễ quan Biện Đường thì trợn mắt há hốc mồm, không biết nên ứng phó thế nào.
Gia Cát Hoài dẫn dắt đội đón dâu nghiêm nghị chỉ huy đội ngũ theo đường cũ trở về.
Gió nhẹ thổi đến, Sở Kiều lướt qua mặt hồ yên ả, dõi nhìn trên cầu Khổng Tước, lòng hỗn loạn như mặt biển dậy sóng. Đoàn xe dần đi xa, bóng dáng cầu Khổng Tước cũng nhỏ dần.
Sở Kiều chợt hoảng hốt, đột nhiên không biết mình đang ở đâu, cảm giác giống như ngày đông trên hồ Thiên Trượng năm đó, bão tuyết bao trùm trắng xóa bốn bề, hai người càng lúc càng xa, cuối cùng không nhìn thấy nhau nữa.
Nàng nhấc váy lên, đẩy cửa loan giá ra.
“Điện hạ!” Vu Tiêu Hòa giữ tay Sở Kiều, kinh hoảng kêu lên: “Điện hạ định làm gì vậy?”
Người phía trước đột nhiên xoay đầu lại, mắt phượng thăm trầm như đầm sâu, có ba phần tương tự Gia Cát Nguyệt. Người nọ chính là Gia Cát Hoài, huynh trưởng của Gia Cát Nguyệt.
Động tác của Sở Kiều chậm lại, đối mặt với hơn ngàn giáp binh đi theo đón dâu, nàng từ tốn đóng cửa xe rồi ngồi xuống, im lặng không nói.
Sở Kiều bị mang về biệt viện của Biện Đường. Nàng ngồi trong phòng cả ngày không ra ngoài nửa bước. Trời sập tối, Bình An đến báo rằng binh mã bên ngoài bị điều động tới tấp, nội cung Thịnh Kim đến giờ vẫn chưa công bố tin hoàng đế băng hà, dân chúng cũng trốn tịt trong nhà, ai cũng thấp thỏm không yên.
Sau khi trời tối hẳn thì biệt viện của Biện Đường đã bị bao vây hoàn toàn, ngay cả Bình An và Đa Cát cũng không cách nào ra ngoài thám thính tin tức.
Lúc trăng lên đến đầu cành thì bên ngoài biệt viện đột nhiên vang lên tiếng bước chân huyên náo tựa như có rất đông binh mã kéo đến. Đa Cát chạy ra xem, một lúc sau thì dẫn theo một nam tử cao lớn đi vào.
Gia Cát Hoài đứng ở bậc cửa, trên môi vẫn treo nụ cười khiêm tốn nhã nhặn, chẳng qua thái độ đã không còn lớn lối như trước, “Trong thành đang rất hỗn loạn, mời Tú Lệ vương điện hạ ở yên trong này, chớ tùy tiện đi lại bên ngoài.”
Sở Kiều gật đầu, điềm đạm trả lời: “Ta hiểu, đại ca yên tâm.”
Gia Cát Hoài cười nhạt, không nói gì thêm liền xoay người rời đi.
Đến nửa đêm, hướng cung Thịnh Kim đột nhiên vang lên tiếng chém giết rung trời. Tiếng tên bắn rít gió, tiếng gào thảm thiết cùng tiếng chiêng trống hòa lẫn với nhau thành một tổ hợp âm thanh vô cùng hỗn độn.
Bình An lo lắng chạy vào nói to: “Tỷ tỷ, chúng ta bị bao vây rồi!”
Sở Kiều ngồi ở chủ vị, trên người vẫn còn mặc hỉ phục, tay cầm chén trà, nghe nói cũng không nhúc nhích, chỉ có mày hơi nhíu chứng tỏ mình đã nghe thấy.
“Tỷ tỷ! Chúng ta sẽ bảo vệ tỷ mở đường thoát ra ngoài!” Thanh Thanh mặc giáp, vai đeo cung tên đi vào, khiến đám lễ quan tuổi tác đã cao của Biện Đường bị dọa sợ đến mặt trắng bệch.
Sở Kiều lắc đầu, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa, hơi siết nắm tay. Dưới ánh nến, hỉ phục trên người nàng đỏ rực tựa máu.
“Tiểu thư, gã Gia Cát Hoài kia không phải người tốt, hắn rõ ràng đang giam lỏng chúng ta.” Mai Hương cũng tiến lên nói.
Canh hai (từ 21 giờ đến 23 giờ khuya), tiếng động huyên náo bên ngoài đã dịu dần, Gia Cát Hoài lại tìm đến, lần này đã không còn buồn che giấu, chỉ thản nhiên nói: “Mời đi theo ta một chuyến.”
“Vinh Nhi sao rồi?”
“Yên tâm, ta và Lý Sách không thù không oán, chỉ cần ngươi chịu hợp tác, ta có thể bảo đảm tiểu tử kia vẫn an toàn.”
Sở Kiều đứng dậy, sảng khoái đáp ứng: “Được, ta đi với ngươi.”
Gia Cát Hoài nhìn nàng bằng ánh mắt thưởng thức rồi buông thêm một câu: “Ánh mắt lão Tứ thật sự không tệ.”
“Ngươi phản bội gia tộc như vậy, không sợ gặp báo ứng sao?”
Gia Cát Hoài bật cười, sự ngạo nghễ nhiều năm ẩn nhẫn hôm nay mới được bộc phát, cười nhạt hỏi lại: “Phản bội gia tộc? Ngươi làm sao biết không phải là gia tộc từ bỏ hắn?”
Sở Kiều thu lại vẻ sắc bén trong mắt, im lặng suy nghĩ trong chốc lát, cuối cùng gật đầu, “Ta hiểu rồi.”
“Quả nhiên là người thông minh, nhanh như vậy đã hiểu.”
Sở Kiều hỏi thêm: “Triệu Dương có thể hứa hẹn gì với Gia Cát gia mà đáng để các ngươi mạo hiểm như vậy?”
“Cũng chẳng có gì.” Gia Cát Hoài thản nhiên đáp: “Chỉ có điều, nếu là Triệu Dương thượng vị, Đại Hạ vẫn là Đại Hạ, thế gia vẫn là thế gia. Còn nếu là Triệu Triệt thượng vị, Đại Hạ sẽ trở thành Thanh Hải, Đông Hồ. Tương lai thế gia sẽ đi về đâu, ta không dám xác định.”
Quả nhiên là thế.
Sở Kiều gật đầu, không nói gì nữa.
“Lão Tứ đã bị bao vây ở quảng trường Tử Vi, thủ hạ chỉ có ba ngàn thân binh, còn lại đều ở ngoài thành. Kiêu kỵ binh, Lục doanh quân và Kinh kỳ quân bây giờ đều là người của chúng ta, quân Đông Hồ của Triệu Triệt đã ra khỏi thành, chạy về hướng đông rồi. Lão Tứ có ba đầu sáu tay cũng tránh không khỏi đường chết, nếu bây giờ ngươi có thể khuyên hắn đầu hàng thì ta còn giúp được hắn giữ lại mạng.”
Sở Kiều nhướng mày, bình tĩnh nhìn Gia Cát Hoài, “Ngươi nói thật chứ?”
Gia Cát Hoài cười cười, “Tuyệt không giả dối.”
“Được, thắng làm vua thua làm giặc, ta không còn lời nào để nói, dẫn đường đi.”
Gia Cát Hoài lại nói: “Vẫn phải làm khó ngươi một chút.”
Sở Kiều đưa tay ra, nói gọn lỏn: “Đến đi.”
Hai gã thị vệ cầm dây thừng đi đến chuẩn bị trói hai tay Sở Kiều lại.
Trong phòng sáng rực ánh nến, tiếng chém giết bên ngoài đã ngừng hẳn, Sở Kiều vẫn mặc hỉ phục, trên mặt treo vẻ thản nhiên. Hai gã thị vệ vạm vỡ đứng ở hai bên, một gã giữ tay nàng, gã còn lại vòng dây thừng quanh tay nàng, Gia Cát Hoài đứng ở đối diện, phía sau còn có bốn cận vệ.
Nến cháy *lách tách*, tiếng gió rít gào, Sở Kiều như loáng thoáng nghe thấy lời căn dặn tận tình của thầy huấn luyện ngày xưa: Ra tay phải nhanh, định vị phải chuẩn xác, đầu phải tĩnh, lực phải mạnh...
Khoảnh khắc dây thừng chuẩn bị siết lại, Sở Kiều chợt thụp người xuống thoát khỏi sự bắt giữ của gã thị vệ, bằng động tác cực nhanh rút bội đao ở hông hai gã ra rồi mạnh mẽ chém ngang, máu tươi bắn tung tóe.
Tiếng kêu của hai gã thị vệ trói tay nàng còn chưa kịp truyền đến màng nhĩ thì hai thanh bội đao đã bị ném cắm vào ngực hai cận vệ sau lưng Gia Cát Hoài. Sở Kiều thuận thế lao đến túm lấy tay một gã cận vệ khác, tay còn lại kẹp ngang cổ gã, xoay lưng ném mạnh gã qua vai, lực tay siết chặt, hai tiếng *rắc* giòn tan vang lên, gã cận vệ bị quẳng nằm sóng xoài trên mặt đất, xương cổ và xương vai đều bị bẻ gãy.
Mắt nhìn thấy gã cận vệ còn lại xoay người muốn chạy, Sở Kiều rút xuống một chiếc trâm ném trúng ót khiến gã nhã nhào, sau đó lao đến túm tóc nhấc đầu gã lên, tay vòng qua cổ giật mạnh. Gã cận vệ giãy giụa hai cái rồi trợn tròn hai mắt, người xụi lơ.
Tất cả đều xảy ra chỉ trong một khoảnh khắc, sau khi giải quyết xong gã hộ vệ cuối cùng, Sở Kiều cúi xuống rút chiếc trâm khỏi ót gã cận vệ, đi đến trước mặt Gia Cát Hoài, móc ra một thanh chủy thủ từ trong gót giày, điềm tĩnh nói: “Thắng làm vua thua làm giặc, ngươi còn lời gì muốn nói?”
Gia Cát Hoài trừng to hai mắt, liều mạng phản kháng. Sở Kiều lẳng lặng vung chủy thủ lên, máu tươi lại bắn ra.
Cửa chính bị đẩy ra đột ngột khiến gió thổi tung lớp lá vàng rụng đầy trên mặt đất.
Đám binh sĩ đồng loạt ngẩng đầu lên, chỉ thấy cô gái thân mặc hỷ phục đỏ thẫm đứng trước cửa, lạnh lùng giơ cao đầu của Gia Cát Hoài lên rồi tùy tiện ném xuống đất. Cùng lúc đó, bên ngoài biệt viện xuất hiện ánh đuốc sáng rực, soi rõ ràng chiến kỳ trắng hình mây đỏ in hai chữ 'Tú Lệ' thật to bay phấp phới đầy trời. Hạ Tiêu ôm một đứa trẻ trong lòng, thúc ngựa tiến lên phía trước, cao giọng nói to: “Đại nhân, may mắn không phụ lòng tin của đại nhân.”
Sở Kiều không chút e dè bước ra, một gã tướng lĩnh cấp cao phía đối diện bây giờ mới sực tỉnh hồn, lập tức hô to: “Các huynh đệ! Chúng ta phải báo thù cho Hoài thiếu gia! Giết bọn...”
Chữ 'chúng' còn chưa ra khỏi miệng thì một mũi tên nhọn đã chuẩn xác xuyên thủng cổ họng của gã. Hạ Tiêu mặt không thay đổi hạ cung xuống, phía sau là hằng hà sa số quân sĩ mặc giáp đen, ai cũng lăm lăm cung tên trong tay, im lặng như đá tảng, lạnh lùng nhìn đám binh sĩ trước biệt viện.
Trong bầu không khí đè nén căng thẳng đến tột cùng kia, thân ảnh mặc hỷ phục đỏ thẫm thêu hoa văn chỉ dành cho vương phi của Sở Kiều thong dong bước đi, nàng tiện tay nhặt một thanh đao từ trên mặt đất, tung mình nhảy lên chiến mã được Hạ Tiêu dẫn đến, quét mắt qua đám cận vệ của Gia Cát Hoài, ánh mắt lạnh lẽo như băng khiến bọn chúng hít thở không thông.
“Đại nhân, chúng ta đi đâu bây giờ?”
Sở Kiều ghìm chặt cương ngựa, chậm rãi xoay người lại đáp: “Đi quân doanh của Kiêu kỵ binh ở phía bắc thành.”
Hạ Tiêu hơi sững sờ, kinh ngạc hỏi lại: “Không đến quảng trường Tử Vi cứu Tứ thiếu gia sao?”
Sở Kiều phì cười, tự tin nói: “Yên tâm, chàng sẽ tụ hợp với chúng ta sau.” Nói xong liền lập tức thúc ngựa rời khỏi biệt viện.
Cổng thành bắc được Kiêu kỵ binh trấn giữ, tổng cộng có hơn bốn vạn người, ai cũng vũ trang đầy đủ tận răng. Đội quân vốn do Triệu Triệt thống lĩnh giờ đã hoàn toàn trở thành thân binh của Triệu Dương, theo hắn chinh nam thảo bắc nhiều năm nên trung thành không kém Tú lệ quân của Sở Kiều.
Hiện tại, bọn họ đang khinh thường nhìn đội ngũ chưa đầy ngàn người của đối phương, thủ lĩnh Hà Khiêm đứng trên cổng thành, lạnh lùng cười một tiếng rồi ra lệnh cho thuộc hạ: “Giết sạch bọn chúng cho ta.”
Tường thành vừa cao vừa dày, lại có đầy đủ vũ khí phòng thủ hạng nặng, không dùng binh số cao gấp năm lần quân thủ thành thì đừng mơ phá thành. Sở Kiều hiện tại chỉ mang theo chưa đầy một ngàn người mà dám khiêu khích đối phương gần ba vạn (30,000), quả thật chẳng khác gì tự tìm chỗ chết.
Kiêu kỵ binh phái ra một gã binh sĩ có giọng khỏe, đầu tiên là chiêu hàng Sở Kiều, nói một hồi vẫn không thấy nàng có phản ứng thì bắt đầu chuyển sang mắng Gia Cát Nguyệt là loạn thần tặc tử, vu hắn thông đồng với Thất vương gia Triệu Triệt mưu hại Hạ hoàng, nói hắn bây giờ đã bị bao vây trong thành, chạy đằng trời cũng không thoát, nhất định sẽ chết không chỗ chôn.
Sở Kiều thản nhiên nghe mà không hề có bất kỳ phản ứng gì, nhưng nghe thấy gã binh sĩ kia càng nói càng bậy bạ, hết nói Gia Cát Nguyệt cấu kết với Triệu Triệt rồi lại nói bọn họ đồng tính dâm loạn gì đó thì không khỏi tức giận, phẩy tay bảo Hạ Tiêu: “Đưa cung.”
Hạ Tiêu chẳng nói chẳng rằng lập tức đưa cung tên cho nàng.
Sở Kiều giương cung lắp tên, mũi tên rời dây xé gió lao vùn vụt. Gã binh sĩ kia đánh võ mồm nhiều năm, kinh nghiệm nhiều nên đã đề phòng từ sớm, thấy Sở Kiều giương cung thì lập tức tung mình nhảy khỏi lưng ngựa. Ai ngờ chân gã vừa chưa chạm đất thì một một mũi tên khác còn nhanh hơn lao đến, nhắm ngay miệng gã xuyên thẳng ra sau ót.
Hà Khiêm giận dữ hạ lệnh tấn công, cung thủ lập tức xếp thành hành nã tên trong tiếng xung phong rung trời.
So với quân Hạ đánh trống khua chiêng, phía Tú lệ quân lại hết sức yên tĩnh. Bọn họ không đứng trong tầm bắn nên chẳng phải lo, thỉnh thoảng tên của mấy binh sĩ sức to cũng bắn được đến đây nhưng lực bắn đã kiệt quệ, các chiến sĩ của Tú lệ quân chỉ tùy tiện dùng đao gạt nhẹ cũng tránh được.
Hà Khiêm là tướng thủ thành, theo lý nên trấn thủ cổng thành khi có địch tập kích. Nhưng bây giờ đám người Sở Kiều chỉ đứng từ xa nhìn mà không tấn công, như vậy thì đánh thế nào đây? Chẳng lẽ muốn lính của ông ta chạy xuống dùng giáo đâm bọn kỵ binh kia? Đồng liêu hiện tại đều đang anh dũng đánh đánh chém chém giúp Thập Tứ điện hạ giành giang sơn, ông ta lại chỉ có thể trấn thủ ở đây, khó khăn lắm mới có một nhóm kẻ địch mò đến, vậy mà bọn họ lại đứng đực ra đó không chịu động thủ. Hà Khiêm đang giận sôi gan thì chợt nhìn thấy đối diện có một kỵ binh tiến lên, cao giọng nói gì đó với ông ta.
Hà Khiêm sửng sốt, ra lệnh cho toàn quân yên ắng lại. Đành chịu, tuổi đã lớn nên tai cũng không còn tốt nữa, ông ta quay sang hỏi thị vệ bên cạnh: “Hắn ta nói gì vậy?”
Sắc mặt của viên thị vệ rất khó coi, ấp úng nửa ngày mới nhỏ giọng nói: “Tướng quân, hắn hỏi chúng ta có chịu đầu hàng hay không? Hắn nói nếu chúng ta còn khăng khăng không hàng thì bọn họ sẽ phải tiêu diệt chúng ta.”
Hà Khiêm lập tức bùng nổ, tiêu diệt ông ta?
Ông ta có bốn vạn đại quân, đối phương chỉ có không tới một ngàn. Tuy có nghe nói vị Tú Lệ vương này dụng binh như thần, thường có thể lấy ít thắng nhiều, nhưng đó đều là lúc nàng thủ thành, dựa vào lợi thế thành trì kiên cố vững chắc nên mới miễn cưỡng cầm cự được. Hôm nay nàng dẫn một ngàn kỵ binh muốn công phá thành trì cho ông ta trấn thủ, quả thực là si tâm vọng tưởng.
Trong lúc Hà Khiêm tướng quân còn đang gào thét giận dữ thì bầu trời phía đông đột nhiên xuất hiện một loạt pháo sáng.
Sở Kiều ngước nhìn phía đông, một lúc sau mới bình tĩnh nói: “Được rồi, chúng ta mở cửa thành thôi.”
Bình An ở bên cạnh thoáng sửng sốt, vừa định lên tiếng thắc mắc thì đã nghe thấy Hạ Tiêu nghiêm nghị hỏi: “Có cần phải tiêu diệt toàn bộ kẻ địch không ạ?”
Sở Kiều hơi nhíu mày, cân nhắc một lúc mới nói: “Chờ xem bọn họ có dám phản kháng không đã.”
Bình An trợn tròn mắt, còn đang định hỏi hai người họ có phải điên rồi không thì chợt nghe Hạ Tiêu quát to, một nhóm binh sĩ thúc ngựa tiến lên xếp thành hai hàng trước sau, mỗi hàng có tổng cộng bốn mươi người, đồng loạt giương cung, đầu mũi tên của hàng đầu có treo một bao dầu, còn tên của hàng thứ hai là hỏa tiễn.
“Mục tiêu là cổng thành Bắc, tổ 1 nhắm góc trái, tổ 2 nhắm góc phải, tổ 3 nhắm góc trên, tổ 4 nhắm góc dưới, tổ 5 nhắm chính giữa. Chuẩn bị, một, hai, bắn!”
Một loạt tên cột bao dầu rời cung bắn thẳng về phía cổng thành nặng nề, loạt tên thứ hai theo sát phía sau, cắm thẳng vào vị trí bao dầu vừa bắn lên cổng thành. Lửa bùng lên.
Hà Khiêm thoáng sửng sốt, nhưng liền cười to: “Tú Lệ vương định đốt cổng thành của ta đó à? Ha ha, nhiêu đó lửa chưa đủ đâu!”
Nhưng ông ta chỉ mới vừa lời thì đã nghe một tiếng *oành* vang dội nổ ra, tường thành rung chuyển dữ dội tựa như có động đất, khói đen bốc cuồn cuộn, cổng thành bị nổ thủng lỗ chỗ, bụi đất mù mịt.
Hà Khiêm trợn mắt há hốc mồm nhìn một góc cổng thành Chân Hoàng kiên cố mình đã canh gác hơn hai mươi năm chưa từng suy suyển, *ầm ầm* nứt toác rồi hóa thành một bãi phế tích. Cổng phòng thủ mà Đại Hạ luôn tự hào, trăm vạn đại quân cũng khó công phá được trong khoảnh khắc đã bị xóa bỏ thành tích ba trăm năm bất bại trên sách sử của mình.
“Tổ 6 đến tổ 10 chuẩn bị, mục tiêu chính là tường thành phía đông, tổ 6...” Tiếng của Hạ Tiêu lại vang lên, theo sau đó vẫn là âm thanh thuốc nổ oanh tạc phía đông cổng thành bắc. Sau ba lần như thế, toàn bộ cổng thành bắc đã bị sụp hơn phân nửa.
“Phía đối diện nghe đây!” Mười binh sĩ liên lạc thúc ngựa tiến lên, mỗi người cầm một chiếc loa tự chế đơn giản, cao giọng hô to: “Lập tức bỏ vũ khí xuống, lập tức bỏ vũ khí xuống, hai tay ôm đầu ngồi xuống đất. Đầu hàng chúng ta sẽ tha mạng. Phía đối diện nghe đây, lập tức bỏ vũ khí xuống...”
Mặt dính đầy khói bụi, Hà Khiêm trợn to mắt, làm sao cũng không ngờ mình lại thua dễ dàng như vậy, bốn vạn người của ông ta còn chưa kịp đánh một đao nữa là. Tại sao đối phương mới bắn mấy cái mà cổng thành của ông ta đã mở toang hoác rồi? Trên đời có loại pháo nổ đáng sợ như vậy sao? Sao ông ta chưa từng nghe thấy?
Một lát sau, Sở Kiều thúc ngựa đến, từ trên cao nhìn xuống Hà tướng quân đang ngồi xổm trên mặt đất, hờ hững gật đầu một cái rồi thản nhiên nói: “Hà tướng quân, cảm ơn vì đã nương tay.”
Khoảnh khắc đó, Hà Khiêm quả thật tức đến hộc máu.
Ngay lúc ấy, phía đông đột nhiên dấy lên một trận cát bụi, Gia Cát Nguyệt dẫn ba ngàn thuộc hạ ập đến, nhìn tràng diện trước mặt cũng thoáng hơi chấn kinh, nhưng thấy Sở Kiều bình yên vô sự thì mới thở phào nhẹ nhõm.
Bên dưới bầu trời đêm không trăng không sao, giữa chiến trường bụi đất hỗn độn, hai người ngồi trên lưng ngựa cách nhau thật xa, xuyên qua tầng tầng binh sĩ lẳng lặng nhìn nhau.
Sở Kiều nhoẻn môi mỉm cười, hiện tại nàng vẫn mặc bộ hỷ phục hoàng gia kia, tóc búi cao cài đầy châu ngọc, mi tâm đeo một miếng ngọc đỏ thẫm như máu. Đứng giữa khung cảnh lửa cháy này, toàn thân nàng toát ra vẻ cao quý sắc bén không thể tả bằng lời.
Gia Cát Nguyệt thúc ngựa đến gần, hỏi: “Nàng sao rồi?”
Sở Kiều mỉm cười, “Vẫn ổn.”
Đúng vậy, vẫn ổn. Nhận được thư của chàng, nàng biết sẽ có người nhân ngày cưới manh động, chỉ là không ngờ bọn họ lại to gan như vậy, may mà mọi chuyện vẫn ổn. Nàng lo lắng cho chàng nhưng vẫn phải kiên trì ẩn nhẫn. Chỉ lo lắng một chút thôi, không bị thương, không bị làm nhục, tất cả đều ổn.
Gia Cát Nguyệt quay đầu sang nói với bốn vạn Lục doanh quân và Kiêu kỵ binh, “Hoàng thượng không phải do ta và Thất điện hạ làm hại, kẻ mưu phản chính là người các ngươi tận hiến. Hiện giờ địch bên ngoài nhòm ngó mà Đại Hạ lại nội loạn không yên, các ngươi hãy trở về nói với Triệu Dương, chúng ta không cần tòa thành này, hắn muốn thì cứ thoải mái lấy.” Dứt lời lập tức vươn tay ôm Sở Kiều sang ngựa mình, dẫn toàn bộ thuộc hạ *rầm rập* ra khỏi thành.
Gia Cát Nguyệt nói không sai, thành Chân Hoàng quả thật là do hắn và Triệu Triệt phủi tay đưa cho Triệu Dương.
Trước đó bọn họ đã nhận thấy Triệu Dương có dị động, Gia Cát Nguyệt cố tình kích động binh sĩ ở Nhạn Minh Quan đến quấy nhiễu Yến Tuân, cũng loan tin Bắc Yến không còn sức đánh trả ra khắp nơi, cỗ vũ hội trưởng lão và quan lại trong triều náo loạn đòi đánh. Sau đó, mượn cớ chuẩn bị đánh Bắc Yến, Gia Cát gia thông qua hội trưởng lão đoạt lấy binh quyền trong tay Gia Cát Nguyệt, làm đủ hứa hẹn xin về một phe với Ngụy phiệt, tranh thủ sự ủng hộ của các thế gia, dùng cớ rèn luyện đẩy quân đội của Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt ra khỏi thành, tạm thời phân tán binh lực của bọn họ.
Đến ngày Gia Cát Nguyệt phải trở về kinh thành thân, công tác luyện binh ở Nghiệp Thành vẫn chưa xong nên Triệu Triệt phải ở lại đó giữ thành. Kế hoạch của Triệu Dương chính là nhân dịp này diệt trừ Gia Cát Nguyệt, sau đó chụp mũ phản tặc lên đầu Triệu Triệt. Đến lúc đó Triệu Triệt thân cô thế cô, dĩ nhiên sẽ mặc Triệu Dương tùy ý tàn sát.
Nhưng hắn không ngờ, dựa vào thực lực của ba đại quân là Lục doanh quân, Kiêu kỵ binh và Kinh kỳ quân, cộng thêm tư binh của Gia Cát Hoài, âm mưu bắt Sở Kiều làm con tin lừa Gia Cát Nguyệt vào tròng để tiêu diệt, cuối cùng lại thất bại thảm hại.
Toàn bộ quân đội Thanh Hải trong thành Chân Hoàng, khoảng hơn mười một vạn, đều chạy đến thành Đông Ngu, cộng thêm quân Hạ trung thành với Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt trong thành đã lên đến con số hai mươi lăm vạn.
Mà hiện tại, mười bảy vạn quân Đông Hồ của Triệu Triệt cũng đã tụ hợp lại ở Nghiệp Thành. Một đầu bắc một đầu nam kẹp thành Chân Hoàng ở ngay giữa.
Không quá ba ngày, chư hầu các nơi bắt đầu thi nhau manh động, Nghi Thành, Tuyên Hóa, Đại Liêu, Thanh Thành dẫn bốn đại quân treo cờ giết phản nghịch tiến vào thành Chân Hoàng, đánh chém kịch liệt với quân đội của Triệu Dương. Những người này cũng chẳng phải trung thành với Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt gì cho cam, chỉ là muốn nhân nội loạn chiếm một phần lợi mà thôi, kinh đô chỉ có mình Triệu Dương chiếm cứ dĩ nhiên biến thành một khối thịt béo trong mắt bọn họ. Vì vậy mấy chư hầu không có đầu óc đều không kiềm được bắt đầu mơ mộng ngôi vị hoàng đế.
Đây cũng chính là nguyên nhân vì sao Gia Cát Nguyệt quyết định buông bỏ thành Chân Hoàng. Nếu đã không thể tránh khỏi nội loạn, vậy cứ xây võ đài cho bọn họ đánh một trận thỏa thích. Dù sao thì bây giờ ai chiếm được thành Chân Hoàng cũng sẽ trở thành mục tiêu bị chỉ trích của thế gian.
Vì thế, chỉ trong một thoáng, dấu hiệu bất ổn lần lượt xảy ra trên khắp mọi miền lãnh thổ của Đại Hạ.
Gia Cát Nguyệt và Triệu Triệt nhân cơ hội mở rộng cửa khẩu ở Thanh Hải và Đông Hồ, phái đại quân canh phòng cẩn mật. Những dân chúng ở những địa phương bị ảnh hướng bởi chiến loạn nghe truyền miệng đều đồng loạt chạy về hai phía tây và bắc. Chưa tới ba ngày mà nội khẩu Thanh Hải đã có gần bốn mươi vạn dân chúng qua cửa. Quan binh Thanh Hải đã chuẩn bị trước hơn ba tháng nhưng vẫn bận rộn cuống cuồng vì đợt sóng dân chạy nạn.
Trong thành Chân Hoàng, bốn đạo quân chư hầu đánh chém hơn mười ngày cuối cùng cũng bại trận trước Triệu Dương. Rất nhiều chư hầu khác nhụt chí, bắt đầu chuyển sang mong chờ Triệu Triệt xuất binh, nhân tiện lượm lấy danh tiếng trung quân ái quốc, tỏ vẻ một chút trước tân chủ nhân.
Đầu tháng 4, Triệu Triệt tuyên bố xuất binh chinh phạt tội thần Triệu Dương. Xế chiều cùng ngày, Gia Cát Nguyệt cũng mang hơn hai mươi vạn quân tiến về phía thành Chân Hoàng.
Cũng ngay hôm đó, Tây nam quân vốn thuộc quyền Triệu Dương rời thành dẹp loạn trước đó cũng trở về thành Chân Hoàng. Thập thất hoàng tử Triệu Nghĩa những tưởng được cầm quyền lại bị cho ăn dưa bở, mười lăm vạn quân lại trở về trong tay Triệu Dương.
Sau đó, cuộc chiến song long đoạt đích rốt cục cũng rầm rộ nổ ra trong thời điểm băng tuyết vừa tan.
Sự tàn khốc của chiến tranh vẫn chưa bao giờ giảm bớt. Để đề phòng Sở Kiều lại dùng phương pháp phá thành kinh khủng kia, Triệu Dương không còn trấn thủ cổng thành mà phái rất đông binh sĩ bày trận mai phục trải dài gần ba mươi dặm quanh thành Chân Hoàng, bất đắc dĩ phải áp dụng phương pháp cận chiến với đại quân đông đảo hơn mình của Triệu Triệt và Gia Cát Nguyệt.
Có điều Triệu Dương lại không biết, trên thực tế, mấy năm gần đây Sở Kiều đều tự mình nghiên cứu cách chế tạo thuốc nổ, có làm thì cũng chỉ làm một ít. Vì không muốn loại vũ khí vượt thời đại này bị truyền ra ngoài rồi gây thương vong quy mô lớn, nàng chưa từng dạy cho bất kỳ ai khác phương pháp chế tạo.
Thi thể binh lính nằm la liệt như lá rụng cuối thu, trải dài khắp thảo nguyên xanh màu cỏ mới, tiếng kèn lệnh thê lương quanh quẩn trên bầu trời Đại Hạ cả ngày, khung cảnh tựa như địa ngục, khắp nơi đều là máu tươi tanh tưởi. Mỗi ngày đều có quân y khiêng băng ca chạy ra chiến trường, việc bọn họ làm nhiều nhất không phải là cứu người mà là cho những người bị trọng thương còn sống sót một đao, giải thoát họ khỏi cái chết đau đớn đến tột cùng.
Sở Kiều cũng là người kinh qua vô số chiến trường, nhưng nhìn thấy tràng diện như vậy vẫn không khỏi chạnh lòng.
Nàng từng hỏi Gia Cát Nguyệt, nhất định phải làm thế sao? Nhất định phải khiến binh sĩ Đại Hạ tàn sát lẫn nhau sao?
Gia Cát Nguyệt chăm chú nhìn nàng, khuôn mặt tuấn tú dị thường lộ vẻ kiên nghị không ai bằng, đáp rằng đây là chuyện không thể tránh, Triệu Dương cầm quyền trong một thời gian dài, thế lực trên triều đã cắm rễ rất sâu, trong quân đội lại hết sức có danh tiếng. Muốn Triệu Dương cam tâm tình nguyện để Triệu Triệt làm chủ nhân là chuyện không thể nào. Hắn và Triệu Triệt chỉ mới trở về Đại Hạ, rất khó trong thời gian ngắn tiêu trừ thế lực của Triệu Dương, cho nên nhất định phải đánh trận này. Khiến Triệu Dương vọng động, gán cái chết của Hạ hoàng lên đầu hắn, cũng như kích thích các chư hầu kéo binh mài mòn thế lực của hắn, nếu bây giờ không đánh thì sẽ không còn cơ hội tốt hơn nữa.
Sở Kiều rất muốn hỏi Hạ hoàng thật sự đã chết rồi sao? Đến cùng là ai ra tay? Là Triệu Dương sao? Là Triệu Triệt? Hay là chính bản thân Gia Cát Nguyệt?
Nhưng cuối cùng nàng vẫn không thể hỏi thành lời, mà ngược lại là do Gia Cát Nguyệt chủ động nói cho nàng biết.
Nhắc đến chuyện này, quả thật cũng là ý trời. Trong Ngự dược phòng có một gã ngự y tham ô, thường tự mình lén đổi vài loại thuốc tốt thành thuốc bị mốc. Mấy ngày đó lại đúng dịp bệnh tình trở nặng, Hạ hoàng sợ quan lại trong triều biết nên chỉ âm thầm bảo ngự y đổi thuốc chứ không báo ra ngoài. Trùng hợp là trong đám thuốc bị mốc có loại Hạ hoàng cần uống. Lúc trước Triệu Dương đảm nhiệm chức vị thống lĩnh Kinh kỳ quân nên từng sắp xếp vài người thân tín trong Ngự dược phòng cho nên biết được tin này trước tiên. Nhưng hắn lại không biết Triệu Triệt đã cài thân tín vào đội ngũ hầu cận của mình, cho nên thời điểm hắn được tin thì tin tức đó cũng đã được chuyển đến cho Triệu Triệt.
Cứ như thế, Hạ hoàng mỗi ngày uống thuốc theo đơn mới do ngự y thân cận kê đơn, thái giám thử thuốc khỏe mạnh nên uống thuốc mốc cũng chẳng hề gì, chỉ có Hạ hoàng tuổi già sức yếu bị thuốc mốc ăn mòn, cuối cùng lăn ra chết ngay ngày cưới của Gia Cát Nguyệt và Sở Kiều.
Hạ hoàng cẩn thận cả đời chẳng bao giờ ngờ rằng mình sẽ chết dưới tay một gã ngự y tham ô vô danh tiểu tốt. Hai đứa con trai của ông ta đều biết rõ chuyện này, nhưng lại không người nào muốn cứu ông ta.
Sau khi biết được, Sở Kiều im lặng hồi lâu, bất giác nhớ đến Yến Tuân thì chợt cảm thấy vô cùng bi thương.
Cả đời của Yến Tuân, tâm nguyện lớn nhất chính là giết chết Hạ hoàng báo thù cho cha mẹ và thân nhân mình, trải qua bao gian khổ mới nắm đại quyền trong tay, có được binh cường tướng mạnh nhưng kẻ thù lại bệnh chết trên giường. Không biết lúc được tin, Yến Tuân sẽ có cảm tưởng thế nào? Là vui sướng cười to hay bi phẫn gào lên? Có lẽ đều không phải, có lẽ hắn chỉ im lặng ngồi yên, dằn tất cả cảm xúc xuống tận đáy lòng, sang hôm sau vẫn tiếp tục làm chuyện nên làm.
Tiếng kèn hiệu vang lên, Triệu Dương vừa phái ba đoàn kỵ binh tấn công cánh hông, Gia Cát Nguyệt liền hạ lệnh cho bốn đội quân đến cánh hông tiếp sức, rồi từ đó tập kích Triệu Dương.
Cuộc chiến đã kéo dài hai ngày hai đêm không ngừng, đủ loại chiến thuật đều được thi triển. Triệu Dương và Gia Cát Nguyệt đều là kỳ tài hạng nhất, thế cục hiện vẫn ngang ngửa, không ai được phần thắng.
Tú lệ quân cũng đã ba lần phối hợp với Thanh Hải quân tấn công cánh phải phe Triệu Dương, Hạ Tiêu từng dẫn người xé toạc hàng phòng thủ của địch, nhưng chỗ hổng lại nhanh chóng bị địch lấp lại.
Ai cũng biết đây chính là cuộc chiến tranh đoạt hoàng vị. Người thắng sẽ ngồi lên đỉnh cao, người thua sẽ nhất định chết không chỗ chôn. Vì vậy thuộc hạ của bọn họ cũng mang tâm trạng liều mạng mà đánh, không có bất kỳ ai lùi bước, tựa như dù chỉ còn một giọt máu cuối cùng thì cũng phải đổ ra trên chiến trường.
Sáng ngày thứ ba, Gia Cát Nguyệt khoác quân trang, không hề dài dòng, chỉ rút chiến đao, cao giọng nói với các binh sĩ dưới quyền: “Hôm nay là ngày cuối cùng, sau trận chiến này, tên tuổi chúng ta chắc chắn sẽ được ghi vào sử sách.”
“Giết địch! Giết địch!” Hàng vạn hàng ngàn người đồng loạt hô to.
Sở Kiều đứng lẫn trong đội quân, ngước nhìn nam tử được vây giữa thiên quân vạn mã, bất giác khẽ mỉm cười.
Đánh một trận cuối vậy!
Trên thảo nguyên trống trải, chân trời xuất hiện một bóng đen dần lan ra. Quân đội của Gia Cát Nguyệt rốt cuộc cũng chính thức đụng độ quân chủ lực của Triệu Dương. Sau hai ngày khổ chiến, hai bên đều tổn thất nghiêm trọng nhưng không một ai có định lui bước.
Bóng đen trên thảo nguyên nhanh chóng trải rộng, không thấy đầu cũng không thấy đuôi, ào ạt tiến về phía đội quân của Gia Cát Nguyệt.
Hai trăm trượng, một trăm trượng, năm mươi trượng...
*1 trượng = 4 mét
Càng lúc càng gần, gần đến mức hai bên tựa hồ có thể cảm nhận hô hấp nóng hổi từ mũi ngựa của đối phương.
Chiến trường tràn ngập tử khí, quạ đen bay thành đàn trên không trung, thi thoảng phát ra tiếng kêu lạnh gáy.
Trống trận dồn dập không ngừng, hàng vạn hàng ngàn vó ngựa giẫm đạp khiến mặt đất chấn động. Ác chiến ở ngay trước mặt, tất cả mọi người như ngừng thở, tay siết chặt cán đao.
“Tấn công.” Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu lên, lạnh lùng phát lệnh tiến công. Cùng một lúc, phía quân Triệu Dương cũng lan truyền mệnh lệnh như vậy.
Kỵ binh tuốt chiến đao ra, tiếng tuốt đao như đánh động cả một vùng. Thảo nguyên chợt nổi gió mạnh, lướt qua từng đầu mũi đao sắc, chờ đợi một cuộc chiến sinh tử.
Ngay lúc đó, từ xa đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa hối hả, không gian tựa như có gió bắc lùa vào, lạnh buốt đến tận xương.
“Chiến báo khẩn cấp từ ba ngàn dặm! Chúc tướng quân ở biên giới Tây Nam gởi thư cầu cứu đế đô! Chiến báo khẩn cấp từ ba ngàn dặm! Chúc tướng quân ở biên giới Tây Nam gửi thư cầu cứu đế đô!” Viên lính đưa tin người đầy bụi đất nhanh như chớp lao đến giữa chiến trường trong ánh mắt kinh hãi của mọi người rồi nhảy xuống khỏi lưng ngựa, nói to: “Tướng quân! Điện hạ! Xin đừng đánh nữa! Có chiến báo từ Tây Nam! Biên giới xảy ra chuyện rồi!”
Toàn trường im lặng như tờ, không một ai đáp lời gã tiểu binh to gan chạy đến giữa cuộc ác chiến này.
“Ngươi nói gì?” Một giọng nói trầm thấp đột nhiên vang lên, thân là tổng thống lĩnh ở Tây Nam, binh lính ở đó đều xuất thân từ Tây nam quân, Triệu Dương tiến lên hỏi.
“Điện hạ! Xin điện hạ cứu mạng!” Gã tiểu binh nhìn thấy Triệu Dương thì mừng rỡ, vội vàng bẩm báo: “Yến Tuân dẫn bốn mươi vạn đại quân công phá cửa khẩu, đánh vào nội cảnh nước ta rồi. Trong vòng hai ngày đã càn quét mười chín tỉnh thành, khu vực Tây Nam đã biến thành một vùng đất khô cằn rồi.”
“Nói bậy!” Nguyệt Thất tay vẫn lăm lăm chiến đao, nghe vậy liền lạnh lùng nói: “Nhạn Minh Quan có hơn ba mươi vạn binh trấn giữ, sao có thể để Yến Tuân lặng yên không tiến động tiến vào nội cảnh Tây Nam?”
Tất cả nghe nói đều luôn miệng tán thành. Sở Kiều cố áp chế cảm xúc vọng động trong lòng, cũng cảm thấy chuyện này không hợp lý. Dẫu đang có nội chiến thì ai cũng biết tầm quan trọng của Nhạn Minh Quan trước sự uy hiếp của Bắc Yến. Bất kể là Triệu Dương hay Triệu Triệt đều không hề điều người từ Nhạn Minh Quan về. Quân binh đầy đủ, Yến Tuân làm sao có thể công phá Nhạn Minh Quan mà đánh thẳng vào nội cảnh Đại Hạ?
“Tư mã đại nhân, cửa khẩu bị Bắc Yến công phá không phải là Nhạn Minh Quan mà là Bạch Chỉ Quan!” Gã lính truyền tin bi thương tiếp lời: “Nội cảnh Biện Đường xảy ra đại loạn, Tĩnh An vương phi giơ cờ tạo phản, tự mình mở cửa khẩu Đường Hộ Quan để quân Bắc Yến tiến vào Biện Đường. Toàn bộ lãnh thổ phía đông nam của Biện Đường đều đã bị san bằng, Đường Kinh hiện tại đang hết sức nguy ngập. Bắc Yến hợp lực với đại quân của Hoài Tống đi xuyên qua Biện Đường tấn công Bạch Chỉ Quan. Tây nam quân đóng ở Bạch Chỉ Quan đều đã bị điều đi, hiện chỉ còn không đến một vạn quân đánh thuê, tin tức lại bị người của Phong tứ gia* phong tỏa. Chưa đến hai ngày mà khu vực Tây Nam của chúng ta đã bị chiếm trọn.”
*Phong tứ gia là biệt hiệu của Phong Miên (thư đồng hồi xưa của Yến Tuân) đóng ở thành Hiền Dương, biên thành giáp với Bạch Chỉ Quan (cửa khẩu ngăn cách Biện Đường và Đại Hạ)
Toàn trường thoáng cái tĩnh lặng đến mức kim rơi cũng nghe được, gió bắc lẳng lặng thổi qua chiến trường đã hóa đá.
Ngày 8 tháng 4 năm 882 theo lịch Bạch Thương, một tin tức như đùa đã chấn động tất cả mọi người:
Đầu tháng 4, Yến Tuân dẫn dắt bốn mươi vạn quân Bắc Yến, vòng qua Biện Đường đánh thẳng vào Đại Hạ, càn quét toàn bộ lãnh thổ phía Tây Nam, gần bốn trăm vạn dân chúng bị biến thành nô lệ mất nước.
e”:2.1}},“httJ^4F