Mặt trời lên cao gần
đọt cây khi Johnny lay nhẹ Jack bằng chân. Đống lửa đã tàn và xám xịt,
cái mền nặng trịch với sương đêm. “Đến giờ rồi,” Johnny nói.
Jack chớp mắt nhìn Johnny, cậu ta đã chỉnh tề áo quần và sẵn sàng. Hắn gãi cổ. “Tớ bị chúng nó ăn sống.”
“Tớ cũng vậy.” Johnny chìa ra một cánh tay và lôi Jack đứng dậy. “Muốn ăn cái gì lót dạ không?”
“Tụi mình có gì?”
“Xúc xích hộp hoặc bơ đậu phộng. Mình hết bánh mì rồi.”
“Còn nước nho lon không?”
“Không.”
Jack lắc đầu. “Tớ không ăn đâu.”
Johnny giũ bụi khỏi tấm mền, sau đó đứng tè bên trong căn nhà kho. Hai tay của cậu lem lấm đầy bồ hóng từ đống lửa. Cậu nghĩ về những chuyện linh
thiêng mà không hề linh thiêng chút nào, và cây súng nhét dưới áo
jacket. Cậu đã ngồi rất khuya, xoay khẩu súng theo vòng trái khế,
nghiêng nòng súng ngược lại với ánh sáng. Cậu xoa ngón tay cái ướt bên
hông cây súng, nhắm nòng vào đống lửa và cố gắng giữ vững đôi tay mình
dưới sức nặng của súng. Cậu nghĩ về Levi Freemantle và tự nhủ rằng cậu
biết mình đang làm trò gì, rồi quyết định chuyện đó cũng không là vấn
đề. Cuối cùng, chỉ có Jack là có sự lựa chọn.
“Cậu không phải đi với tớ.”
Jack nhún vai dưới cái áo jacket. “Cậu là bạn thân nhất của tớ.”
“Tớ nói thật đấy,” Johnny nói.
“Và tớ cũng vậy.”
Johnny nhét tấm mền vào trong cái túi, sau đó ghì chặt những cái đai. “Cám ơn, bạn J.”
“Đừng có trở thành gà mái là được.”
“Tớ không. Tớ chỉ nói vậy...”
“Tớ biết cậu nói gì.”
Johnny mở cánh cửa xe tải. “Sẵn sàng chưa?”
“Lên đường.”
Johnny lái xuyên qua cánh đồng trơ gốc rạ và dưới những tàng cây lớn. Ra khỏi
cánh rừng, họ đi qua cánh cổng, sau đó theo con đường hai làn xe đi về
hướng bắc đến vùng ven quận hạt. Johnny giữ tay lái trên những con đường cậu biết rõ, sau đó rẽ hướng đông, đi xuyên qua khu vực nhà tiền chế,
đến một con đường lạ dốc thoai thoải, xa dần thị xã và những nhóm gia cư bao quanh nó. Họ lái xe qua những ruộng nho và những bức tường đá, đi
thật sâu vào vùng đồng quê bát ngát đây đó vẫn còn những căn nhà to lớn
của thời kỳ nội chiến vươn cao trên những cánh đồng dập dờn. Một lần cậu dừng xe. Cậu so sánh bản đồ trong sách và bản đồ đường phố của Quận hạt Raven. “Cậu có biết bọn mình đang ở đâu không?” Jack hỏi.
Nhưng
Johnny không trả lời. Cậu trố mắt nhìn xuống con đường, sau đó lùi xe
vào một đoạn đường cũ, nứt nát trông càng ngày càng hẹp đi. Cậu kiểm tra bảng chỉ đường hai lần, sau đó rẽ trái vào con đường một làn xe đen
thẫm đổ dốc xuống khoảng vài dặm cho đến khi nó quặt hướng phải và kết
thúc bằng một con đường trải sỏi. Johnny dừng xe. Ngoại trừ những con
quạ đen đậu trên dây kẽm gai, không có thứ gì xung quanh chuyển dịch.
“Cậu ngửi thấy gì không?” Johnny hỏi.
“Không.”
“Con sông.
Nó chảy uốn khúc về hướng đông ngay ngoài vùng ven đô, sau đó cắt trở
lại. Tớ nghĩ bọn mình đang ở khoảng mười hai dặm về hướng bắc của thị
xã. Có thể chếch về hướng đông một chút.” Cậu chỉ xuống con đường đá
dăm. “Tớ nghĩ nó đây rồi.”
Jack nhìn xung quanh những cành cây, cánh đồng và tiếng gió thổi trong không gian yên lặng. “Cậu nghĩ đây là cái gì?”
“Để xem.” Johnny rẽ xe qua hướng phải và bánh xe bắn rào rào đá dăm. Đi xa
hơn khoảng nửa dặm, xe cậu vượt qua tấm bảng màu vàng ghi hàng chữ: CHẤM DỨT ĐỊA PHẬN TIỂU BANG. Ngay lập tức sau đó, rừng già phủ chụp tứ bề.
Mùi vị dòng sông gia tăng. Con đường lại rẽ lên hướng bắc một lần nữa.
Johnny chỉ về hướng phải. “Con sông phía bên kia. Tụi mình đang đi song
song.” Cậu lái xe khoảng một dặm nữa và qua cánh cổng đầu tiên. Cổng mở, nhưng bảng báo không thể nhầm lẫn. ĐẤT TƯ NHÂN. CẤM XÂM PHẠM.
Johnny phớt lờ.
Cánh cổng thứ hai đóng, nhưng không khoá. Nó là cánh cổng nhôm đã gỉ sét
theo thời gian, thõng ở giữa như thể bị một chiếc xe tải nào de lại và
va vào. Nó treo trên cây cột trụ làm bằng tuyết tùng, và một phần thấp
hơn của cánh cổng nằm tựa lên trên con đường nơi nó oằn xuống. “Mở cổng
ra!”
Jack phóng ra khỏi xe và kéo cánh cổng mở. Cỏ ở mép đường
cong rạp dưới nó, và Johnny lái chiếc xe đi qua cổng. Jack đóng cổng sau khi xe đi qua.
Họ lọt thỏm vào trong vùng nước mênh mông, thấy
con sông đen ngòm và chậm rì như dầu chảy, Johnny chỉ vào khoảnh đất cỏ
bị san phẳng nơi con sông tràn ngập bờ kè trong trận bão vừa qua. “Chỗ
này sẽ là đầm lầy.”
Con đường uốn cong xa dần với dòng sông, và
đầm lầy bắt đầu ép vào từ hai phía. Con đường nâng cao lên gần một mét,
cho đến khi nó là một dải đất cao trên nền đất mềm và nước đen ngòm sóng sánh ánh lên qua những thân cây. Johnny cua xe và tí xíu cán phải con
rùa nằm phơi nắng ở ngay giữa đường. Mai của nó rộng khoảng sáu mươi
phân chiều ngang, đen đúa, đầy rong tảo khô bám vào. Cậu bẻ lái tránh
con rùa và nó ngoác rộng cái mồm khi cả hai đã đi qua.
Con đường
dốc xuống một lần chót, sau đó vươn lên cao trở thành đoạn cầu dài bắc
ngang đầm lầy. Họ lái vào một nơi trống hoác, sau đó ngóc lên trên một
mô đất. Hai bên đường, nước hum húp kéo dài xa thăm thẳm, bề mặt phẳng
lỳ của nước bị làm hỏng bởi những cây đổ, một nửa chìm dưới nước, và
những bụi cỏ vươn lên khỏi mặt nước khi lòng đất vươn lên cao thành cồn. Phía bên kia cây cầu, đất khô bám chặt vào đầm lầy. Johnny dừng xe tải. Trước cồn đất, sỏi đá ít đi, rồi sau đó không còn nữa khi con đường chỉ còn lại vết xe cũ chằng chịt, đất đen cán ngang bãi lầy và biến mất
trong rừng thẳm. Những cành cây khổng lồ la đà trên mặt đất và những rễ
cái kéo dài như chiều cao một con người trước khi chìm vào lòng đất.
Johnny cho xe chạy vượt qua cây cầu bắc ngang đầm lầy, dừng lại ở cái thõm
cuối cùng có ánh nắng mặt trời và tắt máy xe. Không gian yên tĩnh, rồi
sau đó âm thanh của đầm lầy trở lại. Ban đầu là những tiếng nho nhỏ, rồi gia tăng như những nốt nhạc phát ra từ cây sáo. Ở ngay rìa nước, một
con cò đâm mỏ xuống vũng bùn rồi kéo lên trống trơn. Nó rình mò một
quãng, sau đó đứng chết trân, một con mắt ngó nghiêng nhìn xuống nước.
Hai anh con trai trèo ra khỏi xe tải. Johnny thấy tấm bảng từ đằng xa ba mét. Một nửa đã bị che phủ bởi cây kim ngân và những thứ dây leo kinh
hãi khác, dường như nó cũ kỹ như tất cả mọi thứ xung quanh, một tấm bảng qua năm tháng mưa gió cũ kỹ đóng đinh vào cái cây. Johnny giật bung
những đám dây leo. Chữ được khắc sâu vào trong gỗ, những vết cắt sâu,
đen ngòm như thể bị đốt cháy.
RỪNG VĨNH HẰNG, 1853.
“Nó là chỗ này.” Johnny lùi bước.
“Chỗ mà người ta xử giảo những người đó.”
“Chuyện đó đã lâu lắm rồi.”
“Chỗ này là chỗ chết, Johnny. Tụi mình không nên đến đây.”
“Đừng để sự tưởng tượng của cậu chạy trốn mất khỏi cậu.”
“Nó bay lên cao và biến mất rồi.”
Johnny lờ đi lời nói của cậu bạn một lúc lâu. Dây leo kim ngân tiết ra mùi
đường trong không khí, và cậu đặt hai ngón tay vào hàng chữ khắc đẽo thô nhám. “Chỉ là một địa danh,” Johnny nói dối. Con cò mổ trúng con ếch,
xé xác nó ra trong bùn đất. “Chỉ là một địa danh.”
Johnny lia một hòn đá và tạo những vòng sóng loang trên mặt nước đen thẫm. Con cò đập
cánh bay lên, con ếch vẫn ngọ nguậy tuyệt vọng trong mỏ con cò. “Cậu có
thực sự nghĩ ai đó sống ở ngoài này không?”
Johnny nhìn lên trên cao, xoay đầu. “Không có đường dây điện. Không dây điện thoại. Có thể là không.”
“Đó là tin tốt nhất mà tớ nghe được trong suốt ngày hôm nay.”
Johnny nhìn quanh dưới những tàng cây. Cậu di chuyển dưới các nhánh cây và cảm nhận được nhiệt độ đang hạ xuống. Tàng cây vươn lên cao như vương cung
thánh đường tĩnh lặng.
“Còn chiếc xe bán tải thì sao?”
Johnny quay nhìn trở lại. Thằng bạn cậu đang níu lấy ánh sáng mặt trời, một
bàn tay đặt trên vỏ kim loại nóng bỏng. “Quá ồn ào. Mình bỏ nó.”
“Thật sao?”
“Chứ sao nữa.”
Jack bước vào trong bóng râm. “Bây giờ thì yên lặng,” Johnny nói. Và cánh rừng nuốt chửng bọn họ.
Cớm đổ bộ xuống hiện trường nhà Jarvis: cớm thành phố, cớm quận hạt. Ai đó
nhắc nhở cục cảnh sát tiểu bang, nhưng Hunt bác bỏ đề nghị. Trong suốt
mười bảy năm, ông từng thấy toàn những tranh chấp và xâu xé khi quá
nhiều ngón tay thò vào cùng một cái bánh. Giữ nó là chuyện của địa
phương. Giữ chặt nó. Nhưng đến giờ phút này họ đã cắm bảy cây cờ, quá
tải với một văn phòng khám nghiệm y khoa địa phương. Bác sĩ Moore tiến
đến gần Hunt với ánh mắt buồn rầu, sự hồ hởi thường ngày tiêu tan. Ông
đeo găng tay bám dính đầy những thứ đen đúa. Đã gần hai giờ đồng hồ ông
đào bới qua nhiều tầng lớp đất chỉ ở một khu vực duy nhất, rồi đánh dấu
bằng cờ. Ông tìm thấy mẫu xương và răng, một ít mảnh vụn áo quần bị phân hủy. Hunt giữ tất cả mọi người ngoại trừ Yoakum ở một khoảng cách xa.
Họ đi quanh khu vực ngoài rìa, nói chuyện thì thào khi mặt trời leo cao.
“Bác sĩ.” Thám tử Hunt nhìn đầy nghi vấn.
Bác sĩ Moore lắc đầu, sau đó lau mặt bằng khăn tay dính đầy bùn đất. “Nó là một đứa trẻ,” ông nói. “Gái. Chín đến mười hai tuổi, tôi phỏng đoán như vậy.”
Hunt bắt được ánh mắt của Yoakum. “Bao lâu rồi?”
“Cô bé ấy chết bao lâu rồi?”
“Nhiều năm. Tôi chưa thể nói chắc chắn. Lúc này thì chưa.”
“Nguyên do tử vong?”
Vị bác sĩ co rụt người lại. Hai vai ông rũ xuống. Đôi môi trề xuống. “Có
một cái lỗ trên xương sọ.” Ông chỉ vào phần xương cong ngay đằng sau lỗ
tai. “Hiện giờ quá sớm để có thể nói nhiều hơn như vậy.”
“Súng bắn?” Yoakum hỏi. “Vật tày đập vào?”
“Cả hai. Hoặc có thể không phải cái nào. Hiện giờ quá sớm.”
“Còn những khu vực hiện trường khác thì sao?”
Bác sĩ Moore dõi ánh mắt buồn rầu nhìn những lá cờ đánh dấu. “Tôi cần thêm
trợ giúp. Tôi đã gọi giám đốc khám nghiệm tử thi ở Chapel Hill. Ông ta
đang biệt phái người đến.”
“Chúng tôi có thể làm gì khác cho ông?” Hunt hỏi.
Bác sĩ Moore hất đầu, chỉ về hướng những nhân viên công lực quy tụ ngoài vùng ven hiện trường. “Hãy mang họ đi hết chỗ khác.”
“Họ làm ông vướng chân bận tay?”
“Chẳng giúp ích được gì.”
Hunt gật đầu. Bác sĩ Moore nói đúng. “Tôi sẽ thi hành lời yêu cầu.”
“Cảm ơn.” Bác sĩ Moore giơ một tay lên, sau đó mệt nhọc lê bước trở về khu mộ.
“Muốn tôi làm chuyện đó không?” Yoakum hỏi, nhìn chằm vào Cảnh sát trưởng.
Hunt nhỉnh mép cười ruồi. “Bộ ông nghĩ tôi không dám sổ cựa với ông ta sao?”
“Tôi nghĩ ông ta đang tìm một cái cớ để bãi nhiệm ông và mang lực lượng cớm
tiểu bang vào. Điều đó sẽ giữ mọi chuyện êm đẹp, giải toả áp lực đè nặng lên ông ta, nha cảnh sát.” Yoakum quay về hướng cả cánh đồng đầy cờ
đánh dấu. “Không ai có thể khiển trách ông ta. Chuyện này lớn, quá lớn
để có thể giữ trong nội bộ địa phương. Ông là thám tử chỉ huy của ông
ta. Bãi nhiệm ông sẽ cho ông ta một cái cớ rất hợp lý để phủi tay và
mang vào Cục Điều Tra Tiểu bang SBI. Chính trị, Clyde. Một ngành doanh
nghiệp bỉ ổi. Ông nên để tôi ra nói chuyện với ông ta.”
“Không,”
Hunt trỏ tay về hướng bác sĩ khám nghiệm y khoa. “Ở yên tại đây. Hãy
chắc chắn ông bác sĩ nhận được bất cứ sự hỗ trợ cần thiết nào.”
”Đó là việc của ông.”
Hunt để Yoakum ở lại với những thi thể của các nạn nhân chưa biết danh tánh
và bước đến chỗ ông Cảnh sát trưởng. Da dẻ ông ta nhăn nheo và đỏ ửng.
Ngay tại cánh rừng, ngay tại hiện trường và ra ngoài những nơi chốn bình thường, ông ta nhìn càng giống một chính trị gia hơn là một ông cò. Khi Hunt bước lại gần, những sĩ quan cảnh sát mặc quân phục bước dạt ra tạo thành một lối đi. Ông Cảnh sát trưởng mở lời trước khi Hunt nói.
“Bên khám nghiệm y khoa nói những gì?”
Hunt nhìn từ ông Cảnh sát trưởng đến ông Trưởng ty cảnh sát quật hạt. Cả hai người đàn ông nhìn o ép khổ sở, và Hunt đoán chừng khuôn mặt của ông
cũng mang tâm trạng tương tự. Ký ức về cuộc gặp gỡ sau cùng giữa họ vẫn
còn làm cho bầu không khí ngột ngạt khó thở. “Ông bác sĩ muốn tất cả
những người này rời khỏi khu vực.”
“Tôi muốn nói về thi thể. Ông ta nói gì về chuyện đó?”
“Con gái. Chín đến mười hai tuổi. Thời gian và nguyên do tử vong chưa được xác định.”
“Có phải là Alyssa Merrimon?”
Hunt nhìn ông Trưởng ty cảnh sát và lắc đầu. “Thi thể này đã nằm dưới lòng đất nhiều năm.”
Ông Cảnh sát trưởng dõi mắt nhìn ngang vùng đầm lầy. Vùng da nhăn nheo dưới mắt bị kéo giật ngược trở lại tạo thành những vũng sâu hoắm. “Ngoài ấy
còn sáu tử thi nữa. Có thể chúng ta sẽ gặp may.”
“Tôi không gọi chuyện đó là may mắn,” Hunt nói.
Ông Trưởng ty cảnh sát khẽ nhếch mép. “Ông vẫn nghĩ sẽ tìm được cô bé còn sống.”
Hunt đáp trả bằng cái trừng mắt. “Có thể.”
Ông Trưởng ty cảnh sát nói: “Ông đúng là một Hướng đạo sinh, Hunt. Tôi thề trước Chúa.”
“Tôi đã chán ngấy với những...”
“Đủ rồi,” Cảnh sát trưởng nói. “Cả hai ông.”
Hunt buộc phải tạo một bộ dạng căng thẳng. “Ông sẽ cho phép tôi giải tán những người đó ra khỏi khu vực này chứ?”
Cảnh sát trưởng gật gù. “Giữ những ai ông cần giữ, yều cầu tất cả về đồn.”
“Tôi không cần bất cứ ai từ văn phòng Ty cảnh sát quận hạt.”
Hunt chờ phản ứng từ ông Trưởng ty cảnh sát. Căn nhà của Jarvis nằm bên
trong địa phận thành phố, nhưng ngoài này, tít tận trong rừng thẳm, họ
thực sự đang đứng trên ranh giới địa phận. Nếu ông ta muốn khoanh vùng
trách nhiệm, ông ta có thể. Ông Trưởng ty cảnh sát đi trước. “Perkins.”
Ông ta búng tay và một sĩ quan phụ tá lạ lẫm bước đến bên cạnh ông.
“Triệt thoái người chúng ta. Yêu cầu họ ra khỏi đây.” Ông ta mỉm cười
với Hunt, đẩy chiếc mũ ngược trở lại trên đầu, và nói giọng trầm tĩnh.
“Khi mà ông làm hỏng cuộc điều tra này và đã bị tống đi thật xa, tôi vẫn nắm quyền điều hành quận hạt này.”
“Khoan vội đếm gà trong chuồng.”
Thêm nụ cười lạnh lùng. “Một ngày vui vẻ, Thám tử.”
Hunt nhìn gã đi. Ông Cảnh sát trưởng đang chờ khi ông xoay lại, nhưng khuôn
mặt ông ta không có dấu hiệu oán hận như Hunt trông đợi. Thay vào đó,
ông ta nhìn ủ rũ, bực dọc. Ông ta cởi mũ khỏi đầu và lau tay áo ngang
vầng trán. Đầu ông ta chúi về hướng những lá cờ đánh dấu và nói nhẹ
nhàng. “Nếu những thi thể nọ đều là trẻ con...”
Ông đứt quãng. “Chúa cứu rỗi chúng ta.”
“Có thể Ngài đã làm vậy. Gã Jarvis đã chết.”
“Ông nghĩ Jarvis chủ mưu chuyện này?” Ông ta chỉ một lần nữa vào những lá cờ đánh dấu. “Tất cả những cái này?”
Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore bắt đầu khai quật địa điểm thứ hai. “Có thể.” Dừng một lúc. “Có thể ai đó giúp hắn ta.”
“Ông vẫn tin có một gã cớm liên quan đến vụ này?”
“Ông có biết chuyện con mèo chết không? Lời khuyến cáo đe dọa Johnny Merrimon không được nói?”
“Tôi biết.”
“Mẹ cậu ta nói là trước khi chuyện ấy xảy ra, bà ta trở về nhà từ bệnh viện và gặp một chiếc xe đậu gần nhà. Vào đêm khuya. Máy vẫn nổ. Gã ta chỉ
ngồi đó.”
“Không hề làm gì vi phạm pháp luật.”
“Ngoài đó
không có gì. Vài căn nhà, một dãy đường dài trống rỗng. Không có lý do
chính đáng gì để ai đó có mặt ngoài đó. Khi bà đến gần chiếc xe, nó
phóng vọt đi. Chuyện này xảy ra ngay sau khi Johnny được xác nhận trong
vụ án Burton Jarvis. Tên cậu ấy xuất hiện trên mọi tờ nhật báo, trên mọi băng tần truyền hình. Hình ảnh cậu ta, như ông biết. Cũng không khó
khăn gì lắm để tìm cậu ta.”
Ông Cảnh sát trưởng xoay lòng bàn tay, dáng bộ mất kiên nhẫn. “Vậy thì sao?”
“Bà ta nói nó giống như xe tuần tra cảnh sát.” Khuôn mặt ông Cảnh sát
trưởng chuyển màu, nhưng Hunt làm ngơ. “Ai đó mà Johnny thấy cùng với
Jarvis...”
“Nếu cậu ta thấy bất cứ ai.”
Hunt lên cao
giọng. “Ai đó mà Johnny thấy ngoài kia đủ đầu óc tỉnh táo gắn biển số
giả trên ô tô của hắn ta. Nếu tên cớm giấu giếm chuyện gì, đó là chuyện
gã ta sẽ phải làm.”
“Đó là chuyện bất cứ ai cũng làm.”
“Tôi muốn được phép sưu tra hồ sơ nhân viên.”
“Tôi không thể cho phép ông làm việc đó.”
“Tôi muốn ông suy xét lại.”
Ông Cảnh sát trưởng ngần ngại. “Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này.”
“Khi nào tôi sẽ biết?”
“Cho tôi một ngày. Được không? Cho tôi một ngày và một ít bình tâm trong đầu.”
“Tôi cần một vài thứ khác. Nếu đó là những thi thể dưới các cây cờ đánh dấu, và tất cả chúng đều là trẻ con...”
“Nói đi.”
“Không thể nào toàn bộ nạn nhân là người của quận hạt Raven. Không thể kéo dài một quãng thời gian hai thập kỷ.” Ông lắc đầu. “Chúng ta phải biết.”
“Đồng ý.”
“Tôi cần vài người liên lạc với những quận hạt xung quanh, những khu vực đô thị gần đây.”
Ông Cảnh sát trưởng đã gật gù. “Chúng ta cần tìm những đứa trẻ khác bị mất tích.”
Cả hai yên lặng, mỗi người mỗi suy nghĩ riêng tư. Hunt mường tượng hình
ảnh các bậc cha mẹ đau khổ bên trong những “bảo tàng” phòng ngủ, xung
quanh là những con thú màu hồng, quần áo đẹp, và những tấm ảnh lồng
trong khung bị phủ bụi. Ông hy vọng mang đến cho họ sự kết thúc chung
cuộc, một chút gì gọi là bình yên. Ông muốn mang những mảnh xương tàn
cốt nhục đó trở về nhà với cha mẹ của chúng, nói với họ con quỷ tác giả
của những chuyện động trời này đã đền mạng, bị tống cổ ra khỏi thế giới
đời sống này không phải bởi thời gian, bệnh tật, hay cảnh sát, mà bởi
một nạn nhân của hắn ta, một cô gái yếu đuối với đủ sức mạnh bóp cò cây
súng. Hunt tìm thấy chút thi vị trong đó. Có thể họ cũng tìm thấy. Suy
nghĩ của ông Cảnh sát trưởng đơn giản hơn. “Giới truyền thông sẽ tiêu
hóa những thứ này. Tôi mong ông sẽ đủ sức đương đầu với chuyện này.
Không xì tin ra ngoài. Không có nguồn trích dẫn vô danh. Giữ mồm miệng
mọi người. Khóa thật kỹ cái đống xà bần này.”
“Để Yoakum và hai cảnh sát ở đây. Tung vài đơn vị tuần tra trên đường làm nản lòng báo giới truyền thông hoặc ai đó tò mò.”
Ông Cảnh sát trưởng cau mày và dùng tay vuốt mồ hôi đổ trên trán. “Nó sẽ như một gánh xiếc.”
“Một lý do để yêu cầu mọi người ra khỏi nơi này.”
Hunt nghe tiếng chân người lại gần và xoay đầu đúng lúc nhìn thấy Cross di
chuyển nhanh chóng xuống triền đồi. Ông ta liếc sơ vùng đất cô lập, sau
đó đi thẳng đến chỗ Hunt và ông Cảnh sát trưởng. Khuôn mặt ông ửng đỏ,
cổ áo đen ướt đẫm mồ hôi. “Hunt,” ông nói. “Cảnh sát trưởng.” Ông ta hăm hở, kích động.
“Ông đang làm gì ở đây vậy?” Hunt hỏi.
“Đi tìm ông.”
“Thì, ông tìm được tôi rồi. Chuyện gì đó?”
“Chúng tôi có tin về vị trí chiếc xe tải của David Wilson,” ông ta nói.
“Ở đâu?”
“Hướng bắc. Vứt bỏ trong một khe vực.”
“Chỉ cho tôi thấy.”
Hunt bỏ ông Cảnh sát trưởng lại một mình trong khoảng không gian hình ống
với ánh nắng vàng rọi xuống, đầu cúi xuống, những ngón tay đang chỉnh
trang viền ngoài của chiếc mũ. Hunt ngoái đầu nhìn lại hai lần, dáng
hình ông Cảnh sát trưởng nhỏ và không thay đổi cho đến khi từng hàng cây san sát tưởng không bao giờ dứt ở hai bên đường hiện ra. Họ trèo ra
khỏi cánh rừng và đi quá cái chòi cùng căn nhà trống rỗng. Hunt không
buồn nhìn vào cả hai. “Làm thế nào chúng ta tìm được nó?”
“Ai đó gọi điện báo.”
“Ai?”
“Không cho biết danh tánh. Gã tìm thấy nó sáng sớm hôm nay, một giờ trước khi
mặt trời mọc, có thể. Giọng gã nghe như say rượu. Khi tôi hỏi, gã công
nhận rằng gã đi đêm rọi đèn nai. Gã nói rọi đèn vào và nó hiện lên rất
rõ.”
“Ta có người có mặt ở hiện trường chưa?”
“Tôi đến thẳng đây tìm ông. Tôi biết ông muốn nghe nó.”
“Chúng ta có chắc đó là chiếc xe tải của ông ấy?” Hunt hỏi.
“Người gọi điện có biển số xe. Đăng ký trong trường đại học. Phải là nó.”
“Ta có số điện thoại của người gọi không?”
“Điện thoại công cộng ở một cửa hàng tạp hóa.”
“Vậy thì quá tiếc. Có ý kiến gì về chuyện gã sờ mó chiếc xe tải không? Một
gã say rượu đi rọi nai lúc năm giờ sáng... Tôi ngờ rằng hắn ta do dự
cuỗm cái gì đó”.
“Không biết. Gã ta cho biết vị trí, sau đó cúp máy khi tôi đang nghe.”
Cả hai ra khỏi cánh rừng và bước vào vùng ánh sáng chan hòa của mặt trời
buổi sáng. Hunt dừng lại ở ngay mép đường. “Anh có thể gọi điện cho
tôi.”
“Tôi hy vọng ông sẽ cho phép tôi đi cùng.”
Hunt quan sát chàng trai trẻ. Khuôn mặt anh ta cương nghị, quyết chí. “Anh bạn đáo hạn thăng cấp. Điều đó đúng không?”
“Một lời nói châm chước từ ông sẽ giúp đỡ rất nhiều.”
Hunt trầm ngâm. “Tôi không được ngủ nhiều lắm,” ông nói. “Anh bạn lái xe đi.”