Tối đó họ vẫn ngủ nhờ nhà mấy người nông dân, vì trên đường mệt mỏi nên Tĩnh Uyển ngủ say, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, thấy hơi lạnh, cô đi đến cửa sổ mới biết là trời mưa. Trời hỡi mưa như thế là rất lầy lội khó đi, Nghiêm Thế Xương vốn định tạnh mưa mới
đi nhưng mưa mùa thu, lúc mưa lúc tạnh, đến gần trưa vẫn rả rích không
ngừng.Thời gian bỏ lỡ trên đường càng dài thì càng nguy hiểm, may mà sau buổi trưa trời mưa nhỏ dần, họ bèn đội mưa lên đường.
Tĩnh Uyển mặc áo mưa, đội chiếc nón che
gần hết mặt, cô chưa từng mặc áo mưa, chỉ thấy mùi cây trẩu rất khó
chịu. Đi được mười cây số trời lại mưa to hơn, áo mưa vừa ướt lại vừa
nặng, quần áo bên trong cũng ướt gần hết, lạnh lẽo như dính vào da thịt, khiến cô không khỏi run rẩy. Nghiêm Thế xương rất lo lắng nhưng trời
mưa đường trơn, lừa đi rất chậm nên chẳng còn cách nào khác. Đến chiều
từ đường núi nhìn ra xa thấy những ngôi nhà lớn trong núi, trong màn mưa mênh mang giống như một bức tranh thủy mặc vẽ cảnh bốn phía mây mù.
Nghiêm Thế Xương chỉ cho cô xem: “Đó chính là Hà Gia Bảo, đi qua ngọn
núi chính là núi Kỳ Phong rồi”
Tĩnh Uyển phấn trấn tinh thần cười nói:
“Coi như sắp đến rồi”. Đường núi khúc khuỷu, nhìn gần ngay trước mặt
nhưng đi lại rất xa, đến tận lúc lên đèn họ mới xuống núi, con đường đá
xanh thẳng tắp kéo dài đến Hà Gia Bảo. Vì trời mưa nên chỉ có lác đác
mấy người trên đường. Họ không ghé vào thị trấn, mà chỉ dừng chân nghỉ
ngơi ở bên ngoài, mua bánh ngô làm lương khô.
Nghiêm Thế Xương đội nón mặc chiếc áo
mưa dầu cũ, lại nói tiếng bản địa, ông chủ cửa hàng nhỏ không hề nghi
ngờ, chỉ dẫn cặn kẽ cho anh: “Buổi tối đừng đi đường, năm nay nơi này
không yên ổn, lúc thì quân này đánh đến lúc thì quân kia đánh đến, hai
người tốt hơn hết là nghỉ lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên
đường”.
Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành
không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một
đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo
lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh
Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở
lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.
Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi
mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến
người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả
tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như
mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn
chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương
chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô
số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên
nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó,
sáng mai lại lên đường”.
Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo
Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ.
Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường
dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt
đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế
Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt
lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển,
sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang
run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm
tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.
Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt
anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe
thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp
anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm.
Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa
vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi,
lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ
tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi
không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.
Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên
mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ
đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng
đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư
cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.
Trong tay anh có một khẩu súng ngắn
khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ
hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này
dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần,
tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ
đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa
càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng
ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt
rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.
Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt
khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân
rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.
Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng
đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi:
“Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng
xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực
điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây.
Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương
vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh
con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.
Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng
thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến
bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư
kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong
chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn
như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền
từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc,
biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với
lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được
một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự
lo âu thấp thỏm.
Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.
Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy
tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh
giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt
lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã
hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn,
quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn
của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.
Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”
“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị
kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch
Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến,
báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn
giận mấy ngày vừa rồi”.
Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua
chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn
Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là
binh pháp Tôn Tử”.
Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết
chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân
của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung
Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời
khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời
đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa
xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang
dựng súng hành lễ.
Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang
Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng
quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ:
“Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp:
“Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ,
chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ
xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.
Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ:
“Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy
chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi
quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao
hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn
nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không
màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.
Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc
thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô
ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương
mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.
Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong
giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như
thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể
kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời
đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù,
chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.
Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình
thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên,
chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt
đều sững sờ.
Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn
ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới
đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh
trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng
đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ
Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi:
“Nghiêm Thế Xương”.
Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy
hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ
Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường,
vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi,
cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.
Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu,
hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa
đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn
ngon miệng”.
Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời
điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.
Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung
Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ
anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc
tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư
kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh
Uyển.
Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn
đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ,
đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước
nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần
áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến
thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc
vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại
có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.
Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng
hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có
máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có
đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt
một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có
đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.
Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản
dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng
thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái
yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.
Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”.
Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế
trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa
này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.
Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng
ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ
hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương
chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói:
“Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người
tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.
Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ
Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước
đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng
này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi
mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.
Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.
Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn
xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa
người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình
thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính
cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu
vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô
vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.
Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”.
Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô
hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng,
trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ:
“Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa
liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.
Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô
không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy
giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt
vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt
mất.
Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng
ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu
mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.