“Nhanh lên nhanh lên, đừng rề rà nữa.”
“Điều khiển ngựa cho tốt vào, đừng làm ngã tiểu thư và hai vị phu nhân.”
Mi Hổ cưỡi ngựa đứng trang nghiêm bên đường, khẩn trương chỉ huy năm trăm cảm tử hộ tống cho ba chiếc xe ngựa phóng nhanh về hướng Tây.
Bỗng, từ phía sau vang lên tiếng vó ngựa dồn dập. Mi Hổ giật mình ngoảnh đầu, thì thấy một con ngựa phi từ ngọn đồi nhỏ phía xa đến, trên lưng ngựa là một đại hán oai hùng. Trên tay đại hán quơ hai cây đại thiết kích cùn, mũi kích hấp háy những tia lạnh lẽo, khiến người nghẹt thở.
“Ầm!” Ác hán ấy giơ kích chọc trời, gầm lên một tiếng: “Có gia gia Điển đây, chạy đi đâu?”
Mắt Mi Hổ đanh lại, đánh mắt với hai gã gia tướng ở đằng sau. Hai gã gia tướng giục ngựa phi thẳng đến Điển Vi, nhưng giao thủ chưa được hai hiệp thì đã bị Điển Vi kích xuống ngựa. Điển Vi lại trợn cặp mắt như chuông đồng, dùng mũi kích xiên vào hai đầu người ướt đẫm máu, gào: “Còn ai dám bước lên đây không?”
“Ô ô.”
Lời Điển Vi vừa dứt, hai bên quan đạo trên dốc núi nhỏ đột nhiên vang lên những tiếng kèn liên hồi. Mi Hổ thất kinh, vội quay đầu lại nhìn, liền thấy trên hai bên dốc thoáng cái xuất hiện mười mấy kỵ sĩ ma mị, loáng thoáng thấy sau dốc núi bụi bay mù mịt, tựa như có rất nhiều kỵ binh đang phóng sang đây.
“Không hay, trúng mai phục rồi!”
Mi Hổ quát một tiếng, vội giục ngựa quay hướng sang Cù Huyện, năm trăm cảm tử dưới trướng gào lên một tiếng, lập tức chạy tán loạn về phía Cù Huyện. Đáng thương thay cho ba cỗ xe ngựa, tuy ngồi bên trong là hai vị phu nhân và muội muội của Mi Trúc, nhưng những gia nô môn khách này chỉ lo cứu mạng, chẳng thể quan tâm nổi gì khác.
Bóng người cao khảnh của Mã Dược xuất hiện sau dốc núi và đang từ từ tiến đến, khóe miệng phút chốc được nhếch lên để lộ rõ sự khinh bỉ lạnh lùng. Thổ tộc môn phiệt chẳng qua là thế! Đám gia nô thực khách tuy đông đảo, nhưng chẳng qua cũng chỉ là đám ô hợp, làm sao có thể so sánh với những chiến sĩ thiết huyết từng trải trên sa trường chứ!
Trong tiếng vó ngựa, Điển Vi giục ngựa tiến về phía trước, màn xe rơi “phịch” xuống cát. Có thể thấy rõ một phụ nhân với thần sắc kinh hoảng đang ngồi trong xe. Phụ nhân ấy có làn da trắng ngần, tư sắc thuộc thượng, vừa trong thấy điển Vi mặt mày hung hãn liền rên lên một tiếng, ngất xỉu.
“Chủ công.” Điển Vi quay đầu nói dõng dạc.“Trong xe ngựa là một phụ nhân.”
“Phụ nhân?” Mã Dược thúc ngựa đi lên trước lướt nhìn một cái rồi lãnh đạm nói. “Lão Điển, thưởng ả cho ngươi.”
“Tạ ơn chủ công.”
Điển Vi vui mừng khôn xiết, lại hí hửng lên trước vén màn xe thứ hai lên. Bên trong cũng ngồi một vị phụ nhân, Mã Dược nhăn mày, lại nói:“Người này cũng thưởng cho ngươi.”
“Đa tạ chủ công.” Lúc Điển Vi dùng thiết kích vén cỗ xe thứ ba, mắt Mã Dược liền sáng rỡ. Trong xe là một vị thiếu nữ đang ngồi ngay ngắn. Thiếu nữ có làn da trắng hơn tuyết, lúm đồng tiền như đọng sương mai, gương mặt cực kỳ quyến rũ động lòng người. Mã Dược thả màn xe xuống, quay sang Điển Vi nói: “Nữ nhân này đưa về đại doanh. Bổn tướng quân đích thân xử trí.”
“Tuân mệnh.” Điển Vi dõng dạc một tiếng, quay sang thân binh đang đứng sững sờ kế bên quát, “Còn đứng ngây ra đó làm gì, mau mang ba cỗ xe này về đại doanh.”
……
Lúc Mi Trúc, Mi Phương đang nghị sự ở đại sảnh thì chợt thấy một tên gia tướng hoảng hốt chạy vào, lớn giọng nói: “Lão gia, không hay rồi, xảy ra chuyện rồi.”
Mi Trúc nhăn mày, quát: “Hoảng hốt cái gì! Từ từ nói, đã xảy ra chuyện gì?”
Gia tướng thở dốc nói: “Phù, hai vị phu nhân bị mã tặc Tây Lương cướp đi rồi.”
“Hả!?” Mi Trúc biến sắc, vội la. “Tiểu thư thì sao?”
So với hai vị tiểu thiếp, Mi Trúc có vẻ quan tâm sự sống chết của muội muội mình hơn. Tiểu thiếp bị cướp cũng có thể nạp lại, nhưng muội muội dù sao cũng là ruột rà cùng mẹ, nếu bị cướp thì sẽ rất khó biến ra lại một muội muội thứ hai, nên câu đầu tiên Mi Trúc hỏi là sự an nguy của muội muội.
Gia tướng thở dốc nói: “Cũng bị cướp đi rồi.”
“Hỏng rồi.” Mi Trúc dậm chân nói: “Mi Hổ làm sao thế, năm trăm người cũng không bảo hộ được cho tiểu muội!”
Mi Phương ở bên cạnh điềm nhiên nói: “Cướp rồi thì cứ để bị cướp, Mã đồ phu nếu muốn dùng tiểu muội uy hiếp chúng ta thì e lão đã tính sai. Đại ca, huynh đầu cần sốt ruột như vậy.”
“Nhị đệ hồ đồ rồi.” Mi Trúc dậm chân nói: “Tánh mạng của tiểu muội tuy không uy hiếp được hai huynh đệ ta. Nhưng đệ đừng quên tiểu muội đã gả cho nhị công tử của Thứ sử đại nhân, giờ tiểu muội đã bị Mã đồ phu cướp đi, quay đầu biết ăn nói sao với Thứ sử đại nhân đây!? Không biết sự tình còn tưởng Mi phủ chúng ta bội hôn.”
Mi Phương vỗ đầu, chợt hiểu ra: “Đúng rồi, tiểu đệ sao lại quên mất việc này. Vậy bây giờ tính sao đây?”
Mi Trúc thở dài nói: “Còn có thể sao nữa?! Giờ chỉ có thể đi tới đâu hay tới đó.”
……
“Thần y, băng qua ngọn núi phía trước rồi đi về hướng bắc hơn trăm dặm chính là ải Hàm Cốc.” Tào Hồng khẽ liếm bờ môi khô khốc, quay đầu nhìn vị nam tử trung niên phía sau với vẻ lo lắng.
Nửa tháng trước, Tào Hồng nghe lệnh Tào Tháo đến Nhữ Nam tìm thần y Hoa Đà. Khi đến Nhữ Nam mới hay Hoa Đà đã vân du thiên hạ, may rằng đệ tử của Hoa Đà nói với Tào Hồng, Nam Dương có vị thần y họ Trương tên Cơ, tự Trọng Cảnh, y thuật không thua Hoa Đà, y thuật trị liệu ôn dịch thậm chí còn hơn cả Hoa Đà.
Tào Hồng liền phi ngựa ngày đêm tới Nam Dương, cuối cùng cũng tìm được Trương Trọng Cảnh ở Phiền thành. Sau đó hai người thúc ngựa phi từ Nam Dương tới ải Hàm Cốc. Đi đi lại lại như vậy mất nửa tháng trời, nửa tháng này đối quân Quan Đông đang ở bờ vực chết chóc kia, thì như một tai họa vậy.
“Tướng quân đừng vội, trận ôn dịch này tuy lợi hại, nhưng tướng sĩ mắc bệnh cũng không lập tức tử vong, những người có thể chất tốt chút cũng có thể kiên trì đến hai tháng, thậm chí có số ít người có thể không cần dược mà tự lành bệnh! Vả lại tướng sĩ trong quân phần lớn tập võ, thể chất cường kiện, tại hạ tin rằng sẽ không xảy ra đại sự gì.”
Trương Cơ vừa đưa tay lau đi mồ hôi trên trán, vừa cực lực an ủi Tào Hồng.
Tào Hồng giục ngựa đi nhanh, vẻ lo lắng trong mắt vẫn chưa vì lời an ủi của Trương Cơ mà biến mất.
Trong cơn buồn bực, hai người cuối cùng cũng băng qua ngọn núi, ải Hàm Cốc hùng vĩ liền hiện ra trước mắt. Trước ải là một cánh đồng bằng phẳng mênh mông, trên đó có một tòa quân doanh đồ sộ, quân doanh trải triền miên, đại kỳ sít sao. Trên viên môn hùng vĩ là một đại kỳ tung bay theo gió, viết trên mặt kỳ là chữ “Hán”.
Bỗng nhiên, Tào Hồng cảm thấy bất an. Liên quân đại doanh vốn huyên náo ầm ĩ giờ đây chỉ là một màn yên lặng chết chóc. Cơn gió nhẹ lùa qua mang theo mùi thối nồng nặc và buồn nôn. Càng đến gần, Tào Hồng càng hoảng sợ khi phát hiện, vùng đất hoang bên ngoài liên quân đại doanh la liệt các thi thể quân Quan Đông.
Rất nhiều thi thể của tướng sĩ đã không được nguyên vẹn, phần lớn bị dã thú gặm hỏng.
Trên người những tướng sĩ Quan Đông này không có vết đao, cũng không có vết tiễn, áo giáp và áo bào trên người đều nguyên vẹn, chỉ có biểu cảm trên mặt là thống khổ dị thường. Hiển nhiên, trước khi chết, những binh lính này đã từng chịu đựng sự tra tấn và đau khổ vượt mức người thường có thể chịu đựng.
Không cần nghi ngờ gì nữa, những binh lính này đều chết bởi trận dịch đáng sợ ấy.
Đi từ chân núi đến đại doanh Quan Đông, dọc đường đi có vô số thi thể, rất nhiều thi thể đã rữa thối. Không khí tràn ngập một mùi tanh tưởi đến nghẹt thở, cả những con ruồi vo ve trong không trung, đúng kinh tởm. Mắt thấy cảnh tượng thảm thiết như vậy, trên mặt Trương Cơ thảng qua vẻ lo lắng.
Rất hiển nhiên, trong ánh dương chói chang và nhiệt độ cao, trận dịch đã hoàn toàn mất kiểm soát, bắt đầu khuếch tán đại quy mô. Trương Cơ dù có khả năng thông thiên triệt địa, nhưng dù sao y cũng chỉ là một con người, làm sao có thể cứu trị nổi mấy chục vạn tướng sĩ nhiễm bệnh? Giờ có là Đông Hoàng đại đế, sẽ rất khó vãn hồi vận mệnh bị diệt của liên quân Quan Đông.
Việc đã đến nước này, điều duy nhất Trương Cơ có thể làm là cố hết sức, nghe theo thiên mệnh, cứu được một người hay một người.
Tào Hồng sầm mặt, đánh ngựa tiến thẳng đến Tào quân đại doanh. Ngoài Viên môn có hai gã Tào binh gục ở đó, màu da đã thâm đen lại, nhưng đôi vẫn trợn to, nhìn chằm chằm về phía trước, một cánh tay được giơ lên, vẻ đang cực lực kêu la, dường như đang kêu cứu, nhưng cuối cùng bọn họ vẫn không thể thoát khỏi cái chết.
Trong đại doanh là một màn tĩnh mịch bao trùm, chỉ có tiếng vo ve của bọn ruồi, quả thực khiến người nổi điên.
“Chủ công? Chủ công!”
Tào Hồng lật đật xuống ngựa, đi nhanh đến chỗ trung quân đại doanh của Tào Tháo, rồi vén cái “phạch” rèm vải lên.
“Hô.”
Sau rèm, một bóng người đổ xuống, đè lên người Tào Hồng, gần như mặt áp mặt với hắn. Tào Hồng nhận ra ngay, người này là Tào Thuế, thân binh trước trướng Tào Tháo. Lúc bấy giờ Tào thuế đã chết lâu ngày, cả khuôn mặt đã bắt đầu chảy ra, máu thịt hóa thành nước mủ chảy xuống từng giọt.
“Tào Thuế.” Trong đáy lòng Tào Hồng cảm thấy rất thương xót. Gã nhẹ nhàng đặt thi thể của Tào Thuế xuống mặt đất. Lúc ngẩng đầu nhìn lên, đại trướng trung quân trống tuếch, bóng ma cũng không thấy.
“Chủ công? Chủ công ở đâu?”
“Nguyên Nhượng tướng quân”
“Tử Hiếu!”
“Tuyên Cao?”
“Văn Nhược tiên sinh!?”
Tào Hồng xoay người ra khỏi trướng, ngửa mặt lên trời kêu gào. Nhưng đại doanh tĩnh mịch, chỉ có tiếng hồi âm của Tào Hồng, và có chăng cũng chỉ là tiếng vỗ cánh bay lên trời của hai con kền kền khi bị thất kinh bởi tiếng kêu của hắn. Trương Cơ đi đến lò bếp, rồi quệt tro bếp lên ngửi, nói với Tào Hồng: “Tướng quân, cái bếp này đã ba ngày không được nhóm lửa. Nói cách khác, ba ngày trước, đại doanh này đã không có người.”
“Nhưng trong đại doanh cái gì cũng còn, ngoại trừ người!” Tào Hồng chỉ vào đống lương thảo chồng chất như núi, còn những binh khí quân giới rơi rớt tứ tung, quát um lên. “Dù là triệt binh cũng không vội vàng đến thế, đáng lẽ phải đem cả lương thảo theo chứ?”
“Ai.”
Trương Cơ khẽ thở dài một tiếng, trầm mặc không nói.
“Tướng…”
Trong màn yên lặng tĩnh mịch, chợt có một tiếng rên khẽ vang lên.
Tào Hồng quay phắt lại thì thấy một “thi thể” đang khẽ nhúc nhích. Tào Hồng vội xông về phía trước, lật thi thể ấy lại mới phát hiện có một binh sĩ đang bị đè bên dưới, chưa tắt thở và đang giãy giụa. Tào Hồng mừng rỡ, vội đỡ người binh lính kia ngồi dậy.
“Chủ công ?” Tào Hồng lay mạnh hai vai của người binh lính kia, lo lắng hỏi thăm, “Đại quân của chủ công đâu?”
“Chủ công…công.”
Gã binh lính kia thều thào, cố hết sức giơ tay lên, duỗi ngón tay ra chỉ về phía Nam, nhưng chưa giơ được đã thả “phịch” xuống, nghiêng đầu đứt hơi. Tào Hồng vẫn dùng sức lay lắt thi thể của gã binh lính nọ, hỏi bằng chất giọng thê thiết: “Này, ngươi tỉnh lại! Tỉnh lại mà nói cho ta biết chủ công đã đi đâu? Đại quân của chủ công đã đi đâu? Này…”
“Tướng quân.” Trương Cơ thở dài nói. “Hắn đã chết rồi.”
Tào Hồng vội la lên: “Nhưng hắn vẫn chưa nói với ta chủ công đã đi đâu?!”
“Hắn đã nói cho ngài biết rồi.” Trương Cơ nhìn theo phương hướng mà ngón tay gã binh lính chỉ, thở dài nói. “Tào thừa tướng và đại quân dưới trướng có lẽ đã đi Lạc Dương.”
“Đi Lạc Dương?”
Tào Hồng vẫn chưa từ bỏ ý định, trở người leo lên ngựa đi hai vòng mới phát hiện, ngoại trừ đám chuột chạy tứ tán và bầy kền kền đang bay lượn trên bầu trời thì Tào quân đại doanh này không còn những sinh vật sống khác. Cũng may trong đại doanh vẫn chưa phát hiện thi thể của Hạ Hầu, Tào Nhân, Lý Điển, Tàng Bá, Tuân Du, Trình Dục, Quách Gia...v…v Lúc này Tào Hồng mới cảm thấy an tâ đi đôi chút. Hai người rời khỏi đại doanh đi về phía Đông tiến đến Lạc Dương. Dọc đường, đi tới đâu cũng thấy thi thể, thật có thể gọi là ‘phục thi nghìn dặm’.
Tại Lạc Dương, Tào Hồng rốt cục cũng được gặp Tào Tháo và chư hầu khác.
Đáng thương thay cho liên quân hơn ba mươi vạn người, mà giờ chỉ vỏn vẹn có ba vạn mấy người, hơn nữa đại đa số đã mang bệnh trong người, không thể cục cựa nổi. Đại tư mã Viên Thuật, thừa tướng Tào Tháo, Từ Châu thứ sử Đào Khiêm, còn có Tuân Du, Trình Dục, những quan văn vốn có thể chất không được tốt đều ốm đau trên giường, xem ra không cầm cự được bao ngày nữa.
Ngược lại những võ tướng có thân thể cường tráng như Lữ Bố, Hạ Hầu, Tào Nhân, Tang Bá, người nào người nấy vẫn còn khỏe khoắn.
“Chủ công!” Trong Tào quân đại doanh, Tào Hồng quỳ rạp trước giuờng Tào Tháo, gào khóc nói: “Hồng vô năng, Hồng đã tới chậm. Hu hu hu…”
“Ai.” Tào Tháo lắc đầu yếu ớt, thở dài nói. “Ý trời, đều là ý trời cả......”
Ở xó góc, Trương Cơ nhẹ nhàng mở hòm thuốc tùy thân ra. Trong hòm thuốc này tuy đã bị hạ vài loại thảo dược trị liệu ôn dịch, nhưng số lượng có hạn, chỉ đủ cho mười mấy người dùng. Hơn nữa, dù có dược thảo, cũng phải xem thể chất của người bệnh mạnh hay yếu. Ôn dịch không giống với những tật bệnh khác, nếu cơ thể của người bệnh quá yếu thì có là Đại La Kim Tiên cũng bất lực.
……
Phủ quan của Giả Hủ.
Lưu Nghiên cẩn thận rút ba cây ngân châm dài khỏi hậu não Giả Hủ, sau đó mới thở phào một cái, quay sang Giả Minh nói: “Đã xong, bệnh tình của quân sư đã không có gì đáng ngại, qua một hồi ngài ấy sẽ tỉnh dậy.”
“Phù.” Hứa Chử thở phào, thoải mái nói: “Cũng may quân sư không sao. Bằng không khi chủ công trở về, mạt tướng không biết làm sao ăn nói với ngài ấy đây.”
Lưu Nghiên có vẻ sầu não, không hề vui sướng vì cứu sống Giả Hủ. Tuy đã cứu sống quân sư Giả Hủ, nhưng còn hơn bốn vạn tướng sĩ Lương Châu mang bệnh trong ải Hàm Cốc, Lưu Nghiên chỉ đành bất lực! Trên đời này chỉ có thánh y Trương Trọng Cảnh có thể trị liệu ôn dịch, cho dù là sư phụ của Lưu Nghiên, Hoa Đà cũng thúc thủ vô sách với nó.
Đáng tiếc rằng, lúc Lưu Nghiên phái người đi Nam Dương mời Trương Trọng Cảnh thì đã bị liên quân Quan Đông giành trước một bước.
Sở dĩ Lưu Nghiên có thể cứu sống Giả Hủ, không phải vì thật sự trị được bệnh dịch trong người hắn, mà nàng chỉ nhờ thuốc và kim châm để tăng cường cơ sinh lý và sức miễn dịch, để hắn có thể thắng con ma bệnh trong người, chỉ thế thôi! Nhưng thuốc để tăng cường cơ sinh lý vô cùng trân quý, thuật châm cứu lại cực kỳ hao phí thể lực, với lực lượng của một người Lưu Nghiên căn bản không cách nào tiến hành cứu trị quy mô lớn cho đại quân Tây Lương.
“Phù, lo chết ta rồi.”
Giả Hủ thở dài một tiếng, từ từ tỉnh lại.
“Huynh trưởng, huynh cuối cùng cũng tỉnh rồi sao, huhu…”
Giả Minh thấy Giả Hủ tỉnh dậy, mừng đến nỗi khóc ra nước mắt.
Như kỳ tích, Giả Hủ gượng ngồi dậy được . Hắn dòm ngó dào dác, chỉ thấy Cao Thuận, Hứa Chử, Hồ Xích Nhi, Vương Phương chư tướng đều ở trong đại trướng. Lưu Nghiên xinh đẹp cũng đứng trang nghiêm tại một bên. Giả Hủ vội chắp tay vái, cung kính nói: “Hủ tham kiến phu nhân.”
Lưu Nghiên sửa lại vạt áo, đáp lễ rằng: “Tiên sinh miễn lễ.”
Sau khi tỉnh dậy, việc đầu tiên Giả Hủ nghĩ đến là tình hình của đại quân Quan Đông trước ải Hàm Cốc. Hắn vội hỏi Cao Thuận: “Cao Thuận tướng quân, tình hình của quân Quan Đông ở ngoài ải Hàm Cốc thế nào rồi?”
Cao Thuận, vị tướng già từng trải này cũng lộ vẻ hồi hộp, quay sang Giả Hủ nói: “Quân sư, quân Quan Đông đã rút về Lạc Dương, nhưng…”
“Nhưng sao?”
“Nhưng có thể còn sống sót trở lại Lạc Dương, không quá năm vạn người, và chỉ e họ cũng không sống được bao lâu.” Hứa Chử tiếp lời, mắt đượm buồn nói: “Quân ta cũng thương vong thảm trọng, giờ đây trong ải chỉ còn nghìn người thôi.”
“Cái gì? Chỉ còn nghìn người thôi à!?” Phản ứng đầu tiên của Giả Hủ là thất kinh, sau đó thở dài nói: “Tạo nghiệt, đúng là tạo nghiệt mà!”
Lưu Nghiên khẽ biến sắc, liếc nhìn Giả Hủ một cái đầy thâm ý. Vốn muốn hỏi Giả Hủ trận ôn dịch này có phải do hắn làm hay không, nhưng lời nói đến bên miệng bị buộc phải nuốt trở vào. Lưu Nghiên đi theo Mã Dược đã lâu, cũng đã tập thành thói quen. Thân là nữ nhân của Mã Dược, tốt nhất không nên nhúng tay vào chính sự quá nhiều.
Trải qua sự cứu trị khẩn cấp của Trương Cơ, Viên Thuật, Tào Tháo, Đào Khiêm, những chư hầu bị bệnh, còn có những mưu sĩ quan trọng khác như Tuân Du, Trình Dục, Trần Cung cuối cùng cũng chuyển nguy thành an, tạm thời không lo lắng đến tính mạng. Nhưng còn ba vạn quân Quan Đông đang chờ chết trong thành Lạc Dương, Trương Cơ cũng đành bất lực, chỉ đành để họ tự sanh tự diệt .
……
Đêm khuya, Tào Tháo đại trướng.
Trương Cơ ra vẻ trầm trọng nói với Tào Tháo: “Thừa tướng, ôn dịch mãnh liệt như hồng thủy, sự việc liên quan đến sinh tử tồn vong của thiên hạ thương sinh, không thể không thận trọng được. Thiết nghĩ giờ đây nên bãi binh với quân Lương Châu. Giờ việc khẩn cấp là song phương phải đồng tâm hiệp lực khống chế tính lây lan của bệnh dịch. Nếu không, một khi ôn dịch mất đi khống chế, lan sang các châu Duyện, Dự, Gai, Giương, Ký, Mát xung quanh, hậu quả sẽ không tưởng tượng nổi!”
“Khụ khụ khụ…” Tào Tháo ho sù sụ một hồi, thở hổn hển. “Bổn tướng cũng có ý này, chỉ không biết phải khống chế ôn dịch như thế nào.”
Trương Cơ nói: “Nên bảo vệ cho ải Hổ Lao ở hướng Đông, bảo vệ Lạc Thủy ở hướng Nam, bảo vệ Hà Thủy ở hướng bắc, bảo vệ ải Hàm Cốc ở hướng Tây. Làm vậy sẽ có thể khống chế bệnh dịch tại vùng Lạc Dương, Kinh Kỳ. Tháng bảy sắp đến rồi, chỉ cần qua thêm hai tháng nữa, tháng chín thời tiết mát sẽ trở lại. Tới lúc đó, trận ôn dịch này cũng không trở thành mối lo nữa.”
Tào Tháo điểm đầu, thở hắt nói: “Giờ đây ngẫm lại, đúng là nhờ ơn Giả độc sĩ cả! Gã đi trước một bước dời toàn bộ dân chúng vào ải, khiến thành Lạc Dương cùng Kinh Kỳ không trở thành một mảnh đất khô cằn. Nếu không phải thế, trận dịch một khi tràn ra thì làm sao khống chế được?”
Nói đến đây, Tào Tháo cảm thấy lưng mình toát mồ hôi lạnh.
Tào Tháo của lúc này, trong lòng đích thực tràn trề niềm cảm kích với Giả Hủ. Nếu không làm thế thì Duyện, Dự nhị Châu, hai vùng dân cư dày đặc kế cận Lạc Dương và Kinh Kỳ, sẽ tuyệt đối không thể thoát khỏi sự tàn sát của ôn dịch. Dù dân chúng của hai châu không chết hết thì cũng chẳng còn lại là bao. Đến lúc đó, Tào Tháo lấy cái gì đi tranh giành thiên hạ?
Không biết rằng, Tào Tháo sẽ có cảm tưởng gì nếu hay tin trận dịch hủy diệt 30 vạn quân Quan Đông chỉ trong chớp nhoáng, chính do một tay Giả độc sĩ sắp đặt?
Tháng bảy, Kiến An năm thứ năm thời Hán Hiến đế , lịch sử sẽ vĩnh viễn ghi nhận lại!
Tại chiến trường ở ải Hàm Cốc, nơi tụ tập trọng binh, một trận ôn dịch hung hãn cướp đi sinh mạng của mấy chục vạn người chỉ trong một thời gian cực ngắn. Ba mươi vạn đại quân Quan Đông cùng với năm vạn quân coi giữ tan thành mây khói, chỉ có hai vạn kỵ binh của Mã Siêu vì đi về Hà Thủy nên may mắn thoát khỏi.