“Sáng nay nó chỉ mới cao chưa đến gối tôi kia mà, sao giờ đã...”
“Thật ra đầu ngày tôi cũng không để ý gì thêm đến nó. Nhưng trưa nay tôi không tin vào mắt mình khi vô tình nhìn đến thấy nó đã cao ngang vai người đi đường.”
“Ngang vai đâu mà ngang vai, cao hơn đầu tôi rồi nè!” – Anh chàng vừa nói vừa lia lia bàn tay bên trên búi tóc.
“Thì tôi đang nói về lúc trưa mà. Còn bây giờ thì nó cao hơn đầu người rồi.” – Chị hàng nước trả lời.
Những người xung quanh thấy họ bàn tán sôi nổi cũng xúm lại góp lời, khiến cho đám đông càng lúc càng nhốn nháo. Kích thước nhóm người gia tăng có lẽ còn nhanh hơn sự tăng trưởng của cái cây kia. Một phụ nữ trung niên thì thào với giọng nghiêm trọng :
Đám đông xôn xao hồi lâu, nhưng nhìn chung đa số tán thành. Họ đều công nhận đất ở cổng làng quá thênh thang, lâu nay bỏ phí cho lau sậy mọc tràn. Giờ chỉ cần dốc sức phát quang thì họ xây hai ba cái cổng làng cũng đủ chứ nói chi một cái. Đừng nói là bốn mươi sải tay, tám mươi sải tay cũng thừa chỗ. Hơn nữa ai ai cũng khiếp sợ điều đã xảy ra với chàng tiều phu. Nên họ chẳng dại gì liều lĩnh chống lại cái cây kia. Có những người còn lạc quan: “Cái cây mọc khỏe thế, biết đâu sau này cho ta cả đoạn đường rợp bóng mát còn đáng kể hơn lũy tre hiện nay ấy chứ. Tha hồ mà họp chợ!” Thậm chí có người hí hửng: “Đất lành chim đậu, cây kia đầy linh khí, nó đã chọn làng ta để nảy mầm chắc làng này là đất phúc đấy bà con ơi!” Những ý kiến trái chiều tuy thưa thớt nhưng không phải là không có: “Có câu mềm nắn rắn buông, ta nhượng bộ nhỡ nó được nước làm tới thì sao?” Nhưng quan điểm ấy lập tức bị số đông phản bác: “Ôi trời, sao mà anh nói về cái cây như nói về một con người thế?”, rồi thì “Vậy bác đốn nó đi giúp, chúng tôi biết ơn nhiều.”, hoặc là “Hiếu sinh chút đi, nó cũng chỉ muốn sống thôi mà!” Thế là cuối cùng mọi người nhất trí dời cổng làng. Họ không bao giờ ngờ được rằng chỉ ít lâu sau đó, không ai còn có thể nói về cái cây kia bằng câu: “Nó cũng chỉ muốn sống thôi mà!” Câu ấy hoàn toàn sai, nó muốn nhiều hơn thế.
***
Cổng làng mau chóng được xây lại, nhích sang bên trái bốn mươi sải tay người. Cuộc sống bình yên của bá tánh làng Vỹ Phong, và có lẽ là của rất nhiều ngôi làng khác nữa, duy trì thêm một thời gian ngắn cho đến khi những tai ương dồn dập kéo đến.
Những tai ương này giáng xuống không phải là không có điềm báo trước. Dân làng Vỹ Phong đã sớm nhận được những thông điệp mơ hồ mà rõ ràng. Mơ hồ vì không ai lý giải được chúng, nhưng rõ ràng vì nỗi hoang mang chúng đem lại thì thật sự ngự trị sắc nét trong tâm trí mỗi người dân, đủ để khiến họ mất ăn mất ngủ.
Điều đầu tiên phải kể đến là hình thù cái cây kia. Nó vẫn lớn nhanh như thổi, và vì người ta đã chừa cho nó khá nhiều khoảng trống nên nó tăng trưởng không làm phiền ai. Tuy vậy càng lớn nhìn nó càng đáng sợ. Sẽ chính xác hơn nếu gọi nó là “đại thụ” thay vì “cái cây” như trước đó. Nó to lớn hơn bất kỳ gốc đa cội đề nào. Một người phải mất trên dưới trăm bước để đi giáp một vòng quanh thân cây. Không hề ngoa khi ví đại thụ này như một công trình điêu khắc cổ quái trồi lên từ địa ngục.Thân cây đồ sộ không phải một khối liền lạc, nó như được bó lại từ muôn vàn con trăn khổng lồ. Những khúc cuộn to khỏe cứ quấn quít lấy nhau theo một nhịp điệu kỳ dị. Bất cứ ai nhìn thấy thân cây này đều liên tưởng ngay đến bộ ruột lòng thòng của một con quái thú bị mổ bụng. Điều khiến người ta lạnh sống lưng là lớp vỏ cây đằng sau những khúc cuộn. Lớp vỏ cây này xù xì hằn rõ nhiều đường gân nổi cộm như họa tiết phù điêu, một bức phù điêu chạm trổnhững hình nhân trần truồng kêu gào đau đớn trong tiếng rú câm lặng.
Không ai ngờ được trên đời lại có thể xuất hiện một lớp vỏ cây hiện rõ bao hình nhân như vậy. Hơn nữa lại là những hình nhân cong vẹoghê rợn với bộ mặt chằn chịt nếp nhăn như xác khô ngàn năm trong hầm mộ. Những bộ mặt ấy có cặp mắt hõm sâu nhắm nghiền như trẻ sơ sinh chưa biết hé mi, nhưng lại hằn sâu vẻcằn cỗi già nua của cụ già xa trời gần đất. Lũ hình nhân mỗi đứa một tư thế, há hốc khoang miệng móm mém và oằn mình khít rịt sau những khúc cuộn thân cây, như thể các tội đồ chen chúc nhau dưới hố chôn tập thể. Dân làng qua lại đoạn đường này luôn sải bước thật nhanh, họ kinh sợ đến mức luôn bị ám ảnh rằng những hình nhân bất động và câm lặng kia có thể đột nhiên chui qua các khúc cuộn để nhảy bổ vào người họ bất cứ lúc nào. Càng lên cao mớ khúc cuộn chằn chịt trên thân cây càng thưa dần. Và lớp vỏ xù xì với vô vàn hình nhân kỳ dị
nhờ đó càng lộ ra rõ nét. Lên đến độ mười trượng thì không còn khúc cuộn nào, lớp vỏ cây được phơi bày hoàn toàn. Những người thận trọng khi đi ngang đều không ngừng ngước mắt quan sát trên cao vì lo sợ các hình nhân có thể bất ngờ buông mình đáp xuống đầu họ.
Đại thụ này có một chiều cao ấn tượng. Nó cao đến nỗi thị lực một con diều hâu cũng không thể nhìn thấy mặt đất khi đậu tại ngọn cây. Vì đặc điểm khác thường mọi mặt như vậy nên đại thụ này bị người ta gọi là thứ dị mộc. Nhìn từ dưới lên dị mộc này như một trụ đá chống trời, vút cao đâm thẳng vào mây xanh. Rồi từ mây xanh nó lại buông xuống những búi rễ dài rậm rạp quăn tít xen lẫn từng chùm quả dị hợm, quả nào quả nấy đỏ ối đậm nhạt loang lổ. Trên nền đỏ ối ấy là những phần lõm đen khoét sâu, tựa hồ khoang miệng, hốc mắt hay hố mũi của những chiếc sọ người lột da bê bết máu. Mặc dù dân làng đã cố gắng làm chủ ánh mắt của mình sao cho không nhìn vào những chùm quả ấy, nhưng thỉnh thoảng vẫn có vài người tò mò liếc thử để rồi ba ngày ba đêm không ăn được một chén cơm nào vì bị ám ảnh bởi hình ảnh tởm lợm kia.
Hình hài đã vậy, thán khí[6] của đại thụ ấy càng ghê gớm hơn. Không phải khi nào cây này cũng hôi thối, nhưng một khi nó đã bốc mùi thì con ruồi bay ngang cũng phải sùi bọt mép rồi rớt ngay xuống đất. May thay thời gian “tỏa hương” của dị mộc này là nửa đêm gần sáng nên không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của bá tánh. Riêng những nhà sống gần cổng làng thì phải che chắn cửa nẻo kín đáo cẩn thận mỗi đêm nhằm ngăn chặn thán khí bay vào. Người ta đoán rằng đấy là mùi hoa của nó. Có rất nhiều loài cây chỉ nở hoa phong nhụy vào ban đêm, như dạ lý hương hay thiên lý chẳng hạn. Dị mộc này có lẽ cũng vậy, khổ nỗi mùi hoa của nó là thứ thán khí độc địa nhất đẳng, hôi thối vô song. Vào lần đầu tiên nó nở hoa, vài chục bá tánh suýt chết ngạt vì chưa hề biết trước để phòng bị. Người ta kể lại rằng đêm ấy dân làng đang say giấc, tự dưng cảm thấy lồng ngực nặng trĩu, khó thở đến mức phải choàng thức. Mắt chưa mở hẳn thì mũi họ đã như bị khoan xoáy vào bởi một luồng khí hôi thối cực độ. Tựa hồ có hàng trăm chiếc xe chở đầy ruột trâu lòng bò trương sình diễu hành qua ngõ. Không ai biết hoa của dị mộc này tròn méo ra sao vì chúng luôn nằm khuất trong làn mây. Sáng ra người ta thường thấy đám mây xung quanh ngọn cây ố vàng như vùng vải dưới nách của tấm áo quanh năm lười giặt. Rõ ràng thán khí đại thụ này tiết ra là loại cặn bã hàng đầu trong danh mục những thứ ô uế nhất. Và kể từ khi biết ra hoa, dị mộc ấy bắt đầu thực sự gây phiền nhiễu cho đời sống của bá tánh làng Vỹ Phong. Tuy nhiên người ta vẫn còn có thể xoay sở để chung sống hòa bình với nó.
“Tôi muốn mời mọi người đoán thử.” – Người thợ săn nói dõng dạc – “Nếu bây giờ tôi đẩy mũi dao ra xa tôi, thì chuôi dao sẽ nghiêng về phía nào?”
Ai ai đều thấy rõ, con dao cắm xuyên qua mặt bàn. Phần giữa con dao bị mặt bàn giữ chặt. Mặt bàn này chỉ dày độ một phân, nên dù toàn bộ chuôi dao nằm lại bên trên nhưng toàn bộ lưỡi dao đã thòi xuống bên dưới. Trẻ con cũng đoán được nếu đẩy mũi dao bên dưới nghiêng ra xa thì chuôi dao bên trên sẽ nghiêng vào gần. Tựa như hai đĩa cân của một cán cân, đĩa này hạ xuống thì đĩa kia hẳn phải nâng lên. Câu đố của người thợ săn quá dễ trả lời.
Nhưng dân làng không ai trả lời.Chẳng phải vì họ ngốc nghếch đến mức không đáp được, mà vì môi miệng họ đã cứng đờ vì câu trả lời vừa xuất hiện trong đầu khiến họ lạnh toát toàn thân. Người thợ săn đảo mắt nhìn quanh, chàng đọc được nỗi sợ hãi trong mắt người dân hai làng, đoạn chàng chậm rãi nói:
“Dị mộc kia không hề hấn gì vì nó không phải mục tiêu của các luồng lực, mà nó là nguồn gốc.” – Người thợ săn đi thẳng vào vấn đề – “Những thân cây đổ đều không có thương tích, nếu chịu lực tác động hẳn phải có vết dập nát. Trong khi đó rễ cây lại nát nhừ. Điều này cho thấy những luồng lực xô đổ các cổ thụ không nằm trên mặt đất. Cũng như chuôi dao nghiêng đi không phải vì một cú đẩy trên mặt bàn, nó nghiêng đi vì cú đẩy dưới mặt bàn.”
“Ý anh... ý anh là...” – Đám đông ấp úng run rẩy.
Người thợ săn nói đến đây, dân chúng hai làng thinh lặng nhìn nhau, mặt mày tái mét. Họ đã mơ hồ nhìn ra vấn đề, một vấn đề nghiêm trọng ngàn lần hơn mức họ có thể dự trù. Người nào người nấy lo lắng đến quên cả nuốt nước bọt, không hẹn mà cùng nhau tháo mồ hôi lạnh. Bầu không khí yên ắng kéo dài hồi lâu, cho đến khi một chàng trai run run hỏi khẽ.
“Nhưng... nhưng các cổ thụ bị đổ nằm khá xa nhau, phạm vi có cây đổ phủ rộng trên cả hai làng, trong khi dị mộc kia chỉ đứng một chỗ. Lẽ nào khả dĩ...”
“Tôi và vài người nữa đã nghe được những tiếng sột soạt kỳ lạ dưới mặt đất quanh gốc dị mộc.” – Người thợ săn trả lời – “Và vì phạm vi có cây đổ là rất rộng lớn, nên ta có thể đoán rằng thế giới ngầm của dị mộc kia còn ghê gớm hơn bội lần so với những phần chúng ta thấy trên mặt đất.”
Được sự trấn an của thủ lĩnh, các chàng trai vững dạ hơn. Họ bình tĩnh và liên tục quan sát trước sau, múa rìu trên dưới, lòng thầm mong đợi lớp sương mù kia sớm tan đi. Thực tế lớp sương mù kia sẽ tan nhanh theo ước nguyện các chàng trai. Có điều khi nó tan rồi, họ lại không mừng rỡ được như họ tưởng. Bởi lúc ấy họ phải đối mặt với sự kích động mạnh chưa từng có. Một sự kích động mà không phải ai trong đời mình cũng từng một lần bắt gặp.
Khi cánh tay các tráng sĩ còn chưa quá mỏi vì múa rìu, lớp sương mù kia dần tan. Điều này lẽ ra là do lũ rễ cây di chuyển chậm dần, và lúc sương mù tan hết ắt phải là khi các chùm rễ lại hiện rõ. Nhưng không, các chàng trai không nhìn thấy một chùm rễ nào. Trong tầm mắt của mỗi tráng sĩ, cùng với sự mỏng dần của lớp sương mù đang giam cầm họ, là sự xuất hiện của những dáng người. Các chàng trai thật sự mừng rỡ vì điều đó, đồng đội vẫn luôn ở quanh họ. Không được nhìn thấy nhau không có nghĩa là chẳng còn sát cánh bên nhau. Giờ đây sương mù tan và họ lại được thấy bạn bè. Không phải là hình nhân cong vẹo hay chùm rễ lòa xòa, đó là vóc dáng con người, những vóc dáng thân quen. Các chàng trai cười rạng rỡ giơ tay chào đồng đội, nhưng nụ cười chưa kịp tươi đã vội tắt ngấm, thay vào đó là những đôi mắt to tròn vì kinh ngạc.
***
Cách đó hơn chục dặm về phương Nam, gia đình những người dân tị nạn sống thấp thỏm trong nỗi chờ mong khắc khoải. Họ chờ mong chút tin lành, chờ mong các chàng trai khải hoàn trở về từ chiến địa. Có bà cụ thẫn thờ tựa cửa, mái tóc bạc phất phơ trong ngọn gió hắt hiu. Đôi mắt mờ đục của bà như đang cố vận chút sức mòn ban chiều, phóng tầm nhìn mệt mỏi về chốn xa xôi, nơi năm mươi tráng sĩ phải đương đầu yêu nghiệt. Chợt có ai đó bất ngờ ùa đến ôm lấy chân bà. Bà cụ giật mình như sực tỉnh, cúi nhìn hai đứa trẻ đang giật giật gấu váy mình. Bà ôn tồn hỏi:
“Gì vậy các cháu ngoan?”
“Chừng nào cha về vậy bà?” – Đứa trẻ bé hơn hồn nhiên hỏi.
“Sắp rồi cháu ạ.” – Bà cụ đáp, cố nén tiếng thở dài.
“Cha có giết được ma cây chưa bà?” – Đứa trẻ lớn hơn tỏ ra rất lo lắng.
“Bà cũng chưa biết nữa.” – Bà cụ trả lời mệt mỏi.
“Cháu muốn đi giúp cha. Cháu phải cùng cha đánh ma cây!” – Hai đứa trẻ bỗng nhao nhao lên.
“Không được đâu. Các cháu còn nhỏ.” – Bà cụ ngồi xuống xoa đầu hai đứa trẻ – “Hãy ngoan ngoãn ở đây để cha các cháu yên tâm chiến đấu nhé.”
Hai đứa trẻ phụng phịu quay đi. Chúng tấp tễnh bước ra hiên nhà, cố rướn đôi chân nhỏ ngẩng đầu ngóng về phía chiến địa xa xôi. Đứa trẻ lớn hơn thì thầm: “Cha ơi! Con mong cha chiến thắng!”
***
Những dáng người hiện rõ quanh mỗi chàng trai khiến họ sốc nặng đến không nói nên lời. Chẳng phải vì họ không quen biết những con người vừa hiện ra từ làn sương, mà ngược lại, vì chúng quá quen thuộc. Chúng... chính là họ.
Những tráng sĩ đã nhầm khi tưởng rằng đồng đội sắp gặp nhau. Chẳng có đồng đội nào và màn sương vẫn giăng dày. Chỉ một lớp sương mỏng tan đi, đủ để lộ các bản sao của từng tráng sĩ. Mỗi chàng trai ngơ ngác nhìn năm con người lạnh lùng bước về phía họ. Diện mạo chúng giống họ đến nỗi tưởng chừng đó là bóng phản chiếu qua năm tấm gương đang tiến gần. Không còn cách nào khác là phải bảo vệ chính mình. Bản chính vung rìu lên, hồi hộp chờ đón bất kỳ đòn tấn công nào của những bản sao. Và rồi cuộc hỗn chiến diễn ra trong năm mươi phân khu riêng biệt của năm mươi tráng sĩ. Trong chưa đầy ba khắc toàn bộ lớp sương mù tan hẳn, đây mới là lúc các chàng trai được thực sự nhìn thấy đồng đội. Nhưng hỡi ôi, mỗi đồng đội có đến sáu phiên bản giống hệt nhau,giống cả về diện mạo lẫn thần sắc, đều kinh ngạc và hoang mang. Cuộc chiến giữa năm mươi tráng sĩ và một đại thụ giờ đây biến thành cuộc hỗn chiến giữa ba trăm con người. Nói cho chính xác là năm mươi con người và hai trăm năm mươi thứ gì đó mang hình dáng giống họ.
Các chàng trai đều biết thứ gì đó ấy chính là những búi rễ cây ban nãy. Với trí thông minh của mình, trong đầu người thủ lĩnh lập tức nảy sinh muôn vàn dòng suy nghĩ. Chúng bày ra thế trận này để tung hỏa mù, gây nên tình cảnh hỗn loạn. Hỗn loạn vì mỗi chiến binh đều không thể biết đâu là bạn, đâu là thù. Chiêu ấycũng cho thấy bản lĩnh các chùm rễ quỷ quái kia không cao nên phải bày quỷ kế thay vì giao đấu trực diện công khai. Nhưng quỷ kế này của chúng thì quá thâm hiểm khiến người thủ lĩnh cũng phải thầm thán phục.
Thâm hiểm ra sao? Về khía cạnh tâm lý, bất kỳ chàng trai nào cũng nóng lòng hạ gục các bản sao để chứng minh mình là bản chính. Bởi một khi chết đi các bản sao sẽ hiện rõ nguyên hình. Khi đó đồng đội họ sẽ thấy rõ trắng đen đặng dễ bề chiến đấu. Mặt khác các chàng trai cũng không dám tấn công ai ngoại trừ các bản sao của chính mình.Họ sợ giết nhầm đồng đội. Do đó chắc chắn mỗi tráng sĩ sẽ dốc sức tấn công năm kẻ đang mạo danh mình, khi đó ắt hẳn họ lơ là đề phòng những kẻ khác. Việc các chùm rễ giao đấu với bản chính của chúng thực chất chỉ là động tác giả. Với bản lĩnh có hạn dù lấy năm chọi một thì chúng vẫn khó hạ được bản chính. Nhưng việc đánh lén để lấy mạng một bản chính khác thì lại quá dễ dàng, vì họ chỉ lo đối phó các bản sao của mình. Đây mới thực sự là điều các chùm rễ mong muốn: Mỗi tráng sĩ tập trung tấn công năm bản sao của chính mình để rồi bị hạ sát bất ngờ bởi cú đánh lén từ bản sao của một tráng sĩ khác. Và các chàng trai còn lại vì quá bận rộn với năm bản sao của chính họ nên không nhận biết đồng đội mình hy sinh dưới tay ai. Theo lẽ tự nhiên họ sẽ nghĩ đồng đội mình bị giết bởi năm bản sao của anh ta. Chỉ có người chết mới biết rõ mình bị giết bởi ai, nhưng người chết thì không còn nói được để mách bảo cho người sống. Năm bản sao không đủ nhiều để hạ gục một bản chính. Nhưng năm bản sao là đủ nhiều để một trong số chúng có thể tranh thủ làm điều mờ ám gì đó mà bản chính không kịp để ý. Cứ nhờ vậy âm mưu ấy không bị bại lộ cho đến khi đoàn tráng sĩ năm mươi người mau chóng bị tỉa gọn. Thâm kế nham hiểm của lũ quái vật chính là điểm này. Bắt mạch được thâm kế ấy, người thủ lĩnh lập tức hô to khiến các chàng trai như thức tỉnh:
“Hãy đề phòng cả những bản sao của người khác!”
Dứt lời, chàng quăng ngay cây rìu của mình ra. Bản lĩnh người đứng đầu có khác. Cây rìu rời tay chàng như mũi tên rời nỏ, vút đi với tốc độ kinh hồn. Ba tiếng phập phập phập liên tục vang lên, đầu của ba trong số năm bản sao của chàng đã lìa khỏi cổ. Đồng thời chiếc rìu lượn hết một chu kỳ lại quay về điểm xuất phát theo quỹ đạo mà người thủ lĩnh đã tính trước. Chàng khom mình đưa tay bắt lấy cán rìu không sai một ly. Ba bản sao mất đầu ngã lăn ra đất, co giật liên hồi rồi hiện nguyên hình là ba búi rễ dài thườn thượt đã bị tiện ngang, nhựa tuôn nhầy nhụa. Hai bản sao còn lại thấy vậy thất kinh hồn vía, toan quay lưng tháo chạy. Nhưng quá muộn, mũi giáo của người thủ lĩnh đã phóng tới. Sau hai tiếng xực xực, hai bản sao còn lại cũng bị xuyên tâm như món thịt xiên que. Người thủ lĩnh nhặt cây giáo của mình lên, hất văng đi hai chùm rễ cây rũ rượi xiên trên đó. Về phần chàng thế là đã giải quyết gọn gàng. Nhưng các chàng trai không phải ai cũng thiện nghệ đến vậy. Đa số họ chiến đấu thật vất vả, vừa phải đối phó các bản sao của chính mình, vừa phải đề phòng những bản sao khác ám toán, vừa phải nương tay sao cho không sát thương nhầm đồng đội. Lần này họ đối mặt với một thử thách về kỹ năng quán xuyến bao quát lẫn nghệ thuật phối hợp cương nhu nhịp nhàng. Nét bơ phờ hằn rõ trên gương mặt mỗi tráng sĩ. Bản thân người thủ lĩnh cũng thấy mình thấm mệt. Chàng nhớ rằng thường nhật mình có thể chiến đấu với hổ sói cả ngày dài còn chẳng hụt hơi. Vậy mà giờ chiến đấu với dị mộc này chưa hết buổi sáng đã thở hổn hển. Các chàng trai cũng có vẻ không đạt đến phong độ tối đa của họ, ai nấy thấm mệt quá nhanh. Họ không hiểu vì sao lại vậy. Hầu hết cho rằng sự căng thẳng và sợ hãi đã hút bớt sinh lực họ. Có người thì cho rằng ma thuật nào đó từ dị mộc kia đã hạ phong độ đối phương. Nhưng riêng điều này dị mộc bị nghi oan. Nguyên nhân nằm ở tấm khăn che mặt. Tấm khăn này thật hữu ích khi dùng để giải độc, nhưng hoàn toàn không phù hợp khi sử dụng quá lâu. Tấm khăn che mặt không những làm cho các tráng sĩ khó hít thở khí trời mà còn giữ lại một lượng lớn hơi thở. Cần biết hơi thở cũng là một thứ thán khí mà con người phải đào thải ra môi trường. Một lượng lớn chất khí này, vốn là thứ cơ thể phải thải hồi, lại được mũi hít trở vào khiến các chàng trai mau chóng kiệt sức. Ngay cả người thủ lĩnh khôn ngoan cũng không ý thức được điều này, nhưng chàng ý thức rất rõ một điều khác: Cần chấm dứt trò chơi này trước khi các tráng sĩ kiệt sức đến mức lũ súc sinh kia có thể hạ gục họ.
Ánh mắt người đứng đầu chợt sáng lên sau hồi lâu suy nghĩ. Chàng vụt chạy như bay thẳng đến một cánh rừng cách đó không xa. Chỉ ít lâu sau chàng đã quay lại, tay kéo lê một vật màu nâu hình hài méo mó to bằng đống rơm, hình như tổ của con gì đó. Chàng đẩy ngay khối màu nâu này vào giữa vùng hỗn chiến và hô to:
“Bà đây! Bà đây!” – Bà cụ vội vàng chạy đến – “Không sao! Không sao rồi! Có chuyện gì vậy cháu?”
“Cháu…cháu gặp…ác mộng!” – Đứa trẻ quệt mồ hôi trên trán. Em trai nó cũng bị tiếng gào đánh thức, đang dụi mắt lồm cồm bò dậy.
“Anh mơ cái gì mà hét om sòm?” – Thằng bé phụng phịu trách móc – “Em chỉ vừa mới ngủ được có chút xíu hà.”
“Cháu mơ thấy gì mà hoảng hốt quá vậy?” – Bà cụ hỏi. Nhưng đứa trẻ không trả lời. Chẳng rõ vì nó không nghe bà cụ hỏi hay vì chưa hoàn hồn. Chỉ thấy ánh mắt nó thất thần trợn trừng đỏ ửng. Một hồi lâu đôi môi đứa trẻ mấp máy run run:
“Cháu thấy cha…cha…bị…”
Giọng đứa trẻ lại tắc nghẹn. Nó ngước nhìn bà cụ, hỏi một cách tuyệt vọng:
“Cha…vẫn chưa về sao ạ?”
Bà cụ gật đầu chua xót. Đứa trẻ không nói nữa, đầu nó cúi gục, đôi môi mím chặt, nước mắt trào ra. Bà cụ chẳng hỏi gì thêm, giờ đây trong lòng bà chỉ đau đáu một ước nguyện, ước cho giấc mơ của đứa trẻ không trở thành sự thật.
***
Những tiếng động ầm ầm dội lên từ lòng đất. Khi các tráng sĩ chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra thì mặt đất đã nứt toác, để lộ thế giới ngầm hãi hùng của đại thụ kia. Từ trong lòng đất, hàng trăm con trăn khổng lồ gồng mình trồi lên. Những con trăn to ngang ngửa loài rồng lửa mà các truyền thuyết vẫn mô tả. Nhưng thật quái lạ, loài trăn nào mà lại dính vào nhau từng chùm thế này, con nhỏ gắn vào con to, con to gắn vào con to hơn, tạo nên hình hài thập phần cổ quái. Trong nỗi kinh hoàng, các tráng sĩ nhận ra lũ quái vật ấy thực tế là hệ thống rễ chằng chịt của đại thụ kỳ dị kia. Những chiếc rễ, mà có lẽ phải gọi là những khối rễ, cứ ầm ầm chuyển mình. Vùng đất mà chúng xé nát rộng gấp chục lần chiến địa nơi đoàn người giao tranh cùng dị mộc từ đầu đến giờ.Điều đó có nghĩa là các tráng sĩ lọt thỏm trong vòng vây tứ phía của những khúc rễ cuồn cuộn di chuyển như hàng trăm dòng lũ quét hung hãn. Chỉ cần một trong số chúng nện xuống cũng đủ tiễn một đàn voi từ cõi dương sang cõi âm, huống chi nhóm tráng sĩ chỉ là những con người nhỏ bé. Trong tình thế hung hiểm ấy, các chàng trai nghĩ gì? Họ nghĩ về gia đình...
***
Gia đình họ, theo tinh thần di tản ban đầu của trận đấu, đang cùng những người dân khác nương náu ở một nơi khá xa vùng chiến địa. Nơi ấy có những ông bố cố gạt đi niềm dự cảm chẳng lành về tiếng sét dữ chuẩn bị đánh ngang tai, và có những bà mẹ cố che giấu nỗi dằn vặt khôn nguôi về bữa ăn ngon cho con chưa kịp nấu. Đây đó vài cô gái tựa cửa thẫn thờ nhớ về nụ hôn đầu trao nhau đêm hội làng, và bao thiếu phụ bồn chồn không yên mong chờ tiếng gọi quen thường nghe khi tỉnh giấc.Tất cả dân làng, dù cứng rắn hay yếu mềm, dù tự tại hay nôn nóng, đều không khỏi bàng hoàng thất thần khi nghe thấy tiếng động kinh người trưa hôm ấy, tiếng động vang dội đến từ phía cổng làng Vỹ Phong, tiếng động ngay khi dị mộc kia vung rễ giương oai xé toạc đất. Người ta đổ xô ra khỏi nhà, hàng trăm cặp mắt hướng thẳng về chốn xa tít, nơi có khói bụi mù mịt và mây đen vần vũ.
Tiếng kêu lạc giọng của bà lão như chén dầu đổ vào ngọn lửa lo âu vẫn âm ỉ trong lòng mỗi người thân tráng sĩ. Họ hết thảy hoảng loạn cực độ, kêu thét thất thanh, quên hết hiểm nguy, đâm bổ về hướng cổng làng Vỹ Phong. Kể cả những người khuỵu ngã trong hoảng loạn cũng cuống cuồng bò dậy rồi lập tức loạng choạng lao đi. Thế nhưng dân làng đã kịp chạy theo, những ai tỉnh táo đều hiểu rằng các gia đình này đến đó chỉ là nạp mạng vô ích. Cứ hai ba người ghì chặt lấy một người, dân làng bằng mọi giá quyết giữ chân các người thân tráng sĩ. Những lời khuyên can, những câu la lối, những tiếng gào thét, những cú giãy giụa, những cơn ngất lịm... tất cả tạo nên cảnh hỗn loạn chưa từng có. Suốt chiều hôm ấy dân làng trông chừng các gia đình tráng sĩ như thể coi sóc trẻ nhỏ. Coi sóc để không cho họ đâm đầu vào hiểm nguy, ngăn cản họ làm điều chi dại dột, và thắp lên chút hy vọng xoa dịu nỗi hoang mang. Bất chấp người ta cố gắng thế nào thì ngọn lửa hy vọng ấy cứ yếu dần theo tia nắng. Một buổi chiều dài như hàng thế kỷ. Và hy vọng vụt tắt cùng tia nắng cuối ngày khi đêm xuống các anh vẫn chưa về. Những người thân tráng sĩ giờ đây không nói gì, họ kẻ nằm bẹp, người ngồi rũ, nhưng hết thảy đều chỉ còn là những cái xác không hồn. Đôi tay họ buông thõng tựa tàu dừa héo khô và ánh mắt vô hồn như con ngươi tượng gốm.
Phía xa xa nơi cổng làng Vỹ Phong là một sự thinh lặng chết chóc, không tiếng nổ, không khói bụi, không mây gió, không trăng sao, không động tĩnh. Dân làng nhận thấy đã đến lúc phải tìm câu trả lời về số phận các chàng trai. Họ thắp đuốc sáng rực và dìu những gia đình đau khổ lũ lượt kéo nhau tiến về nơi chiến địa. Tại đoạn cuối con đường, trong ánh lửa mập mờ, cảnh tượng mở ra trước mắt họ là mặt đất nứt toác và rìu rựa ngổn ngang. Mấy mươi ngọn đuốc lướt dọc lia ngang cũng không thấy các chàng trai. Sự vắng mặt của xác người nhóm lên cho đám đông tia hy vọng. Bất chợt có ai đó kêu lên, ngọn đuốc trên tay người này chĩa thẳng vào một khe nứt trên mặt đất. Mọi người xúm lại và thấy rõ trên mép khe nứt có bốn vết hằn sâu. Rõ ràng là dấu tay người bám víu tuyệt vọng trước khi bị những khối rễ ác quỷ kéo sâu vào lòng đất.
Một câu hỏi có thể được đặt ra: Nếu thế giới ngầm của dị mộc ghê gớm đến vậy, vì sao nó lại đợi đến khi đã tổn hao vô vàn hình nhân bị thiêu rụi và hàng trăm chùm quả bị ăn nát mới chịu dùng đến thế giới ngầm ấy? Nếu rễ dị mộc xé đất vung lên ngay từ đầu hẳn các tráng sĩ đã lập tức hy sinh mà không kịp gây cho nó một tổn thất nhỏ nào. Nguyên nhân nằm ở mặt đất vùng này.
Năm xưa khi Viêm Đế Thần Nông[3] ban phát những sợi nắng lóng lánh đầu tiên trên giang sơn Xích Quỷ, ngài đã ban lời chúc cho đất này nhu thuận dưới lưỡi cày người lương dân nhưng cương kháng trước bước chân quân bạo tặc. Đất mẹ tuân thủ lời Viêm Đế đã ra sức kìm giữ bộ rễ chết người của dị mộc để bảo vệ con dân Xích Quỷ. Nào ngờ yêu nghiệt kia quá dũng mãnh nên chung cuộc mặt đất chỉ có thể trì hoãn chứ không ngăn chặn được thảm kịch xảy ra.
Càng rọi đuốc tìm kiếm, người ta càng liên tục tìm ra những dấu tay hằn bên các khe nứt khác. Ở đây một dấu, ở kia một dấu, lúc thì tập trung, khi lại tản mác. Có người lỡ miệng lầm bầm:
“Lẽ nào họ...chết mất xác?”
Ngay tức khắc có tiếng thân người ngã phịch ngất lịm trên mặt đất, rồi những lời khóc thương vang lên nỉ non như oán thư than trong đêm khuya u tịch. Từ đó miếu Thành Hoàng có thêm một linh đường trang trọng, nơi ghi tạc trang sử thi bi tráng của năm mươi tráng sĩ trẻ đã anh dũng hy sinh.
HẾT CHƯƠNG 1
[1] Một mẫu tương đương một héc-ta đất
[2] Một khắc = 15 phút.
[3] Vị thần Mặt trời trong truyền thuyết, được xem là thần bảo hộ cho nhà nông.