Hunt đứng trong văn
phòng Cảnh sát trưởng. Những lá cờ phủ một góc căn phòng, và trên một
bức tường treo nhiều hình ảnh ông sếp với nhiều chức nhiệm hành chính
khác nhau: phó Thống đốc tiểu bang, cựu Thượng Nghị sĩ, một gã tài tử vô danh tiểu tốt có vẻ mặt hao hao giống. Ảnh các con ông được chia đều
treo trên tường. Tờ nhật báo địa phương đặt trên bàn. Các tờ nhật báo từ Wilmington, Charlotte, và Raleigh cũng đặt ở đó. Hình ảnh của Johnny
ngay ở trang đầu các tờ nhật báo. Khuôn mặt được sơn vẽ, lông chim, máu
và xương.
Một người Da đỏ hoang dã.
Ông Cảnh sát trưởng
ngồi trên ghế, ngửa người ra đằng sau, hai tay vắt chéo trên bụng. Sự
bực bội khắc nhiều đường hằn sâu nơi hai mí mắt. Ông ta mệt mỏi, với mái tóc chưa gội sáng bóng bết trên vầng trán. Quận trưởng cảnh sát đứng
dựa vào tường, người đàn ông rắn chắc đó tầm tuổi sáu mươi, với làn da
nứt nẻ trên những khớp xương tay và hai bọng mỡ ở dưới hai mí mắt. Ông
đảm trách chức vụ Quận trưởng cảnh sát đã gần ba mươi năm và những nhân
viên dưới quyền rất sợ hãi vì tính bốc đồng hơn là kính trọng vì khả
năng của ông. Ông ta dò chừng thám tử Hunt khá kỹ bằng cặp mắt sẫm màu,
xuyên phá và trông cũng chẳng vui vẻ gì hơn ông Cảnh sát trưởng.
Hunt không hề nao núng.
“Ông có biết,” Cảnh sát trưởng bắt đầu, “có bao nhiêu người làm việc cho nha cảnh sát? Bao nhiêu sĩ quan, bao nhiêu tập sự không?”
“Tôi biết rõ.”
Cảnh sát trưởng xoay qua Quận trưởng cảnh sát. “Và ty cảnh sát quận hạt? Có biết không?”
“Nhiều lắm, tôi chắc vậy.”
“Và ông nghĩ những người đó sẽ cảm thấy thế nào nếu chúng tôi cho phép ông
lục lọi hồ sơ nhân viên của họ? Hồ sơ bảo mật cá nhân của họ?”
“Tôi có lý do để tin rằng...”
“Chúng tôi đã thấy lý do của ông.” Giọng nói ông Quận trưởng cảnh sát cắt
ngang. Ông ta chuyển động nhưng vẫn giữ vai tựa trên tường, hai ngón tay cái móc vào dây thắt lưng màu đen, nặng trịch. “Và không một ai trong
chúng ta có thể chắc chắn chữ viết trong đó nói gì. Có thể nó là “cớm,”
nhưng cũng có thể là điều gì khác. Có thể thằng bé này nhầm lẫn.”
Ông Cảnh sát trưởng chồm tới trước. “Hay là toàn những thứ...”
“Hay là điên như con chuột chuồng chồ.”
Hunt nhìn chằm chằm ông Quận trưởng cảnh sát. “Tôi tôn trọng sự bất đồng quan điểm.”
“Bây giờ ông là một loại chuyên viên nào đó sao?” ông Cảnh sát trưởng chỉ mạnh một ngón tay vào tờ nhật báo. “Nhìn cậu ta này.”
Tấm ảnh kết tội cậu bé và sẵn sàng đi đến phán quyết: lông chim, tóc tai
hoang dã, Tiffany run cứng người vì sợ hãi, hai con mắt cậu trai kinh
ngạc đến mức trống rỗng tột độ.
“Tôi hiểu những thứ đó trông thế
nào, nhưng đây là một đứa trẻ thông minh. Nếu nó nghĩ nó trông thấy một
ông cớm, chắc phải có lý do.”
Ông Quận trưởng cảnh sát cắt ngang. “Anh nhóc đó cho rằng nó dựng lên chuyện ấy. Chính ông cũng nói như
vậy. Bây giờ, đó là tất cả những gì tôi muốn nghe.”
“Cậu ta lo
ngại rằng Sở Xã hội sẽ lôi cậu ta ra khỏi gia đình duy nhất mà cậu ta
còn sót lại để bám víu. Cậu ta nghĩ một gã cớm dính dáng với Burton
Jarvis.” Hunt không thể giữ mãi sự bực dọc trong lòng. “Cậu ta kinh sợ.
Cậu ta phải tự bảo vệ lấy chính mình.”
“Ông có bất cứ một lý do
nào khác, vượt xa ngoài anh nhóc tì này, để nghĩ rằng một kẻ trong chúng ta, một gã cớm, lạy Chúa tôi, có thể liên quan đến cái đống xà bần kinh tởm này không?”
“Chiếc còng trên cổ tay của Tiffany là loại còng dùng trong ngành cảnh sát.”
“Có thể tìm mua ở bất cứ cửa hàng quân dụng nào,” ông Quận trưởng cảnh sát nói.
“Chắc chắn nó là tang vật có liên quan, đặc biệt khi dính dáng đến sự quan sát của Johnny.”
“Chúng ta đã xong phần thảo luận về sự quan sát của anh nhóc,” ông Cảnh sát trưởng nói.
“Có gì đó liên quan giữa cái còng trên tay của Tiffany Shore với nha cảnh
sát không?” Bộ dạng ông Quận trưởng cảnh sát không hề thay đổi. “Số hiệu dãy số? Bất cứ dấu tích gì?”
“Không.”
“Bất cứ cái gì ở hiện trường? Trong quá khứ của Jarvis? Trong chu vi bất động sản của gã?”
“Không. Nhưng ít nhất, anh nhóc đã xác định có một thành phần nguy hiểm cho đến giờ này vẫn còn lẩn tránh chưa bị khám phá. Hồ sơ cá nhân là chỗ hợp lý nhất để bắt đầu. Nếu cậu ta đúng, thì chúng ta sẽ loại trừ được một
phần tử nguy hiểm ra khỏi xã hội. Nếu cậu ta sai lầm, cũng không thiệt
thòi gì đến ai.”
“Không thiệt thòi gì? Lạy Chúa tôi, Hunt.” Ông
Cảnh sát trưởng xoè rộng bàn tay đầy thịt trên bàn. “Cho phép ông sưu
tra những hồ sơ đó sẽ chọc giận tất cả các nhân viên. Cá nhân tôi có thể vi phạm nhiều luật lệ về nhân sự. Đó là chưa kể đến vấn đề hình ảnh mà
Sở Cảnh sát chúng ta phải đương đầu khi chuyện này xì ra ngoài.”
“Chuyện này đã xảy ra rồi” Quận trưởng cảnh sát nói.
“Anh nhóc này khiến tôi bị nhìn như một con lừa trên truyền hình quốc gia,
và ông - người thám tử chỉ huy của tôi, cánh tay phải của tôi, hay là
vậy mà tôi được biết - ông đã lèo lái tôi, nha cảnh sát của tôi vào một
vụ kiện với gã doanh thương được tôn trọng bậc nhất của thành phố.”
Ông Cảnh sát trưởng đếm những điểm bị lôi ra toà trên đầu ngón tay ông.
“Cảnh sát hành hung. Quấy nhiễu. Cố ý gây áp lực tâm lý. Bắt giữ trái
phép. Còn gì khác nữa không? Tôi cũng sắp hết ngón tay rồi.”
“Có
thể ngoài kia một kẻ ấu dâm đeo bảng hành sự đang tự tung tự tác tại
quận hạt này. Đó là vấn đề, và hai ông nên lưu tâm vấn đề này. Làm ngơ
khả năng này sẽ đặt các em gái vào tình thế nguy hiểm hơn. Ông” - Hunt
nhấn mạnh chữ, nhắc lại - “ông sẽ đặt trẻ em vào tình trạng nguy hiểm
nhiều hơn.”
Ông Cảnh sát trưởng bật dậy khỏi ghế ngồi. “Nếu ông
nhắc lại bất cứ điều gì tương tự như vậy ở bên ngoài văn phòng này, tôi
sẽ tóm đuôi ông và đốt trụi nó.”
“Làm ngơ chuyện này sẽ không khiến nó tự biến mất đâu.”
“Đủ rồi.”
“Nếu thêm một đứa trẻ bị bắt cóc vì sự lo lắng của dư luận công chúng gây bất lợi cho chính quyền lợi cá nhân...”
“Tại sao chúng ta lại lắng tai nghe thằng cha mắc dịch này?” ông Trưởng ty
cảnh sát yêu cầu. “Nếu thêm một trẻ em gái nữa bị bắt cóc, đó là do sự
bất tài của gã. Đó là điều căn bản mà ai cũng biết. Nhìn gã đi, lạy Chúa tôi.”
Hunt nóng gáy và ông Cảnh sát trưởng cố gắng dàn xếp mọi
người ngồi xuống. “Gã Jarvis đã chết. Tiffany về nhà an toàn. Điều này
quan trọng hơn cả.”
Ông Trưởng ty cảnh sát cười vang. “Cảm ơn một đứa bé gái mười hai tuổi và một cậu nhóc mười ba tuổi.”
“Tôi sẽ lo chuyện của anh em chúng tôi,” ông Cảnh sát trưởng nói và nhìn
chằm chằm vào ông Trưởng ty cảnh sát. “Điều này rõ ràng chứ?”
Ông Trưởng ty cảnh sát trở về chỗ đứng của ông ta ở bờ tường và trỏ một
ngón tay vào Hunt. “Thì, ông nói với người hùng của ông là nên lo nhìn
kỹ vào trái bóng. Bởi vì tôi nghĩ ông ta sắp mất banh tới nơi rồi. Tôi
nghĩ ông ta đang cố gắng đánh bóng tên tuổi ngon lành hơn và lôi cổ
những cớm khác qua bãi bùn. Anh em tôi. Anh em ông. Chúng ta, tôi có thể nói chung là như vậy.”
Cảnh sát trưởng giơ một tay lên và nói với Hunt, cổ ông ta đỏ ửng khi nói.
“Chúng ta đã rõ ràng trong vấn đề cớm ấu dâm này rồi chứ? Tôi không muốn nghe thêm bất cứ một tiếng nào về chuyện này.”
“Tôi nghĩ lập trường của ông rõ ràng một cách rất đau khổ.”
“Tốt. Bởi vì ông nên điều tra về những gì liên quan đến cái chết của David
Wilson, Levi Freemantle, những thành phần giao du với Burton Jarvis.
Không bịa đặt. Không có thể. Được biết, như là sự thật. Nếu ai đó liên
quan tới Jarvis, đó là cách để tìm hắn ta. Tôi muốn tất cả những cây
đinh còn lỏng lẻo được đóng chặt xuống gỗ. Chúng tôi sẽ xem xét lại yêu
cầu giám định hồ sơ nhân sự cá nhân của ông chỉ khi nào Johnny Merrimon
quyết định nói về những gì cậu ta thấy.”
“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Trưởng ty cảnh sát thêm vào.
“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Cảnh sát trưởng đồng ý. “Cậu ta thấy gì. Làm sao
chuyện đó xảy ra. Tất cả những chuyện bình thường mà chúng ta, những
cảnh sát, muốn nghe trước khi kéo cò súng xuống vị trí bán sẵn sàng.
Điều này rõ chưa, thám tử?”
“Rõ.”
“Thế thì đi ra đi.”
Hunt không nhúc nhích. “Còn một chuyện nữa, tôi nghĩ.”
“Ông nghĩ?” ông Trưởng ty cảnh sát khinh khỉnh nói.
“Vụ án Freemantle.”
“Ông bắt được gã chưa?” ông Cảnh sát trưởng hỏi.
“Chưa.”
“Rồi giờ chuyện gì?”
“Chúng tôi đã xác định được thi thể: bạn gái của Freemantle và gã đàn ông có
lẽ ngủ chung giường với cô ta. Chúng tôi tin chắc Freemantle đã ra tay
hạ thủ. Không có dấu hiệu đột nhập vào nhà. Nhìn như vẻ nhanh-tiện-lợi.
Có thể tội ác do ghen tuông. Chúng tôi nghĩ ông ta vô tình phát hiện cả
hai khi trở về nhà.”
“Nhanh-tiện-lợi,” ông Quận trưởng cảnh sát nói. “Một chữ đao to búa lớn.”
“Freementle bỏ trốn khỏi đội lao động công ích sáng hôm đó. Có thể gã đã đi thẳng
về nhà và bắt quả tang đôi gian phu dâm phụ. Sĩ quan cải huấn của gã cho biết người bạn gái của gã gần như là gái mại dâm.”
“Được. Một vụ án ngon lành, gọn ghẽ. Tôi thích vậy.”
Hunt thở hắt ra. “Họ có với nhau một đứa con gái.”
“Và?” Cơ thể của ông Cảnh sát trưởng như bị thổi trương phồng lên.
“Cô bé ấy hiện giờ mất tích.”
“Không.” Ông Cảnh sát trưởng đứng lên. “Không phải thế.”
“Cái gì?”
Ông Cảnh sát trưởng giữ giọng bình lặng và cân bằng, nhưng ẩn bên trong là
sự cương quyết. “Chưa có ai làm tờ biên bản mất con. Không có ai gọi
điện yêu cầu chúng ta trợ giúp.”
“Điều đó đâu có nghĩa chuyện này không có thật.”
“Cô bé ấy rất có thể đang ở với họ hàng, ông bà, hay người dì. Levi
Freemantle có thể có một đứa con. Gã ta là cha, đúng không? Gã chưa mất
quyền nuôi dưỡng con.”
Thám tử Hunt giận dữ. “Ông sẽ làm ngơ chuyện này ư?”
“Làm ngơ cái gì?” Ông Cảnh sát trưởng trở bàn tay phẳng. “Đâu có gì để làm ngơ. Ở đây không có vụ án nào cả.”
“Tôi biết rõ,” Hunt nói.
“Ông biết rõ rồi à?” Sự xung đột kịch liệt dẫn đến mối đe dọa tàng ẩn.
“Không ai muốn thêm một đứa trẻ bị bắt cóc, vì thế ông nên chôn chuyện này đi. Ông chui đầu xuống cát và cứ giả bộ ngoài kia không có vấn đề gì hết.”
“Nếu mà ông nói thêm từ nào về một đứa trẻ bị bắt cóc...”
“Tôi cũng mệt mỏi với những lời de doạ của ông.”
Ông Trưởng ty cảnh sát đứng thẳng người. “Bao nhiêu thức ăn đó chưa bày đủ trên đĩa ăn của ông sao?”
“Tôi muốn hai ông suy nghĩ thật kỹ về chuyện này,” Hunt nói.
“Và nếu tôi không thì sao?”
Hunt nhìn về phía Quận trưởng cảnh sát và ông Cảnh sát trưởng. “Tôi nghĩ điều đó rất xấu cho tất cả chúng ta.”
Johnny theo về căn chung cư hai phòng ngủ của chú Steve. Nó như cái thùng rác, ngay cả từ bên ngoài. Ông Steve mở cửa và nhìn thẹn thùng. “Thế này
không sao chứ?” Ông ta hỏi.
Johnny ngửi mùi bia và quần áo dơ bẩn. “Không sao.”
Steve chỉ cho Johnny phòng của cậu và đóng cánh cửa khi Johnny yêu cầu. Căn
phòng có một chiếc giường đơn, một cái bàn và một chiếc đèn. Một tủ
đứng. Một tủ quần áo. Không gì khác. Johnny buông túi xuống và mở ra.
Cậu đặt bức ảnh chụp bố mẹ lên trên bàn, sau đó cởi áo và kiểm tra bông
băng. Nhiều vết đỏ thấm xuyên qua lằn băng chéo dài hai mươi phân. Nó là vết chém tệ nhất, nhưng vệt máu đã khô và Johnny đoán chừng sẽ không
sao. Cậu cài nút trở lại. Lúc hoàng hôn, Steve gọi đặt mua pizza và họ
vừa ngồi ăn vừa xem chương trình giải trí mà Steve giải thích là có tính giáo dục. Xong xuôi, Steve đặt hai tay lên hai đầu gối, vẻ lúng túng.
“Tôi có một người bạn gái...” Những ngón tay của ông ta vân vê lớp vải
trên chiếc quần sợi tổng hợp.
“Tôi sẽ ở trong phòng của tôi. Hoặc chú có thể đi ra ngoài chơi nếu chú thích. Tôi không bận tâm chuyện đó.”
“Đi ra ngoài chơi?”
“Ừ.”
“Còn Sở Xã hội thì sao?”
“Nếu họ đến, tôi sẽ không thèm mở cửa. Chúng ta có thể nói cả hai chúng ta đi ra ngoài ăn tối.”
Ông Steve nhìn cái điện thoại, rồi cánh cửa. Johnny tạo điều kiện dễ dàng
cho ông ta. “Tôi đã từng sống một mình quá nhiều lần. Chú không phải lo
lắng.”
Steve thở phào nhẹ nhõm. “Tôi chỉ đi khoảng vài tiếng đồng hồ thôi.”
“Tôi mười ba tuổi rồi.”
Steve đứng dậy và trỏ. Những móng tay nứt rạn của ông ta màu nâu. “Đừng lục lọi đồ đạc của tôi,” ông ta nói.
“Dĩ nhiên.”
“Và đừng để bất cứ ai vào trong này.”
Johnny gật đầu nghiêm trang và thấy chú Steve vẫn cần sự giúp đỡ. “Có lẽ tôi chỉ đọc sách thôi. Bài tập ở nhà, chú biết đấy.”
“Bài tập. Ý kiến hay.”
Steve rời khỏi nhà và Johnny quan sát ông ta ra tít tận đường cái. Sau đó cậu lục lọi tung đồ đạc của ông. Lớp lang, thứ tự. Cẩn thận. Cậu không cảm
thấy tội lỗi, không ăn năn. Nếu chú Steve bị ném đá hoặc say rượu,
Johnny muốn biết. Tương tự với súng, dao và cây gậy bóng chày.
Johnny muốn biết chúng ở đâu.
Nếu súng đã có đạn sẵn sàng.
Cậu tìm thấy rượu vodka trong tủ đá, một túi cần sa trong cái nồi hầm. Máy
tính được cài mật khẩu, tủ hồ sơ được khóa. Cậu phát hiện ra con dao săn trên sàn nhà trong phòng ngủ và một cuốn cẩm nang tình dục trên kệ. Một cánh cửa dẫn từ nhà bếp đến ga-ra, nơi cậu tìm thấy một chiếc xe bán
tải với những vỏ xe mòn nhẵn và nhiều vết lõm lỗ chỗ trên nền trắng bẩn
thỉu. Johnny đứng dưới ngọn đèn sáng và rà hai bàn tay dọc theo nắp
ca-pô, cái chắn bùn bị dính bùn đóng cứng. Chiếc xe tải cũ kỹ, te tua,
nhưng bánh xe còn hơi và kim đồng hồ xăng nhảy lên khỏi chốt khi cậu vặn chìa khóa kiểm tra lượng xăng. Cậu đứng trong ga-ra ngửi mùi và suy
nghĩ thật kỹ về những chuyện lẽ ra không nên làm; nhưng hai phút sau cậu đã ngồi trong cái bàn ở nhà bếp, chìa khoá xe bán tải trước mặt, cuốn
niêm giám điện thoại mở tung.
Chỉ có một danh mục có Levi Freemantle.
Johnny biết con đường đó.
Cậu cầm chìa khoá lên nhưng giật thót mình, nhảy dựng lên khi chuông điện
thoại reo. Đầu bên kia là mẹ cậu, và bà đang phát cuồng lên vì sợ hãi.
“Con vẫn ngoan đấy chứ?”
Johnny cầm chiếc chìa khoá lên, nghiêng nó trong ánh sáng đèn. “Dạ có.”
“Chuyện này chỉ tạm thời thôi, con yêu. Con cần phải tin điều đó.”
Johnny nghe một tiếng động qua đường dây điện thoại, một cú va chạm. “Con tin điều đó.”
“Mẹ yêu con, cưng ạ.”
“Con cũng yêu mẹ.” Thêm tiếng động.
“Mẹ phải cúp máy đây,” bà nói.
“Mẹ không sao chứ hả?”
“Ngoan nhé con trai.” Bà cúp máy.
Johnny nhìm chằm chằm cái điện thoại, rồi đặt nó xuống. Chiếc chìa khóa ấm nóng trong tay cậu.
Không ai cần phải biết.