Sebastian Vaughan tròng chiếc áo phông trắng qua đầu và nhét phần đuôi áo vào quần jeans. Như thể là quá nhiều cho việc làm việc thiện, anh nghĩ khi lấy chiếc điện thoại Blackberry lên từ đi văng. Anh liếc nhìn màn hình và thấy mình có bảy email và hai cuộc gọi nhỡ. Anh nhét nó vào chiếc túi sau chiếc quần jeans Levi’s nghĩ rằng mình sẽ xem nó sau
Anh nên biết rằng không nên giúp đỡ Clare Wingate. Lần cuối cùng anh giúp đỡ cô, kết quả anh nhận được là những lời càu nhàu không đáng có.
Sebastian đi đến bàn đầu giường, cầm lấy chiếc đồng hồ Seiko, nhìn xuống bề mặt màu đen có la bàn và các vạch chia dặm. Anh chưa đặt lại giờ cho chiếc đồng hồ bằng thép không gỉ này, và kéo nút chỉnh giờ ra. Khi anh vặn kim đồng hồ thêm một giờ, anh nghĩ về lần cuối cùng anh gặp Clare. Lúc đó cô được mười tuổi hay vào khoảng chừng đó, cô đã đi theo anh ra cái ao không xa ngôi nhà gỗ nơi cha anh sống. Anh đang giăng lưới để bắt ếch và nòng nọc. Và cô đứng trên bờ bên dưới một cây bông lớn trong khi anh lội qua lội lại, bận rộn với công việc của mình.
"Em biết cách các em bé được tạo thành", cô hớn hở khoe, nhìn xuống anh qua cặp mắt kính dày làm phóng to đôi mắt màu xanh nhạt của cô. Như mọi khi, mái tóc đen của cô được túm lại và được bện chặt phía sau đầu. "Người bố hôn người mẹ và em bé sẽ trôi vào dạ dày của mẹ"
Anh đã từng sống với hai người cha dượng, cũng như những người bạn trai của mẹ, và anh biết chính xác em bé được tạo thành như thế nào. "Ai đã nói cho em nghe điều đó?"
"Mẹ em"
"Đó là điều ngu ngốc nhất mà anh từng nghe", anh nói với cô, sau đó kể cho Clare về những gì anh biết. Anh nói bằng những từ chuyên môn, cách tinh trùng và trứng gặp nhau như thế nào trong cơ thể người phụ nữ.
Đằng sau cặp mắt kính của mình, đôi mắt Clare mở to đầy khiếp sợ. "Điều đó không đúng!"
"Ừ. Nó đúng như vậy đấy". Sau đó anh bổ sung thêm những quan sát của chính mình. "Các cuộc làm tình luôn ồn ào, đàn ông và đàn bà rất thích làm điều đó"
"Không phải chứ!"
"Đúng vậy. Họ luôn luôn làm việc đó. Ngay cả khi họ không muốn có em bé"
"Tại sao?"
Anh nhún vai và bắt được một vài con nòng nọc. "Anh đoán là vì nó có cảm giác rất tuyệt"
‘Gớm quá!"
Những năm trước đây, anh cũng đã nghĩ đến điều đó khá ghê tởm. Nhưng kể từ lúc lên mười hai tuổi một tháng trước đây, anh bắt đầu nghĩ khác đi về tình dục. Tò mò hơn là chán ghét.
Anh nhớ lại khi bà Wingate khám phá ra việc anh nói chuyện về tình dục với Clare, sự việc trở nên rắc rối hơn. Anh bị bắt thu xếp hành lý và được sớm gởi trả về Washington. Mẹ anh cực kỳ giận dữ vì cách anh bị đối xử. Từ đó bà từ chối không cho anh về Idaho thêm lần nào nữa. Kể từ đó, cha anh buộc phải đến thăm anh ở bất cứ thành phố nào mà họ tình cờ đến sinh sống. Nhưng chuyện giữa cha và mẹ anh ngày càng trở nên xấu đi, sự thù oán ngày càng trở lên sâu đậm, và sự vắng mặt của cha anh trong cuộc sống của anh ngày càng nhiều hơn. Ngay cả khi anh phạm những sai lầm lớn, anh vẫn không thấy bóng dáng của Leo.
Những ngày này, nếu buộc phải miêu tả mối quan hệ giữa mình và cha, anh chỉ có thể nói rằng nó hầu như không tồn tại. Có quãng thời gian, anh đã đổ lỗi cho Clare về điều này.
Sebastian đeo đồng hồ vào và nhìn quanh tìm ví. Anh thấy nó trên sàn và cúi xuống để nhặt. Anh nên để Clare lại quầy bar vào tối qua, anh tự nói với chính mình. Cô ngồi cách anh ba ghế, và nếu anh không nghe cô nói với bartender tên mình, anh sẽ không nhận ra cô. Khi còn nhỏ, anh luôn nghĩ rằng cô trông giống các nhân vật trong phim hoạt hình, với đôi mắt và cái miệng lớn. Tối qua, cô đã không còn mang đôi kính to và dày, nhưng khi anh nhìn vào đôi mắt xanh nhạt, đôi môi đầy đặn và mái tóc đen óng đó, anh nhận ra đó chính là cô. Màu sắc của ánh sáng và bóng đêm đã đối chọi nhau, và một đứa bé gái kỳ cục lúc bé đã biến đổi thành một người phụ nữ lộng lẫy. Đôi môi từng được xem là quá dày khi còn bé bây giờ đã khiến anh tự hỏi liệu cô đã học được phải làm gì với đôi môi đó khi trở thành người lớn chưa. Cô lớn lên và trở thành một người phụ nữ xinh đẹp. Nhưng ngay giây phút anh nhận ra cô, anh nên để cô lại đó cùng với tất cả sự buồn bã, nước mắt và một vài vấn đề tồi tệ khác của cô. Quỷ tha ma bắt. Anh không muốn dính vào một chuyện đau đầu nào nữa.
"Chỉ lần này thôi, mày đã thử và làm điều đúng đắn…" anh lầm bầm khi nhét chiếc ví vào phía sau quần. Anh đã đưa cô lên đến tận phòng để chắc rằng cô đến được đó, và cô đã mời anh vào. Anh ở lại khi cô nói ngày càng nhiều, và khi cô mê đi, anh đã mang cô vào giường. Như một vị thánh, anh nghĩ. Và sau đó anh đã mắc phải một lỗi chiến thuật.
Vào khoảng một giờ ba mươi phút sáng, và khi anh kéo tấm drap lên người Clare, anh nhận ra mình đã uống khá nhiều Dos Equis và tequila từ quầy bar mini trong phòng cô. Thay vì mạo hiểm với một đêm ngồi tù ở Boise, anh quyết định ở lại và xem một vài kênh truyền hình cho đến khi anh tỉnh rượu. Trong quá khứ, anh từng ở chung sào huyệt với những người đứng đầu nhóm du kích và ở chung trong xe tăng Abrams chật chội cùng với lính thủy đánh bộ. Anh đã đuổi theo những câu chuyện dài vô tận và cũng đã bị truy đuổi khắp hoang mạc Arizona bởi những người theo chủ nghĩa đa thê đang điên tiết. Anh có thể xoay xở với một cô gái say không biết trời đất, áo quần đầy đủ, người đầy mùi rượu. Không vấn đề gì. Chẳng có gì nghiêm trọng cả.
Anh tháo giày ra khỏi chân, gối đầu lên một vài chiếc gối và đưa tay lấy điều khiển. Những ngày này, anh bị khó ngủ, và anh hoàn toàn tỉnh táo khi cô bật dậy và bắt đầu vật lộn với chiếc áo đầm. Xem cô còn thú vị hơn nhiều so với chương trình chạy marathon Golden Girls trên tivi, và anh thích thú thưởng thức màn trình diễn khi cô cởi hết chỉ còn lại chiếc quần lọt khe và miếng dán tránh thai màu be. Ai nghĩ được rằng cô bé gái với cặp kính dày và luôn tết tóc, lớn lên sẽ trông xinh đẹp như thế kia trong chiếc quần lọt khe?
Anh đi sang phía bên kia phòng và ngồi trên đi văng. Đôi giày anh nằm yên trên sàn, và anh xỏ chân vào trong nó mà không cần tháo dây giày. Lần cuối cùng anh nhìn đồng hồ là năm giờ mười lăm sáng. Anh đã ngủ lúc nào đó trong phần bốn của chương trình Golden Girls và thức dậy một vài giờ sau đó với cặp mông trần của Clare đang dán chặt vào phía trước quần, lưng gắn chặt vào ngực anh, và tay anh đặt trên bộ ngực trần của cô như thể là người yêu của nhau vậy
Anh thức dậy, cực kỳ căng thẳng và sẵn sàng nhả đạn. Nhưng liệu anh đã xâm phạm đến cô chưa? Anh đã lợi dụng cô sao? Quỷ thần ơi, không phải vậy chứ? Cô có một thân hình hoàn hảo và đôi môi khiến người ta phạm tôi, nhưng anh đã không chạm vào người cô. Ừ thì ngoại trừ ngực cô, nhưng đó không phải là lỗi của anh. Anh đã ngủ mê và có những giấc mơ tình ái. Nhưng khi anh thức dậy, anh đã không chạm vào cô. Thay vào đó anh chạy vào phòng tắm và để cho dòng nước mát lạnh làm cho anh bình tâm lại. Và điều đó mang lại cho anh những gì? Đằng nào thì anh cũng bị đổ là đã ngủ với cô. Ồ, anh có thể làm tình với cô cho đến ngày Chủ nhật. Nhưng anh đã không làm thế. Anh không phải là loại đàn ông đó. Anh chưa bao giờ, ngay cả khi nếu người phụ nữ van xin điều đó. Anh thích người phụ nữ của anh phải có lý trí một chút, và cô đã làm anh bực mình khi cứ một mực kết tội anh về việc lợi dụng cô. Anh cố ý làm cho cô nghĩ như thế luôn. Anh có thể nói rõ với cô, nhưng anh lại nói dối chỉ để làm cô thấy khốn khổ hơn. Và anh chẳng thấy mình phải hổ thẹn vì điều đó. Một chút cũng không.
Sebastian đứng dậy và nhìn quanh phòng một lần nữa. Anh liếc nhìn về phía chiếc giường lớn và vỏ chăn nhàu nát. Trong ánh sáng tràn ngập, các chấm sáng nhỏ mang màu xanh và đỏ đập vào mắt anh. Anh đi về phía giường và nhặt một chiếc khuyên tai bằng kim cương ở giữa gối của Clare. Chiếc khuyên tai có viên kim cương ít nhất là hai carat sáng lấp lánh trong lòng bàn tay anh. Và trong giây lát, anh tự hỏi liệu viên kim cương này có phải là đồ thật không. Sau đó anh mỉm cười bỏ nó vào chiếc quần Levi’s. Dĩ nhiên nó là đồ thật. Phụ nữ như Clare Wingate không mang kim cương giả. Có Chúa mới biết, anh đã hẹn hò đủ mẫu phụ nữ giàu có để biết được rằng họ thà cắt cổ mình còn hơn phải đeo đồ giả.
Anh tắt tivi, rời phòng và bước ra khỏi khách sạn. Anh không biết được mình sẽ ở Boise trong bao lâu. Anh đã không dự tính về việc đến thăm cha mình mãi đến khi anh bắt đầu sắp xếp hành lý. Một phút trước anh đang sắp xếp các ghi chép của mình cho một bài nhỏ về các kẻ khủng bố địa phương cho tờ Neweeks, và phút sau anh đứng nhón chân với va li.
Chiếc Land Cruiser màu đen của anh được đỗ kế bên lối ra vào, nơi anh đỗ nó vào tối trước và anh leo vào trong xe. Anh không biết có chuyện gì xảy ra với anh. Trước đây anh chưa bao giờ gặp rắc rối trong việc viết bài. Không phải ở giai đoạn này. Không phải khi tất cả các ghi chép của anh được sắp xếp trật tự và tất cả những gì anh làm là đánh bật chúng ra. Nhưng mỗi lần anh cố thử, anh đều kết thúc bằng một bài báo kinh khủng và anh luôn phải nhấn nút xóa. Lần đầu tiên trong đời, anh sợ mình sẽ bỏ lỡ thời hạn cuối cùng cho bài viết.
Anh với tay lấy cặp kính Ray-Bans màu đen nằm trên bảng đồng hồ. Anh mệt mỏi, đúng như vậy. Anh đã ba mươi lăm tuổi và đã quá mệt mỏi. Anh che cặp mắt mình bằng mắt kính chống nắng và khởi động chiếc SUV. Anh đã ở Boise hai ngày, lái xe thằng từ Seattle đến đây. Nếu anh ngủ đủ giấc – một giấc ngủ liên tục kéo dài tám tiếng sẽ khiến cơ thể anh tốt hơn – nhưng ngay cả khi anh nói với chính mình rằng đó là những gì anh cần, anh biết điều đó là vô nghĩa. Anh thường hay ngủ rất ít, và luôn hoàn thành công việc. Anh đã không ngủ trong cát hay các cơn mưa dông – một lần, ở phía nam Iraq, cả hai cùng một lúc – và đã dự tính hoàn thành công việc nhằm theo kịp thời hạn cuối cùng của bài viết.
Trời chưa đến giữa trưa, nhưng nhiệt đọ ở Boise đã ở mức hai mươi chín độ C khi anh lái xe ra từ bãi đỗ xe. Anh bật máy lạnh và chỉnh góc cho nó hướng vào mặt anh. Anh vừa mới khám sức khỏe tổng thể tháng trước. Anh đã được kiểm tra mọi thứ từ bệnh cảm cho đến HIV. Anh đang ở trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo. Về mặt cơ thể anh không gặp phải rắc rối nào cả.
Không có chuyện gì xảy ra với đầu anh nữa. Anh yêu công việc của mình. Anh đã làm việc cật lực để có được vị trí hiện nay. Tham gia vào mọi việc và trở thành một trong những phóng viên thành công nhất ở đất nước này. Không có nhiều người như anh quanh đây. Một người đàn ông thành công, không phải bởi dòng đời hay lý lịch, hay một tấm bằng từ Đại học Columbia hay Princeton, mà bởi những gì anh làm để đạt được điều đó. Đúng vậy, tài năng và tình yêu công việc cũng đóng một phần quan trọng trong sự thành công, nhưng phần lớn là do sự can đảm và những quyết định nổi bật luôn chảy trong huyết quản anh. Anh được xem là một gã kiêu căng, mà anh cho điều đó khá đúng. Tuy nhiên điều làm những người chỉ trích anh khó chịu nhất lại không khiến anh mất ngủ hằng đêm.
Không, một điều gì đó nữa đang làm anh mất ngủ hằng đêm. Một điều gì đó đã chạm vào điều anh muốn quên đi. Anh đã đi khắp nơi trên thế giới, luôn ngạc nhiên bởi những gì anh nhìn thấy. Anh đã đưa tin về các loại hình khác nhau từ hội họa thời tiền sử trong các hang động ở phía đông Borneo đến các đám cháy dữ dội ở Colorado. Anh đã đi đến con đường Tơ lụa và đứng trên Vạn Lý Trường Thành. Anh được vinh dự gặp gỡ từ những người bình thường cho đến những người đặc biệt, và anh yêu từng giây phút đó. Khi anh dành thời gian nhìn lại cuộc sống của mình, anh một lần nữa lại ngạc nhiên vì những điều đã làm được.
Ừ, anh đã trải qua một vài chuyện tồi tệ. Anh từng ở cùng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5 Thủy quân lục chiến khi họ bị phục kích ở cách Iraq ba trăm dặm và trên đường tiến vào Baghdad. Anh từng ở đầu trận tuyến, biết được âm thanh đánh nhau và cái chết ngay trước mặt. Anh cũng đã nếm mùi của sự sợ hãi và thuốc nổ không khói trong miệng mình.
Anh biết được mùi vị của chết đói và lạm dụng, nhìn thấy được ngọn lửa của sự cuồng tín chảy trong mắt của những kẻ đánh bom liều chết và niềm hy vọng của những người đàn ông và phụ nữ dũng cảm quyết định đứng lên vì chính bản thân và gia đình họ. Những con người tuyệt vọng nhìn anh như anh có thể cứu họ, nhưng điều duy nhất anh có thể làm cho họ là kể lại câu chuyện của họ. Viết bài và mang lại sự chú ý về nó của toàn thế giới. Nhưng điều đó là chưa đủ. Nó chưa bao giờ đủ. Đối với những việc như thế, thế giới tỏ ra bàng quan với nó, trừ khi việc đó xảy ra ở sân sau nhà họ.
Hai năm trước ngày mười một tháng Chín, anh đã thực hiện một bài viết về Taliban và việc thực thi luật Sharia một cách nghiêm khắc dưới sự hướng dẫn của Mullah Muhammad Omar. Anh đã viết về các vụ hành hình và đánh phạt bằng roi công khai đối với những người dân vô tội, trong khi các quốc gia hùng mạnh – những người đấu tranh cho nền dân chủ – lại đứng một bên và chỉ có một ít biểu hiện. Anh đã viết một cuốn sách có tê Tách rời: Hai mươi năm chiến tranh ở Afghanistan, nói về những trải nghiệm của anh và những hệ quả vốn có của một thế giới được nhìn theo một cách khác. Cuốn sách đã nhận được những lời ca ngợi từ các nhà phê bình, nhưng doanh số bán ra lại rất khiêm tốn
Tất cả đều thay đổi vào một ngày trời trong xanh của tháng Chín khi những tên khủng bố cướp bốn chiếc máy bay dân sự và mọi người đột nhiên hướng sự chú ý đến Afghanistan và công lý tỏa sáng đối với sự tàn bạo được thực hiện bởi Taliban theo tinh thần của Đạo Hồi.
Một năm sau ngày cuốn sách anh xuất bản lần đầu tiên, nó đã xếp vị trí thứ nhất trong danh sách sách bán chạy nhất, và anh đột nhiên thấy mình trở thành một người nổi tiếng. Mọi phương tiện truyền thông từ Boston Globe đến Good Morning American đều muốn phỏng vấn anh. Anh đáp ứng một vài lời mời, và từ chối tất cả. Anh không quan tâm lắm đến sự nổi tiếng, cũng như các hoạt động chính trị hay các chính trị gia. Anh xem mình là một người tự do và có xu hướng bình chọn cho tất cả các đảng. Anh quan tâm nhất về việc mang đến sự thật và phơi bày nó cho tất cả thế giới. Đó chính là công việc của anh. Anh đã chiến đấu theo cách của mình để trở thành người nổi tiếng – đôi khi đấm đá và nhồi nhét – và anh yêu điều đó.
Chỉ là mọi việc trở nên không dễ dàng trong những ngày này. Chứng mất ngủ khiến anh cạn kiệt cả về thể xác và tinh thần. Anh cảm thấy mọi việc anh làm cực nhọc để có được thành công bõng chốc tan biến. Ngọn lửa bên trong anh đang dần mờ đi. Anh càng cố chiến đấu, ngọn lửa ngày càng lụi tàn, và điều đó làm anh sợ hãi choáng váng
Chuyến đi từ Double Tree đến nhà cha anh sẽ chỉ mất mười lăm phút đối với những người dân ở Boise nhưng anh phải mất đến một giờ. Anh đã rẽ nhầm và kết thúc bằng việc lái vòng vòng quanh chân núi cho đến khi anh thừa nhận thua cuộc và nhất nút tìm tọa độ của hệ thống định vị của chiếc SUV. Anh không thích tham khảo GPS và luôn giả vờ mình không cần nó. Nó khiến anh cảm thấy như gã đồng bóng. Đó là việc ngừng lại để hỏi đường. Anh thậm chí không thích hỏi đường khi ở nước ngoài. Điều đó là hiển nhiên, nhưng anh biết đó là bản chất con người mình. Cũng giống như việc anh ghét việc đi mua sắm và ghét phải nhìn thấy phụ nữ khóc. Anh sẽ làm bất cứ điều gì để không phải thấy những giọt nước mắt phụ nữ. Một vài thứ là hiển nhiên, anh nghĩ, vì chúng đã xảy ra ngày càng đúng.
Khi anh rẽ vào lối lái xe vào nhà của biệt thự nhà Wingate, đồng hồ chỉ vào khoảng mười một giờ trưa. Anh lái xe ngang qua một căn nhà ba tầng được xây chủ yếu bằng đá vôi được khai thác bởi những người tù từ các trại cả tạo cũ cách đó vài dặm đường. Anh nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy công trình kiến trúc hùng vĩ này. Lúc đó anh khoảng năm tuổi và đã nghĩ rằng sẽ có một gia đình thật lớn sống bên trong những bức tường bằng đá đen của nó. Anh đã sốc khi nghe rằng chỉ có hai người sống ở đó: bà Wingate và con gái bà – Claresta
Sebastian tiếp tục lái xe vòng ra phía sau và dừng lại trước ga-ra bằng đá. Joyce Wingate và cha anh đang đứng bên trong vườn, đang chỉ tay về luống hoa hồng. Như mọi khi, cha anh mặc áo sơ mi màu be hồ cứng, quần nâu, và chiếc mũ Panama màu vàng nhạt che đi mái tóc màu xám, đen. Những kỷ niệm về những lần giúp đỡ cha anh trong khu vườn đó hiện ra rõ rệt trong đầu anh. Về những lần bị bẩn và diệt nhện với cái mai làm vườn. Anh hoàn toàn yêu thích việc đó. Quay trở lại thời điểm đó, anh nhìn cha như một siêu nhân, anh từng thay thế và tiếp thu từng chữ, mọi điều từ việc phủ bồi cho đến câu cá và cả cách thả diều. Nhưng dĩ nhiên, mọi thứ bỗng ngừng lại, những năm đau khổ và thất vọng đã thay thế cho sự sùng bái anh hùng của anh
Sau khi anh tốt nghiệp trung học, cha anh đã gởi cho anh một vé máy bay để anh đến Boise. Anh đã không sử dụng nó. Năm đầu tiên anh vào học ở Đại học Washington, cha anh muốn đến thăm anh, nhưng anh đã từ chối. Anh không dành thời gian cho một người cha đã không dành thời gian cho anh. Khi anh tốt nghiệp đại học, mối quan hệ giữa cha và mẹ anh trở nên gay gắt. Anh đã yêu cầu Leo đừng đến tham dự lễ tốt nghiệp của anh,
Sau khi tốt nghiệp, anh lại quá bận rộn để vun đắp nghề nghiệp. Quá bận rộn để ngừng lại và dành thời gian cho cha mình. Anh thực tập ở tờ Seattle Times, làm việc trong một vài năm cho Associated Press, và đã viết hàng trăm bài báo tự do
Sebastian đã luôn sống đời sống thanh niên của mình không bị trói buộc. Tự do. Đi lang thang khắp thế giới mà không có bất cứ sự quyến luyến nào giữ hay trói buộc anh lại. Anh luôn cảm thấy mình giỏi hơn những người tội nghiệp, những người luôn dành thời gian để gọi về nhà bằng điện thoại vệ tinh. Sự chú ý của anh chưa bao giờ bị tách ra nhiều hướng khác nhau. Anh gan góc, kiên quyết và cực kỳ tập trung
Mẹ anh luôn ủng hộ anh trong tất cả những việc anh làm. Bà là một người ủng hộ lớn nhất và là một hoạt náo viên lớn tiếng nhất. Anh đã không gặp bà nhiều như anh từng muốn, nhưng bà luôn hiểu điều đó. Hay ít nhất là bà luôn nói là bà hiểu điều đó.
Bà từng là gia đình của anh. Cuộc sống của anh thật trọn vẹn. Anh và cha mình đã không biết đến nhau và anh chưa bao giờ có bất cứ mong ước gặp mặt cha. Anh luôn nghĩ rằng nếu vào một thời điểm nào đó trong tương lai, anh có ham muốn được gặp lại cha mình – có lẽ vào cuối độ tuổi bốn mươi của anh khi anh cảm thấy đây chính là thời gian để sống chậm lại – thì đó chính là thời điểm
Tất cả đều thay đổi vào ngày anh đặt mẹ mình vào lòng đất.
Anh đang ở Alabama, chuyên tâm vào nghiên cứu, thì nhận được điện thoại báo rằng bà đã mất. Đầu giờ chiều hôm đó, trong khi cắt tỉa cho cây Clematis, bà đã bị ngã khỏi thang dỡ. Không gãy xương, không có vết cắt hay xây xát. Chỉ một vết bầm trên chân bà. Đêm đó, bà chết một mình trên giường, khi vật tắc mạch di chuyển từ chân đến tim bà. Bà được năm mươi bốn tuổi.
Anh đã không ở đó. Cũng không biết được bà bị ngã. Lần đầu tiên trong cuộc đời anh, anh cảm thấy thật sự đơn độc. Trong nhiều năm anh đi lang thang khắp thế giới, nghĩ về sự tự do của riêng mình. Cái chết của mẹ anh đã thực sự làm cho anh tự do, và lần đầu tiên trong đời anh biết việc được cởi trói là như thế nào. Anh cũng biết là anh đang tự lừa gạt mình. Anh đã đi khắp thế giới mà vẫn còn sự trói buộc. Chúng đã ở đây. Suốt cả thời gian dài. Giữ cho cuộc sống anh được vững vàng. Cho đến bây giờ.
Anh chỉ có một người thân còn sống. Chỉ một người. Người cha anh hầu như không biết đến. Chết tiệt, họ đã không biết rõ về nhau. Không ai có lỗi, chỉ là mọi việc đã diễn ra như thế. Nhưng có thể thời gian sẽ giúp họ thay đổi điều đó. Một vài ngày để nối lại tình cảm với người cha già. Anh không tìm kiếm khoảng khắc Hallmark. Chỉ một điều gì đó làm dịu đi và giải tỏa sự căng thẳng đã tồn tại giữa họ
Anh ra khỏi chiếc Land Cruiser và đi băng qua bãi có xanh dầy đến vườn hoa nhiều mày sắc. Sebastian, còn hoa tai và kim cường trong túi anh. Anh nghĩ về việc đưa trả cho Crale. Anh sẽ phải giải thích nơi anh tìm thấy nó, và suy nghĩ đó làm môi anh nở nụ cười.
"Xin chào bà Wington," anh cất tiếng chào người phụ nữ lớn tuổi khi anh bước đến gần. Khi trưởng thành, anh đã rất ghét Joyce Wingate. Anh đổ lỗi cho bà về mối quan kệ rời rạc và không trọn vẹn của mình với cha. Anh đã vượt qua được điều đó cùng lúc anh từ bỏ việc trách cứ Clare. Không phải vì anh có bất cứ sự quý mến nào đối với Joyce. Anh đã không có các cảm giác đó cách này hay cách khác. Cho đến sáng hôm đó, anh cũng chẳng có bất cứ ý nghĩ gì với Clare. Giờ thì anh đã có và chúng không phải là những suy nghĩ hay ho cho lắm.
"Chào Sebastian", bà ấy nói, và đặt một cành hồng đỏ vào trong chiếc giỏ được treo trên cánh tay. Một vài chiếc nhẫn hồng ngọc và ngọc lục bảo chuyển động nhẹ nhàng trên những ngón tay xương xương của bà. Bà mặc một chiếc quần màu kem, áo cánh màu tím lavender, và một cái mũ rơm to. Người Joyce cực kỳ thanh mảnh. Kiểu thanh mảnh có được từ việc kiểm soát được mọi thứ trong cuộc đời của bà ấy. Nét mặt sắc sảo có ảnh hướng lớn đến khuôn mặt lớn của bà, và cái miệng rộng thường co lại khi không hài lòng. Ít nhất nó luôn thế mỗi khi anh có mặt. Và anh đã tự hỏi liệu tính cách gay gắt hay tính thống trị của bà đã luôn giữ cho ông Wingate luôn sống ở East Coast
Chắc chắn là cả hai.
Joyce chưa bao giờ là một người phụ nữ hấp dẫn, ngay cả khi bà còn trẻ. Nhưng nếu có ai đó chĩa súng vào đầu Sebastian và buộc anh phải nói một điều gì tốt về bà, anh có thể nói bà có đôi mắt màu xanh nhạt rất thú vị. Như những bông hoa Irit đang được trồng ở rìa khu vườn. Giống với đôi mắt của cô con gái. Những đường nét thô kệch của người mẹ đã thu gọn và đầy nữ tính hơn trên khuôn mặt của cô con gái. Đôi môi đầy đặn của Clare làm mềm đi những nét của cái miệng, và cô thừa kế cái mũi nhỏ hơn, nhưng đôi mắt lại giống y hệt mẹ của mình.
"Cha cháu bảo rằng cháu sẽ sớm rời khỏi Boise", bà ấy nói. "Thật tiếc khi cháu không thể ở lâu hơn"
Sebastian chuyển cái nhìn của mình từ đóa hoa hồng trong giỏ của Joyce lên mặt bà, vào đôi mắt đã chiếu những ngọn lửa màu xanh vào anh khi anh còn nhỏ. Một chú ong lớn bay đến cùng cơn gió nhẹ, và Joyce đã vẫy cho nó đi. Điều duy nhất hôm nay anh thấy trong mắt bà là yêu cầu lịch sự
"Tôi đang cố bảo với nó ở lại hết tuần tới", cha anh nói khi ông lấy chiếc khăn từ túi quần sau và lau mồ hôi trên trán ông. Leo Vaughan chỉ thấp hơn Sebastian một ít, và mái tóc đã từng là màu nâu của ông giờ đã chuyển sang hai màu, bạc và nâu. Khóe mắt ông dày đặc những vết chân chim. Lông mày ông trở nên rậm rạp trong những năm gần đây và "giấc chợp mắt hai mươi phút" bây giờ kéo dài đến một tiếng. Leo sẽ được sáu mươi lăm vào cuối tuần. Và Sebastian nhận ra rằng cha anh đã không di chuyển dễ dàng khắp vườn của nhà Wingate như anh nhớ. Không phải anh nhớ nhiều điều về cha mình. Một vài tháng ở đây và một tuần ở đó chính xác đã không tạo ra nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, nhưng điều anh nhớ khá rõ là đôi bàn tay của cha anh. Chúng lớn và đủ mạnh để bẻ gãy những cành cây nhỏ và các tấm ván, đủ nhẹ nhàng để vỗ vào vai một cậu bé và xoa xoa vào lưng cậu. Khô và xù xì, đôi bàn tay của một người lao động nặng. Bây giờ chúng đã lốm đốm với thời gian và với nghề nghiệp của mình, da tay ông chảy xệ tràn qua các đốt ngón tay phình to.
"Cháu thực sự không biết cháu ở đây được bao lâu", anh nói, không thể hứa bất cứ điều gì. Thay vào đó anh thay đổi chủ đề. "Cháu tình cờ gặp Clare vào tối qua"
Joyce cúi người xuống cắt một bông hồng khác. "Vậy sao?"
"Cháu gặp một người bạn cũ cùng học ở Đại học Washington trong một quán bar ở Double Tree. Anh ta đến đó để lấy tin cho đợt gây quỹ cảu Steelhead. Và Clare nói rằng cô ấy đang tham dự tiệc cưới"
"Ừ, Lucy – bạn của con bé vừa mới cưới ngày hôm qua" Joyce gục đầu và chiếc mũ lớn của bà nghiêng xuống. "Chẳng bao lâu nữa Claresta cũng sẽ cưới người đàn ông trẻ của nó, Lonny. Chúng sẽ sống hạnh phúc. Cả hai đưa đã nói về việc tổ chức đám cưới trong khu vườn này vào Tháng Sáu tới. Các loài hoa sẽ nở rộ vào thời điểm đó và đó cũng là thời điểm thú vị nhất của năm"
"Vâng, cháu nghĩ cô ấy có nhắc tới Lonny". Rõ ràng là Joyce chưa nghe được tin mới nhất. Sự yên lặng ngượng ngịu xảy ra giữa họ, hoặc chỉ một mình anh vì anh biết được rằng sẽ không có đám cưới nào vào tháng Sáu cả. "Cháu không có cơ hội hỏi Clare về việc làm của cô ấy" anh hỏi để phá tan sự im lặng
Joyce quay trở lại với những bông hồng. "Con bé viết tiểu thuyết, nhưng không giống với sách của cháu"
Anh không biết điều gì khiến anh kinh ngạc hơn: rằng bà Wingate quan tâm đến anh đến độ biết được về cuốn sách anh đã viết, mặc dầu cuốn sách của anh không phải là tiểu thuyết, hay việc Clare là một nhà văn. "Vậy sao?". Anh đã nghĩ cô là một người tình nguyện chuyên nghiệp như mẹ cô vậy. Nhưng anh có một ký ức lờ mờ về việc cô kể cho anh nghe những câu chuyện chán ngắt về một con chó tưởng tượng nào đó. "Cô ấy viết gì? Tiểu thuyết dành cho phụ nữ à?" anh hỏi
"Đại loại thế", Joyce trả lời, và anh nhận ra những đốm lửa màu xanh quen thuộc lóe lên trong mắt bà…
Không lâu sau, khi Sebastian và cha anh cùng nhau ăn tối, anh đã hỏi cha mình: "Vậy, Clare thực sự làm gì để sống hả cha?"
‘Con bé viết tiểu thuyết"
"Con biết điều đó. Loại tiểu thuyết nào ạ?"
Leo đẩy một bát đậu về phía Sebastian. "Tiểu thuyết lãng mạn"
Bàn tay đang đưa về phía bát đậu của anh như đông cứng lại. Claresta bé nhỏ ấy à? Cô bé luôn nghĩ rằng hôn nhau sẽ tạo ra em bé sao? Cô gái nhỏ có vẻ ngoài kỳ lạ với cặp kính dày trở thành một người phụ nữ xinh đẹp khi lớn lên sao? Người phụ nữ xinh đẹp chỉ mặc một chiếc quần lọt khe bé xíu màu hồng và khiến anh nhìn không chán sao? Một nhà văn lãng mạn ư? "Cha không đùa chứ?"
"Joyce chẳng lấy làm vui về điều đó"
Anh lấy bát đậu và cười to. Không phải chứ