Đầu Hunt lùng bùng
khi bước ra khỏi căn phòng: suy nghĩ lộn xộn và nghi ngờ về chuyện bà
Katherine cả quyết những gì đọc trong tờ ghi chép của Johnny; giận dữ và bực dọc vì cậu bé không chịu nói chuyện với ông; nhẹ cả người khi cậu
còn sống, và Tiffany cũng thoát hiểm. Hunt dựa hai vai vào bức tường
lạnh và làm ngơ những người đi qua đi lại, làm ngơ những ánh mắt của họ. Ông mệt mỏi và lo lắng, nhưng hy vọng cái chết của Burton Jarvis là
khởi đầu cho sự chấm dứt, và cái chết bi thảm của gã già cũng sẽ là bước đầu tiên giúp ông lần mò ra sự mất tích của Alyssa. Ông cố gắng tự
thuyết phục mình là gã đốn mạt bệnh hoạn hành động đơn thương độc mã;
nhưng có một điều lo lắng nhớp nhúa cứ lẩn quất trong đầu ông.
Một gã cớm?
Chuyện này có thể không?
Hunt cố gắng một lần nữa để giải mã những nét chữ lí nhí trong ghi chép của
Johnny. Một số trong đó viết bằng bút chì, loè nhoè. Nhiều phần bị nhoè
nước, những chỗ khác lem luốc bởi bồ hóng và nhựa thông và nhiều chỗ
rách trên giấy. Hunt có thể biết còn nhiều điều bí mật trong đó. Ông chỉ muốn đạp sập cánh cửa và vắt từng câu trả lời ra khỏi cậu nhóc.
Mẹ kiếp!
Cậu bé biết nhiều chuyện. Hunt chắc chắn điều này. Ông hình dung một lần
nữa, như nhiều lần đã làm thế, đôi mắt đen và sự cảnh giác, sự thâm thúy trong chiều sâu tĩnh lặng và cách suy nghĩ cẩn thận. Johnny đã bị làm
hỏng người theo nhiều cách khác nhau, nhưng rõ ràng cậu bé đã nhận ra
điều gì đó...
Lòng trung thành. Sự dữ dội. Sự xác quyết.
Những đặc tính ấy khiến cho cậu trai gặp nhiều trở ngại. Nhưng chúng khiến
Hunt cảm thấy hãnh diện và ra sức bảo bọc. Lẽ ra Johnny nên biết những
điều ấy hiếm hoi như thế nào, quý giá đến mức nào trong thế giới này.
Hunt muốn vòng tay ôm chặt cậu, làm cho cậu hiểu, và, cùng lúc ấy, ông
muốn cậu phải dừng bước.
Hunt đi ra bãi đậu xe, ánh nắng chan
hòa, không khí rất đỗi trong lành. Cỏ xanh và nắng đẹp không có ý nghĩa
gì cho một ngày như thế này. Ông nhìn lên tầng sáu. Phòng bệnh của
Johnny nằm ở cuối dãy, Tiffany nằm ở góc đối diện. Tòa cao ốc tỏa sắc
trắng, và những ô cửa kính hắt màu xanh tuyệt hảo.
Ông đi về nơi
hướng xe của ông đậu và được nửa đoạn đường, ông thấy một người đàn ông
mặc veston. Cao như cây sậy, hai bả vai to gù, y di chuyển từ một góc
khuất của tòa cao ốc, ẩn mình giữa hai chiếc ô tô, và tiến đến phía bên
phải ông. Tự nhiên Hunt để ý đến người đàn ông đó. Nụ cười nhã nhặn, một tay y cầm tệp giấy gấp. Nhân viên quản trị bệnh viện, ông đoán. Hoặc
người nhà bệnh nhân.
“Thám tử Hunt?”
Khoảng ba mươi, tóc búi, da hơi sần sùi. Hàm răng trắng đều.
“Phải.”
Nụ cười người đàn ông rạng rỡ và một ngón tay giơ lên. Y nhìn như muốn thể hiện một bộ mặt quen thuộc. “Thám tử Clyde Lafayette Hunt?”
“Đúng rồi.”
Y trao cho Hunt xấp giấy tờ và nụ cười biến mất khi Hunt cầm xấp giấy.
“Ông đã nhận trát toà.”
Hunt nhìn y bỏ đi, sau đó đọc đống giấy. Ông bị kiện, bởi gã Ken Holloway.
Mẹ kiếp!
Viên sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ của Levi Freemantle làm việc trong một dãy lúc nhúc những văn phòng mất hút ở lầu ba tòa án quận hạt. Hành
lang sàn nhà dán keo bong tróc và trong tám mươi năm trời, nhựa nicotine ám vào bức tường trát vữa. Những cánh cửa văn phòng làm từ gỗ sồi đậm
màu phản chiếu màu xanh tuyệt hảo. Đủ thứ âm thanh thoát ra đằng sau
cánh cửa: tranh cãi, giải thích, khóc than. Những lời lẽ ông đã từng
nghe trước đây. Hàng trăm lần. Hàng triệu lần. Sự dối trá ầm ập đến như
nước lũ, làm sĩ quan cải huấn là một cái nghề phải phán đoán tất cả
những mánh khoé, gian ngoan nhất của con người mà Hunt từng chứng kiến.
Ông tìm văn phòng sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ Freemantle ở phòng thứ
chín. Bảng tên gắn trên cửa phòng ghi Calvin Tremont, và cửa rộng mở.
Những chồng hồ sơ chất trên ghế và dưới sàn nhà. Một cái quạt đặt trên
tủ hồ sơ bằng sắt đầy những vết xước thổi hơi nóng. Người đàn ông ngồi
sau bàn làm việc quen biết Hunt. Người tầm thước, bụng to, gần sáu mươi, tóc hoa râm và cảm giác như có những nếp gấp trên làn da sậm màu của
ông. Hunt gõ cửa.
Khi ông Tremont nhìn lên, ông ta cau mày, nhưng không lâu. Cả ông và Hunt có mối thân tình mật thiết. “Chào Thám tử,”
ông nói. “Chuyện gì mang ông đến đây?”
“Một gã người của ông.”
“Mời ông ngồi, nhưng...” Ông ta xoè ngón tay ám chỉ những chồng hồ sơ đầy trên hai chiếc ghế.
“Tôi không làm mất thời gian của ông đâu.” Hunt bước vào phòng. “Tôi có để lại lời nhắn hôm qua. Đây cũng là cùng một việc.”
“Ngày đầu tiên trở lại sau khi nghỉ ngơi.” Ông ta ra hiệu lần nữa. “Tôi cũng chưa đọc hết các e-mail.”
“Đi chơi vui chứ?”
“Cả nhà ở bãi biển.” Ông ta nói cái kiểu nó có thể ngụ ý bất cứ thứ gì.
Hunt gật đầu và không hỏi thêm. Viên sĩ quan cải huấn cũng như cớm; họ
hiếm khi tiết lộ chuyện đời tư.
“Tôi cần nói về vụ Levi Freemantle.”
Khuôn mặt ông Tremont nở nụ cười rạng rỡ mà trước nay Hunt chưa từng bắt gặp. “Levi? Thằng bạn thân tôi sao rồi?”
“Bạn thân ông à?”
“Hắn là đứa trẻ ngoan.”
“Hắn bốn ba tuổi rồi.”
“Tin tôi đi, hắn chỉ là đứa trẻ con.”
“Chúng tôi nghĩ bạn thân ông giết hai người. Có thể ba.”
Đầu ông Tremont di chuyển tưởng như cổ ông ta được bôi trơn dầu mỡ. “Tôi nghi ngờ ông nhầm lẫn.”
“Ông nói cứ như chắc chắn lắm...”
“Levi Freemantle nhìn thì giống như một gã đàn ông sừng sỏ nhất ngoài giang
hồ, như hắn có thể giết ông chỉ vì một đồng năm xu, mà thực sự cũng
không tệ lắm khi ông không có xu nào dính túi. Nhưng để tôi nói thẳng
với ông, thám tử, hắn sẽ không giết ai. Không thể nào. Ông nhầm người
rồi đó.”
“Ông có địa chỉ của gã không?” Hunt hỏi.
Ông Tremont gật đầu và lục lọi từ trong trí nhớ. “Hắn cư ngụ ở đó khoảng ba năm.”
“Chúng tôi phát hiện thấy hai tử thi ở địa chỉ đó,” Hunt nói. “Một phụ nữ da
trắng, chớm giữa ba mươi. Người đàn ông da đen, khoảng bốn mươi lăm
tuổi. Chúng tôi phát hiện ra họ ngày hôm qua. Họ đã bị giết khoảng một
tuần lễ.” Hunt để một khoảng thời gian lắng đọng. “Ông có biết Clinton
Rhodes không?”
“Gã là người bị giết hả?”
Hunt gật đầu.
“Tôi không phụ trách hồ sơ đó,” ông Tremont nói. “Nhưng gã ta từng ra vào
chốn này một thời gian khá dài. Thứ dữ. Hung hãn. Bây giờ tôi có thể xem gã ta là kẻ giết người. Không phải Levi.”
“Chúng ta đều tin như vậy.”
Ông Tremont dịch chuyển trên chiếc ghế. “Levi Freemantle đang thọ án tù ba
tháng cho một lần vi phạm án treo. Hắn sẽ không ra khỏi nhà tù chín tuần nữa.”
“Hắn đã trốn cách đây tám ngày.”
“Tôi không tin như vậy.”
“Hắn trốn biệt và không ai biết hành tung của hắn, ngoại trừ một gã nghiện
ngập mà chính tên mình cũng không rõ, và một cậu trai trẻ gần hiện
trường một vụ án mạng. Chuyện đó xảy ra cách đây hai ngày. Cho nên ông
thấy đó, tôi có ba thi thể, mỗi người liên quan ít nhiều đến con trai
ông.”
Ông Tremont lấy hồ sơ Freementle và giở ra. “Levi chưa từng bị kết án liên quan đến bạo hành. Hắn chưa hề bị tố lấy một lần. Xâm
nhập gia cư, ăn cắp cửa hiệu.” Ông ta đóng sấp hồ sơ. “Ông xem,” ông
nói. “Levi không phải con dao cái kéo bén nhất trong thùng đồ nghề. Phần lớn những vụ án đó, nếu ai đó nói, Levi, đi vào trong đó và lấy cho tao một chai rượu, hắn chỉ đơn giản bước vào tiệm và lấy. Hắn hoàn toàn
không biết gì về hậu quả.”
“Thì những kẻ giết người cũng tương tự.”
“Không phải như vậy. Levi...” Ông ta lắc đầu. “Hắn chỉ là đứa con nít.”
“Tôi có một xác chết phụ nữ da trắng. Mới chớm đến giữa ba mươi. Ông có ý kiến gì về chuyện này không?”
“Hắn có qua lại với Ronda Jeffries. Cô ta da trắng, thích tiệc tùng. Được
biết đôi khi hành nghề tay trái mãi dâm. Chỉ là vui chơi, cô ta thích
đàn ông to lớn, thứ dữ. Đặc biệt cô ta chuộng đàn ông da đen to lớn. Cô
ta qua lại với Levi vì tướng mạo hắn, một kẻ giang hồ anh chị trên đường phố. Cô ta sử dụng hắn bởi vì hắn dễ sai bảo và làm những gì cô ta sai
khiến. Hắn làm được vài đồng là đưa cả cho cô ta. Hắn lo toan mọi việc
trong nhà. Làm cho cô ta nhìn có vẻ hợp pháp. Khi cô ả muốn chơi hoang,
hay một nhân tình mới, cô ả thường tìm một cớ gì đó để Levi bị bắt nhốt
trong một thời gian ngắn. Nó cũng như tôi nói, hắn sẵn sàng làm bất cứ
điều gì ả ta sai khiến. Lần đầu tiên hắn bị bắt liên quan đến trộm cắp
siêu thị. Cô ả lấy cắp một lọ nước hoa khỏi kệ hàng và bảo hắn cầm lấy
nó; sau đó cô ta dẫn gã đi qua nhân viên an ninh và ra cổng trước.”
“Họ có hôn thú với nhau không?”
“Không, nhưng Levi nghĩ là họ có.”
“Tại sao?”
Ông ta cười. “Bởi vì họ ngủ chung giường, và bởi vì...” chữ nghĩa bặt âm.
“Ồ, chết rồi.”
“Chuyện gì?”
“Ai chăm lo đứa con của họ?”
Hunt cảm thấy lạnh người. “Con của họ?”
“Đứa bé gái. Hai tuổi.”
Hunt với tay chộp điện thoại của ông.
“Nó có nụ cười có thể làm tan chảy trái tim ông.”