Đều nói Tùy vong bởi chốn này
Dòng thông nghìn dặm đến ngày nay
Thuyền rồng đài điện không điều tiếng
Hạ Vũ đem so kém mấy đây”
(Bài thơ: Biện Hà hoài cổ kỳ 2 của Bì Nhật Hưu)
Bì Nhật Hưu người Đường khi nghỉ lại bên sông Biện Thủy, đêm nghe tiếng chèo thuyền mà không ngủ được, cảm nhận được cuộc sống phồn hoa hơn so với ngày xưa, đã sáng tác nên một khúc "Biện Hà hoài cổ", lấy công lao và khuyết điểm của việc mở kênh đào để đánh giá. Một bài thơ này, thiên hạ truyền ca, nói một lời của Bì tiên sinh đã diễn tả được hết nguyên nhân suy vong của tiền triều. Lại không biết thất bại của tiền triều còn vượt xa một kênh đào có thể chịu tải, về phần tỉ mỉ trong đó, các vị hãy nghe tôi chậm rãi kể lại.
Đại Vận Hà này chia là hai nhánh nam bắc, nhánh nam tên là Kênh Thông Tế, nhánh bắc là Kênh Vĩnh Tế. Phía Nam chảy thẳng tới sông Dương Tử, phía bắc thì thông tới quận Trác, rộng hơn hai trăm bốn mươi bộ, dài hơn ba nghìn năm trăm dặm, là Thiên hạ đệ nhất kênh. Từ lúc xây dựng đến nay đã vận chuyển tiền tài hàng hóa trăm vạn, tạo thuận lợi cho hai bên bờ sông thời gian dài. Duy nhất tới triều Dương Quảng thì lại không mang được lợi ích gì, ngược lại còn là mầm tai họa vong quốc? Dân gian truyền miệng nhau, Dương Quảng mộng thấy Giang Nam phồn hoa, cho nên mới không tiếc mạo hiểm vong quốc, xây dựng kênh đào, nhưng nếu Tùy Đế Dương Quảng chỉ là để thuyền rồng thông đường thủy chạy thẳng tới Giang Đô, dọc đường đi chơi đùa hưởng lạc, thì cần gì phải khai mở kênh đào nam bắc, làm cho người người oán trách?
Nhưng có những điều mọi người không biết, trên thực tế, Kênh đào Đại Tùy từ lúc Dương Kiên cầm quyền đã bắt đầu khai móc rồi, nguyên nhân đào móc cũng không phải là vì hưởng lạc, thực tế là để vận chuyển lương thực về phía bắc, đối phó với Đại quốc Liêu Đông Cao Cú Lệ, đây mới là mục đích thật sự.
Nước Cao Cú Lệ kia tương truyền là hậu nhân Cơ Tử xây dựng nên, thời kỳ đầu chỉ là một thôn xóm nhỏ, sau Lưỡng Tấn, Trung Nguyên chiến loạn không ngớt, Cao Cú Lệ Vương phụ thuộc vào người Tiên Ti không ngừng cướp về phía tây, tới khi Đại Tùy thành lập, Đế Quốc đã trở thành đại quốc đứng thứ hai sau Đột Quyết, thừa dịp cha con Dương Quảng vội vàng đối phó Nam Trần, không có thời gian để ý tới phía Bắc, đã không ngừng khơi mào xung đột biên giới.
Năm Khai Hoàng thứ mười tám, quân thần Đại Tùy không thể nhẫn nhịn được nữa, đã phái Cao Dĩnh mang theo mười vạn binh mã đông chinh, tiếc rằng quân lương không đủ, đã thất bại dưới Kiên Thành. Ba mươi vạn tướng sĩ chôn xương nơi hoang dã, trở về không tới ba nghìn.
Nhị Hoàng đế Đại Tùy Dương Quảng giết huynh đoạt ngôi, được vị bất chính, nóng lòng thành lập công lao sự nghiệp để bịt miệng người thiên hạ, cho nên sau khi lên ngôi, vẫn cùng quân thần trên dưới tìm kế làm thế nào để thảo phạt Cao Cú Lệ, nhằm hoàn thành đại nghiệp mà Tiên Hoàng chưa đạt thành. Vì để tránh dẫm vào vết xe đổ lần trước là lương thảo không tiếp tế được, từ những năm đầu khởi nghiệp, trước sau ông thu thập gần ba trăm vạn dân cường tráng, đã triển khai đào mở kênh đào khi Dương Kiên còn cầm quyền, thề sẽ đem sáp nhập sông Dương Tử, sông Hoài, Hoàng Hà, sông Hô Đà, sông Tang Can trở thành một con sống lớn nhất thiên hạ. Tốn thời gian mấy năm, cuối cùng đã tạc thành một con đường vận chuyển trên nước kết nối Nam Bắc Trung Nguyên.
Sau khi kênh đạo hoàn thành, Dương Quảng lập tức ban bố lệnh động viên, tổng cộng thu thập một trăm linh ba vạn tướng sĩ, dân cường tráng hơn hai trăm vạn, dọc Hà Bắc đi lên, trùng trùng điệp điệp thẳng hướng Liêu Đông. Tiếc rằng quyết tâm Đông Chinh mặc dù lớn, nhưng trong xương cốt trên dưới quân thần lại cực kỳ khinh thị Cao Cú Lệ, muốn một trận chiến để lại công muôn đời, lại muốn thể hiện lòng nhân từ của Thánh quân Trung Nguyên đối với các Chư Bộ, kết quả Cao Cú Lệ Vương, tướng sĩ sau hàng lại phản, sau phản lại hàng, chỉ dựa vào chiêu trá hàng, đã làm chiến sự trì hoãn hơn bốn tháng.
Dưới tình thế cấp bách, Dương Quảng phái ái tướng tâm phúc dưới trướng là Vũ Văn Thuật dẫn dắt tinh nhuệ trấn quốc Đại Tùy, ba mươi vạn phủ binh đường vòng đánh lén vương thành Bình Nhưỡng Cao Cú Lệ. Vũ Văn Thuật mặc dù là nhân vật có kinh nghiệm lý lịch số một không hai ở trong quân nhưng lại không phải là Đại tướng tài, cộng thêm một Giám Quân thích việc hám công to ở bên cạnh, đã bị Hi lý Hồ Đồ người Cao Cú Lệ chặt đứt tuyến tiếp việc, làm cho ba mươi vạn tinh binh bách chiến không có lương thực trợ giúp, toàn quân bị diệt.
Ba trăm ngàn phủ binh bị diệt, căn cơ Đại Tùy lập tức dao động, quân thần Dương Quảng nóng lòng xoay chuyển tổn thất, đầu xuân năm thứ hai, lập tức lại một lần nữa triệu tập tướng sĩ, triển khai Đông Chinh lần thứ hai. Ngay lập tức làm cho dân chúng thiên hạ bị vây trong nghèo khổ, an cư không thắng nổi đói rét, cướp đoạt để duy trì cuộc sống, vì thế đạo tặc hoành hành khắp nơi.
Không đợi lần Đông Chinh thứ hai này bắt đầu, thiên hạ đã loạn. Hà Nam có Vương Bạc, Hà Bắc có Tôn Tuyên Nhã, Trương Kim Xưng, Đậu Kiến Đức, Lũng Hữu có Cao hòa thượng, Lưỡng Hoài có Đỗ Phục Uy, các cử nghĩa quân công thành chiếm đất. Mỗi nơi đến, tàn sát hết các nhà phú hào, tẩy rửa làm cửa nhà dân, quan phủ nhiều lần đánh dẹp cũng không được. Ngay cả nông phu tiểu thương bình thường có tiếng nói lớn cũng phải bao che giặc cỏ, cùng thông đồng để kéo dài hơi tàn.
Tin tức rơi vào tay triều đình, Dương Quảng triệu tập quần thần nghị luận đối sách. Quần thần ngơ ngác nhìn nhau, đồng loạt đưa mắt tập trung vào hai vị trọng thần chấp chưởng triều đình là Bùi Củ và Ngu Thế Cơ là nhân vật thông minh cơ trí nhất nhì thiên hạ. Hai người Bùi, Ngu sớm đã biết đạo tặc thiên hạ nổi dậy khắp nơi, nhưng vẫn gạt công văn báo nguy mà địa phương báo lên với Dương Quảng, giờ phút này bị đồng liêu nhìn thì không chịu nổi nữa, dưới sự lo lắng đã nảy ra một kế hay.
Kế sách này đó là: Lệnh cho dân chúng địa phương hết thảy chuyển nhà đến trong thành, không thể đạo tặc có cơ hội hạ thủ. Về phần những nơi xa thành, thì lấy trúc bảo mà ở, đóng cửa tử thủ. Kẻ tặc tấn công tới, để chúng không có tiền bạc để cướp, không có tráng đinh có thể bắt, vườn không nhà trống, tự nhiên cũng sẽ chết đói hết.
Dương Quảng vừa nghe, cảm thấy kế này rất tốt, lập tức mệnh cho địa phương kiệt lực chấp hành. Chính lệnh ban ra chưa được nửa tháng, các phủ trong huyện thành kín người hết chỗ, giá đất tăng vọt, hàng hóa nam bắc cung không đủ cầu. Nhìn bề ngoài, không ngờ còn phồn hoa hơn cả thời kỳ thái bình thịnh thế. Về phần đồng ruộng ngoài thành có người trồng trọt hay không, cây cỏ còn sinh trưởng lớn mạnh hơn cây lúa thế nào, cũng không ai quan tâm.
Chú thích: Bài thơ Biện Hà hoài cổ kỳ 2 của Bì Nhật Hưu
“Tẫn đạo Tùy vong vi thử hà
Chí kim thiên lý lại thông ba
Nhược vô thủy điện long chu sự
Cộng vũ luận công bất giác đa"