Bước ra khỏi phòng của Hội sinh viên, Sảnh chỉ muốn khóc to lên một hồi. Tuy bằng chứng đã rõ ràng nhưng Sảnh vẫn không thể tin Hinh thật sự có trục trặc về thần kinh.
Bao năm nay chưa từng thấy khổ sở thế này. Hồi nọ được tin Hinh phải nằm viện, Sảnh chỉ thấy kinh ngạc và bực tức – cô cho rằng họ chârn đoán sai, Âu Dương Sảnh này “ra quân” thì chắc chắn sẽ chứng minh được Hinh là người rất tỉnh táo. Nhưng mới chỉ sau một hồi lâu, thì “cán cân công lý” của cô đã lệch sang phía lẽ ra không nên lệch. Mà lại là do chính cô khui ra nó! Thật là chua chát.
Mới chỉ gần đây thôi, mình còn cười Du Thư Lượng trở nên đa sầu đa cảm, thì lúc này mình có gì khá hơn anh ta! Ôi, tại sao Diệp Hinh lại để cho những người xunh quanh cậu đều càng trở nên có chiều sâu hơn? Chỉ riêng cái gã Tạ Tốn đáng ghét…
Sảnh chợt nghĩ rằng chuyện Hinh có ảo giác không phải là vấn đề bệnh lý mà là một hiện tượng kinh dị nào đó, liệu có thể là thế chăng? Sảnh còn nhớ cái lần Hinh nói là sau khi cha Hinh bị liệt não, ông ấy đã đến trường thăm Hinh và để lại chiếc áo jăk-ket nữa. Nếu đúng là còn chiếc áo đó thật, thì chứng tỏ mọi chuyện Hinh đã gặp không hoàn toàn là ảo giác.
Sảnh bước vào phòng 405 đúng vào lúc các bạn đều đang có mặt. Trông thấy Sảnh, mọi người đều rất ngạc nhiên. Sảnh biết Chu Mẫn và Trần Hy là “quân chủ lực” đi “bắt” Diệp Hinh, cô định nói kháy mấy câu nhưng lại nghĩ rằng việc làm đó của họ lại có tác dụng khách quan là giúp đỡ Hinh, nên Sảnh lại thôi. Sảnh đành gượng cười với họ… rồi giơ hai tay như định ôm choàng Tần Hiểu Lôi.Nhớ là Sảnh vừa bị viêm gan A, Hiểu Lôi đờ người ra rồi kêu toáng lên, vì cô sợ là sẽ bị lây bệnh! Mọi người đều cười như nắc nẻ!
Nhưng ở đây lại vắng tiếng cười của Hinh.
Sảnh cụt hứng, đi đến bên giường Hinh đứng ngẩn ngơ một lúc.
Mắt cô bỗng sáng lên: một chiếc áo jắc-ket vải ni-lông gấp đặt ở đầu giường Hinh.
Sảnh cầm lên ngắm kỹ, đúng là chiếc áo nam giới thường dùng. Tất nhiên nó không thể là của Hinh – một cô gái luôn biết cách ăn mặc.
Có nghĩa là Hinh đã nhìn thấy linh hồn của cha thậ? Nếu không, thì chiếc áo jắc-ket này ở đâu ra?
Chỉ có cách giải thích duy nhất: Hinh đã tiếp xúc với hiện tượng phi vật chất. Vậy thì bao năm qua mình mãi mê với các câu chuyện thần kỳ quái đản cũng không phải là không có lý, các thế lực quái đản ấy lại đang xảy ra với người bạn thân nhất của mình. Thế thì còn phải nghi ngờ gì nữa.
Vậy tại sao mình vẫn còn bán tín bán nghi nữa chứ? Thì ra là – đúng như Hinh đã nói – mình chỉ là đứa giả vờ đam mê thôi ư?
Chuyện này chứng tỏ một điều: Diệp Hinh không ảo giác gì hết, Hinh đã nhìn thấy linh hồn, nhưng người khác thì không.
Không chỉ mình Hinh tiếp xúc với các nhân vật phi vật chất, trong cuốn nhật ký Hinh kể, chẳng phải anh chàng họ Tiêu đã từng cùng nghe nhạc giao hưởng với một đám linh hồn là sao?
Nghĩ đến “Nguyệt Quang xã”, Sảnh nhớ ngay đến nữ nhân vật chính Y Y trong cuốn nhật ký. Chị ấy giờ đây đang ở đâu? Và còn ông già gù kia nữa. Rành rành là hôm ấy Hinh đã nhìn thấy thảm cảnh bác Phùng bị xẻ thây, nhưng sau đấy lại được biết tối hôm đó bác Phùng không làm việc ở nhà giải phẩu, bác ấy bị xuất huyết não rồi nằm viện theo dõi. Sự việc này thì lại chứng tỏ Hinh bị ảo giác. Chính Hinh cũng thẳng thắn công nhận rằng, vì sau vài lần sợ hãi Hinh đã quá mệt cả thể xác lẫn tinh thần, rất có thể đã rối loạn tâm trí.
Bác Phùng đã làm việc lâu năm ở nhà giải phẩu, không thể không nghe nói đến “Nguyệt Quang xã”, chưa biết chừng, đó là nguyên nhân khiến bác ấy nhạy cảm trước hai chữ “ánh trăng” bác ấy nên cho biết đầu mối để tìm ra mối liên hệ giữa: “Nguyệt Quang xã” và “vụ án mưu sát 405”.
Nhưng bác ấy vẫn cứ ăn nói nữa vời, tại sao thế nhỉ?
14 h ngày 5 tháng 6
Cánh cửa bị gõ ầm ầm một hồi, nghe thấy bên trong có tiếng lạch cạch, rồi cửa hé ra một khe hẹp. Trông thấy Âu Dương Sảnh mặc bộ đồ trắng đứng ngoài cửa, ông Phùng ngán ngẩm kêu trời, vội đóng cửa luôn nhưng Sảnh nhanh mắt nhanh tay đã “trấn” ngay, ra sức đẩy cửa rồi lách vào luôn.
Sảnh vào nhà, cô hết sức ngạc nhiên. Nhà ông Phùng ở trong một con hẻm cũ kỹ, ba hộ chung nhau một cái sân. Nhìn bên ngoài, thấy căn nhà cấp 4 hướng bắc thấp lè tè, tường gạch lở lói lem nhem mái hiên thì thiếu ngói… có vẻ như rất dễ bị Sở Xây dựng cho san ủi cho khuất mắt! Nhưng bên trong thì lại rất trang nhã: chỉ có rất ít đồ dùng, nhưng toàn là đồ Tây ngày xa xưa. Chiếc giường được chạm trổ sơn đen, chiếc tủ lớn bằng gổ phong màu đỏ xẫm, chiếc đồng hồ chuông kiểu cũ… Sảnh nhớ là mình hay nhìn thấy trong phim bối cảnh là những năm 30-40. Trên tường treo hai bức tranh sơn dầu, Sảnh không biết đánh giá, chỉ nhận ra rằng chúng rất “có phong cách”.
Một thứ thu hút Sảnh nhiều hơn, là chiếc máy quay đĩa kiểu cũ đặt trên một chiếc bàn nhỏ, nắp đang mở lên, thấy có một đĩa hát trong đó. Cả máy hát lẫn đĩa hát đều sạch bóng, không gợn chút bụi, rõ ràng là mới đây vừa cho máy chạy.
“Thật không ngờ bác lại có những sở thích tao nhã thế này!”. Sảnh tấm tắc khen ngợi.
“Kìa, nói gì thế? Ý cô là trông người tôi rất thô kệch phải không?” Ông Phùng nói chẳng mặn nồng gì, ông đứng ở cửa, có vẻ như sẵn sàng “tiễn khách”.
“Bác nhạy cảm quá thì phải, cháu không có ý đó a. Cháu ăn nói vụng về, mong bác bỏ quá cho”.
“Tại sao cô lại tìm đến tận đây?”
“Hồi nọ bác phải đi viện, nằm ở bệnh viện trực thuộc số 2 thì phải. Rất là không đúng lúc, vì mẹ cháu là bác sĩ ở đó… Nhưng cháu biết, chẳng nên dò hỏi chuỵên riêng của người khác, cũng không nên làm phiền bác đang dưỡng bệnh, nhưng cháu bí quá, cháu rẩt cần bác giúp đỡ. Vả lại… cháu biết rằng bác có bị xuất huyết gì gì đâu, cháu đã đọc bệnh án của bác, bác cứ đòi nằm viện ít hôm, rồi xét nghiệm một lô một lốc, kết quả là chẳng có vấn đề gì, đúng không ạ? Tuy nhiên bác vẫn là có chừng mực, chỉ cần nghỉ phép vài hôm thế thôi, cháu nói không sai chứ ạ?”
“Cô là người của công an à? Sao cô “bao sân” lắm việc thế? Mấy điều cô vừa nói đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật cho phép, cô định làm gì nào?”. Nghĩ rằng cô này đến chẳng hay ho gì, ông Phùng càng có ý muốn đuổi khách.
“Tại sao bác lại nghỉ ốm vào đúng dịp này? Cháu không có ý nói là bác không được phép nghỉ ốm – nhưng nghỉ vào dịp này thì rất không bình thường. Cháu đã xem hồ sơ bệnh án của bác, và rất ngạc nhiên: bác đã cao tuổi thế này, nhưng gần 20 năm qua hầu như chẳng nghỉ ốm bao giờ. Tất nhiên cũng vì có thể lực tốt, và vì có nhiệt tình công tác nữa.
Từ 20 năm nay, đây là lần đầu tiên bác bị ốm. Tại sao 20 năm luôn khỏe mạnh, mà nay lại “ốm” đúng vào dịp này? Và cũng thật là khéo: hôm trước bác đi viện thì hôm sau Diệp Hinh phải vào nằm viện tâm thần. Tối hôm trước thì Hinh vào phòng chuẩn bị công tác của bác, rồi có ảo giác nhìn thấy bác bị…. Thôi cháu không nói nữa, kẻo bác lại sợ!” Sảnh tưởng tượng tới cái cảnh ấy, cô cũng thấy lành lạnh sau gáy.
“Muốn nói hay không thì tùy, cô nghĩ xem tôi sống bằng nghề gì?”
“Vâng, cháu xin nói: Diệp Hinh nhìn thấy bác đang bị máy cưa xẻ thây!”
Nói xong Sảnh nhìn chằm chằm vào ông Phùng, cô muốn nhận ra một dấu hiệu gì đó trên nét mặt ông. Nhưng ông Phùng vẫn thản nhiên không thể hiện một điều gì.
“Được! Cảm ơn cô đã vất vả đi đến tận đây để cho tôi biết. Tạm biệt!”. Ông Phùng chính thức mời Sảnh ra về!
“Cháu có một việc nghiêm túc còn chưa hỏi bác, bác có thể nói lại chuyện “Nguyệt Quang xã” không? Cháu cũng đã biết: nói chuyện về nó, và quan hệ giữa nó và “vụ án mưu sát 405” là thế nào?”
“Tôi là kỹ thuật viên, tôi chỉ biết hành hạ xác chết, còn các chuyện khác đều không biết”.
“Không thể như vậy. Trong khoảng 10 năm, các hội viên “Nguyệt Quang xã” đều lần lượt nhảy lầu bỏ mạng. Họ đều có di chúc xin hiến xác cho phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu của trường. Bác đã làm việc ở phòng giải phẩu này từ những năm 50, sao lại không biết về “Nguyệt Quang xã” cơ chứ? Cháu còn nhớ lần đầu vào nhà giải phẩu, Diệp Hinh đang mơ hồ nhắc đến hai chử “ánh trăng”, tại sao bác lại chợt biến sắc mặt? Sau đó bác gượng gạo giải thích, lúc đó bọn cháu không để ý, nên đã nghe bác nói quấy quá như thế. Chắc chắn bác phải biết nhiều chuyện, sao bác không kể cho bọn cháu nghe với?”
“Một là, tôi chẳng biết gì nhiều, thậm chí các cô còn biết nhiều hơn tôi. Thứ hai là, các cô cũng chẳng nên biết thêm nữa. Cô còn cần tôi nhắc hay sao? Cô thấy rồi: cô bạn cô đã biết không ít chuyện, nhưng hiện nay thế nào rồi?”
“Nhưng nếu được bác giúp đỡ thì…”
“Tôi có cảm giác rằng nếu tôi nói thêm gì nữa, thì sẽ là đưa cô ta vào ngõ cụt, tôi không gánh nổi cái tội lỗi này! Cô cũng đừng ép tôi, tôi không biết “Nguyệt Quang xã” và “vụ mưu sát 405” có liên quan gì. Mà nếu biết, thì điều đầu tiên tôi làm là đi báo công an, chứ đâu phải chờ cô đến hỏi tôi vào lúc này, đâu có chuyện tôi giương mắt ra nhìn các nữ sinh ấy lần lượt ra đi!” Ông Phùng càng nói càng xúc động, ông rớm nước mắt, bùi ngùi thương cảm.
Sảnh biết ông Phùng còn có những điều muốn giấu kín, nhưng có lẽ hôm nay thì không hòng gì ông sẽ cho biết. Nhưng cô vẫn chưa chịu thôi, nên lại hỏi: “Thế thì bác thử cho cháu biết tại sao bác lại cáo ốm trong dịp này? Bác có ý tránh né? Tránh né những câu hỏi mà bác không muốn trả lời!” Ông Phùng ngẩn người, thoáng nghỉ ngợi, rồi thở dài: “Thôi được! Cô hăm tôi khiếp quá. Tôi cho cô biết vậy: những hôm đó tôi không dám đi làm, vì tôi sợ!”
“Sao lại thế? Lại còn thứ gì có thể hù dọa được bác sao?”
“Tất nhiên có chứ! Riêng cô đã khiến tôi phải sợ rồi! Chuyện là thế này: một buổi tối tôi đang chế tác tiêu bản trong phòng – cô đã biết khi làm việc tôi thường không bật đèn – tôi bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa nhè nhẹ, rồi hình như cửa bị mở ra. Tôi cho rằng có lẽ lại là các sinh viên tinh nghịch như kiểu các cô, nên hỏi luôn “ai đấy”? nhưng không có tiếng trả lời. Tôi ra cửa xem sao, thì thấy cánh cửa vẫn còn rung rung nhưng không thấy ai hết.
Hôm sau, lúc đang làm việc lại nghe thấy tiếng gõ cửa. Lần này tôi im lặng, thì lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ vọng từ phía cửa vào toà nhà. Những tiếng kít kít lẹt xẹt nghe rất kinh! Tôi đánh bạo chạy ra, thì vẫn không nhìn thấy gì hết, cánh cửa lại cũng đang đung đưa, rõ ràng là có người vừa ra khỏi nhà. Tiếc rằng chân tôi yếu, khi lạch bạch ra được bên ngoài, thì đã chẳng thấy ma nào.
Từ sau đó, âm thanh kỳ quái đó còn xuất hiện nhiều lần. Nó hành hạ tôi mấy đêm, thần kinh tôi thì yếu, cả đêm cứ nơm nớp. Tôi sợ rằng mình đã làm ở nhà giải phẩu đã lâu năm nên sinh ra ảo giác, huyết áp lại hơi cao, cho nên tôi bịa ra bệnh, thực ra chỉ là vì muốn nghỉ vài hôm”.
Sảnh nghĩ bụng: chi tiết này rẩt quan trọng, mình phải bắt tay vào từ đây mới được.
Sao vẫn chưa thấy đến nhỉ?
Hay là bác Phùng lòe mình?
Sảnh núp trong bụi cây thấp, đối diện hơi chếch với nhà giải phẩu, căng mắt nhìn vào cửa khu nhà. Sảnh đã mặc quần dài, áo dài tay và phun thuốc diệt muỗi vào người, nhưng suốt một giờ qua đàn muỗi ngoan cố vẫn cứ “được” cô cho ăn no nê. Bác Phùng nói là kẻ bí hiểm ấy ra vào qua lối cửa, cô vốn định vào trong nhà để “cung kính đón” hắn, nhưng chỉ có một thân một mình nên lại sợ, bèn đứng ngoài này quan sát đã; cũng là để tránh đánh động hắn, thậm chí đề phòng bị hắn làm hại.
Sảnh đang quá sốt ruột thì bỗng nghe thấy những tiếng “sột soạt” vọng đến. Sảnh giơ tay nhìn đồng hồ dạ quang lúc này xấp xỉ 12 rưỡi đêm. Ngước mắt nhìn ra, thấy một bóng đen đang mon men từ phía nam khu nhà đi đến cửa phía bắc, bước đi rất chậm, hình như mang theo vật gì nặng. Hắn sắp đến cửa khu nhà, Sảnh đã nhìn rõ: dáng người cao gầy, mặc toàn đồ đen, đầu đội mũ liền áo, nhưng mặt thì bịt kín không sao nhìn ra. Trông cực giống các vai sứ giả thần chết thường thấy trong các phim kinh dị mà Sảnh đã xem. Có lẽ tiếng sột soạt là tiếng do quần áo cọ xát. Điều lạ lùng là hắn đang nửa vác nửa kéo một cái bao đen rất to, dài đến hai mét, hình như rất nặng.
Sảnh bỗng nhớ lại tiếng bước chân bác Phùng vác tử thi năm ngoái mà cô nghe thấy. Người này chân bưpức nhanh nhẹn hơn nhưng vẫn là đang mang theo vật nặng. Nếu đúng là hắn vào nhà giải phẫu thì trong cái bao đen kia là thứ gì?
Xác chết? Hay là các phần cảu xác chết? Sảnh vẫn không sao đoán ra được là thứ gì hợp lý. Liệu có phải hắn là con quỷ nghiện xác chết trong truyền thuyết?
Quả nhiên bóng đen ấy đứng lại trước cửa nhà giải phẫu, rồi bước lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào rồi khép cửa lại.
Mình có nên vào theo xem ra sao không?
Cứ với bản tính của mình thì Sảnh nhất định sẽ vào xem, nhưng cô lại thấy mọi chuyệnnày kỳ quái quá bí hiểm nên lại nghĩ ngược lại, không nên manh động mạo hiểm. Một nhà trinh thám cừ khôi phải can đảm nhưng cũng rất nên thận trọng.
Nhưng rồi sảnh vẫn không nén nổi liền lò dò đến cửa, ghé tai nghe ngóng. Quả nhiên nghe thấy tiếng “kít kít” kéo dài, đúng như bác Phùng đã miêu tả.
Nếu mình đẩy cửa vào, chưa biết chừng sẽ biết rõ tất cả. Nhưng Sảnh lại nghĩ ra một kế hoạch hay hơn, nếu buộc phải chạm trán trong đó, thì chi bằng mình cứ chờ hắn ra rồi bám theo.
Sảnh quay lại chỗ bụi cây chờ đợi chừng nửa giờ. Cửa đã mở ra, bóng đen ấy ra, và kéo theo cái bao to. Thấy hắn đi về phía nam khu nhà, Sảnh bèn rón rén bước theo. Vậy là cái chuyện lạ lùng khó tưởng tượng ấy đã xảy ra, bóng đen đi về phía nam khu nhà, không đi thẳng nữa mà là bước lên cầu thang lộ thiên.
10h ngày 6 tháng 6
“Gì cơ? Là Chương Vân Côn? Sao lại có thể như vậy được?” Nghe Sảnh kể xong đầu đuôi sự việc đem qua, Hinh lập tức nhớ lại một số lần tiếp xúc với Vân côn, nghĩ xem có gì đáng ngờ ngợ không. Kết quả thật bất ngờ, lần nào xuất hiện hình như anh ta cũng có vẻ kỳ lạ.
Sau khi nghe Hinh kể lại việc trông thấy một tiêu bản cơ thể thần kỳ, thì hai người đi đến gian nhà nhỏ đặt tiêu bản ấy, bỗng Hinh thấy nhức đầu ghê gớm, khi tỉnh lại thì cô thấy mình nằm ở phòng y tế. Ít lâu sau, Hinh được tin cha mất, cô thấy đầu óc rối bời, bèn đi lan man trong trường, thì lại chạm trán Vân Côn. Hôm đến tìm bác Phùng thì anh ta bỗng xuất hiện sau lưng cô từ lúc nào. Sau đó là cái đêm kinh hoàng ở trạm phát thanh, sau khi Vân côn đến nơi thì âm thanh quái ác kia biến mất. Về sau, khi cô có ảo giác về cảnh tượng bác Phùng bị xé thây thì anh ta đang ở gần đó.
Phải chăng anh ta là góc rễ của tất cả mọi chuyện? Anh ta chính là lời giải của “vụ án mưu sát 405”?
“Điều quan trọng là cần điều tra rõ anh ta đang làm gì?” Sảnh thấy sự liên tưởng của Hinh rất có lý, nó càng củng cố kế hoạch tối nay của cô.
“Nhưng một mình cậu thì điều tra gì được? Lỡ bị làm hại thì sao? Có lẽ nên nói với phòng bảo vệ đã?”
“Lúc này chúng ta chưa có một bằng chứng gì, nếu đến báo cáo thì khác nào đánh động cho đối phương biết?”
“Cậu yên tâm, tớ biết tự bảo vệ mình – ít ra cũng chuẩn bị đầy đủ “thuốc chống yêu râu xanh”. Cậu cứ chịu khó nghỉ ngơi đi, sớm muộn gì thì cũng sẽ ra viện”. Sảnh an ủi Hinh, nhưng cô vẫn thấy buồn, chẳng biết nên nói như thế nào với Hinh về chuyện phát hiện ra Tạ Tốn. Nên nói gì? Nói là “Hinh ạ, cái gọi là tình yêu của cậu chỉ là một ảo giác mà thôi” hay nói là “hình như cậu bị tâm thần phân liệt thật rồi”?
Nhưng nếu tất cả đều là do Chương Vân Côn dàn dựng, thì phải giải thích ảo giác của Hinh về Tạ tốn thế nào đây? Có lẽ đó chỉ là trò dối trá quái dị do Vân Côn tạo ra để nhiễu thần trí của Hinh. Có lẽ, mục đích cuối cùng của anh ta là giết người!
Các ý nghĩ này lặp đi lặp lại mãi trong đầu Sảnh suốt gần một ngày, cho đến lúc cô đã “vũ trang đầy đủ” và ngồi nấp trong ủt đựng dụng cụ của ông Phùng.
Sảnh từng đọc rất nhiều sách “lạc dòng” phân tích về ma quỷ, cô đã rút ra được khôn gít “trí tuệ” trong đó. Ví dụ, ma quỷ thường sợ các “tàn tích” của các con vật, cho nên người ta mới rất hay dùng máu chó để làm phép trừ tà ma. Tiếp tục suy rộng ra, tức là ma quỷ không thể xâm nhập vào da các con vật. Cho nên teong cái đêm mùa hạ này, Sảnh đã trang bị áo bludông da, quần da, mũ da, găng tay da và đi giày da. Lúc này khắp người sảnh mồ hôi nhơm nhớp. Túi áo có mấy ghi âm mini và máy ảnh, một tay cầm đèn pin, tay kia cầm thuốc chống yêu râu xag, sẵn sàng xuất kích.
Đồng hồ dạ quang chỉ đúng 12 giờ rưỡi, quả nhiên nghe thấy tiếng mở cửa khe khẽ.
Sảnh hơi đẩy cửa tủ ra, dỏng tai lắng nghe. Tiếng xột xoạt và kít kít đã nghe khá rõ. Mình có nên nhòm xem sao không? Sảnh ấn nút máy ghi âm, đang chuẩn bị ra khỏi tủ thì chợt nghĩ “gay rồi”, vì tiếng “kít kít” đang phát ra ở ngay ngoài cửa phòng!
Cô vội lui về ngồi im, rồi lại lắng nghe tiếng “kít kít” hình như đang loanh quanh ngoài cửam chắc là Vân Côn đang do dự suy tính xem có nên vào hay không.
“Loanh quanh” như thế chừng một phút, nhưng với Sảnh thì tưởng như dài đến một năm. Sảnh thầm nguyền rủa – dù Vân côn là người hay ma, thì vẫn chỉ là gã nhu nhược thiếu quyết đoán. Nhưng có lẽ chỉ một gã như thế này thì mới có thể làm việc rất kín kẽ, giết người êm như ru mà không thể bị vạch trần.
Tiếng động quái dị đã tiến vào phòng.
Sảnh thầm nhắc đi nhắc lại mình: bình tĩnh, bình tĩnh, mình có duyên với ma, dù nó là ma lành ma dữ thì cũng sẽ không hại mình.
Nhưng nếu hắn là người thì sao?
Sảnh bỗng nhớ đến câu nói của bác Phùng ngày nào: “Xưa nay kẻ gây lắm tội nhất là người, chứ không phải là ma”.
Sảnh định hé cửa tủ ra dù chỉ là một khe nhỏ để nhòm cảnh tượng trong phòng, nhưng cô không có cơ hội này, vì hình như tiếng “kít kít” đang tiến đến cái tủ.
Thì ra hắn đã biết mình đang ở trong này.
Mồ hôi vã ra, chảy ròng ròng từ má xuống cổ, Sảnh dường như ngừng thở. Cô run run giơ hai tay, chuẩn bị thực thi chiến thuật, hễ cửa tủ bị mở thì bật đèn pin chiếu thẳng vào mặt Vân Côn, và phun ngay hộp thuốc xịt “chống yêu râu xanh”.
Tiếng “kít kít” đã đi đến trước tủ, rồi lại ngập ngừng tiến lui, hình như đang đắn đo có nên mở cửa tủ hay không?
Sảnh không rõ mình còn có thể chịu đựng nổi cảnh tra tấn này bao lâu nữa, chằng lẽ đây là chiến thuật hành hạ của Vân côn?
Nếu đúng thế thì chiến thuật này đang thành công, vì Sảnh cảm thấy bộ não mình đang cực kỳ thiếu ôxy, đã mấp mé ngưỡng tan rã.
Có lẽ Vân côn đã bỡn cợt Sảnh bị khốn đốn trong tủ như thế là đủ rồi, nên từ từ mở cửa tủ ra.
Sảnh vội bấm đèn pin và xịt thuốc luôn.
Ôi! Đèn pin thì không chiếu vào mặt Vân Côn, thuốc chống yêu râu xanh cũng xịt không trúng mắt Vân côn, mùi thuốc cay xè bay khắp căn phòng khiến chính Sảnh bị hắt hơi.
Lại có ánh đèn pin sáng lên, nhưng chiếu thằng vào mặt Sảnh, Vân Côn quát to: “Cô là ai? Đang làm gì ở đây? Thật là quá đáng, quá đàng! Cô làm tôi phát hoảng lên!”
Sảnh không thấy giọng có vẻ là ma dữ hay ác quỷ, chỉ là giọng nói của một thanh niên đang khiếp hãi mà thôi, cô thấy yên tâm ngay. Nhờ ánh đèn pin, Sảnh thấy Vân Côn đứng hơi xa, tay cầm một chiếc gậy dài, đầu gậy treo một cái mặt đồng hồ tròn, chính cái này phát ra tiếng “kít kít”.
“Chính anh quá đáng thì có! Đêm nào cũng chạy đến đây làm trò ma!”
“Sao cô biết tôi đêm nào cũng đến?… Cô là ai?” Rõ ràng Vân côn còn kinh ngạc hơn cả Sảnh.
Lúc này, bằng cái “khứu giá ma quỷ” của mình, Sảnh gần như loại trừ khả năng Vân Côn là gã quái dị. Cô đang đinh trả lời thì đèn trong phòng bỗng bật sáng, khiến cả hau đều giật mình,
Ông Phùng đã đứng ngay ở cửa phòng.
“Vẫn ổn, vẫn chưa muôn”. Ông Phùng thở phào.
Sảnh ngớ ra, nhưng cô hiểu ngay: “Sao lại chưa muộn? Nếu thầy Côn mà là kẻ xấu thì cháu đã đi đời rồi. Bác tính toán tài quá, bác cho cháu biết tin, tức là bảo cháu làm con chim mồi nhử thầy Côn ra! Đây là những chuyện kỳ cục gì vậy?”
“Đương nhiên tôi chẳng ngại chạm trán thầy Côn, có điều là thầy Côn đã thừa biết quy luật hoạt động của tôi, tôi vẫn công khai như thế thì làm gì có đối thủ? Cho nên chỉ còn cách nhờ đến cô bé tinh quái to gan giúp cho. Tôi mong thầy Côn sẽ giải thích xem, thế này là làm sao?”
Vân Côn nhìn chằm chằm Sảnh: “Bạn này là…”
“Em là Âu Dương Sảnh, bạn thân của Diệp Hinh. Vừa rồi em bị viêm gan nên vẫn phải nghỉ ở nhà, đến nay vẫn chưa chính thức trở lại học!”
“Thì ra bạn là Âu Dương Sảnh – xin chào bạn! Thảo nào mà…” Vân Côn như có điều gì nghĩ ngợi. “Vậy là bạn cũng như tôi, chúng ta cùng nghi ngờ “vụ án mưu sát 405” có liên quan đến khu nhà giải phẫu này”. Anh lại nhìn sang ông Phùng.
Ông Phùng hừ một tiếng: “Thầy nhìn tôi làm gì? Tôi thực sự không hiểu hai người đang nói gì. Thầy Côn thử nói xem, đêm hôm thầy vác cái thứ đồ nghề này đến đây làm gì?”
Vân Côn thở dài, nét mặt bỗng trở nên buồn bã, anh cúi đầu im lặng một hồi, rồi ngẩng lên nói: “Chuyên dài lắm, chuyện dài – chẳng thể nói gọn trong mấy câu. Nhất là… đang có mặt Sảnh.. Tôi xin nói là tôi có việc rất gấp. Thế này vậy, hai vị cùng lên phòng làm việc của tôi ngồi chơi rồi nói chuyện. Tôi nói xong, thì bác Phùng có thể bổ sung gì đó… xin cứ nói thẳng thắn!”
Cả ba ra khỏi khu nhà, đi về phía nam, đi cầu thang lộ thiên lên tầng hai. Vân Côn mời hai người vào phòng của anh, rồi khép cửa lại.
Sảnh đã nhìn thấy ngay chiếc khung ảnh đặt trên bàn viết có lồng bức ảnh đen trắng của một thiếu nữ, cô “ơ” lên một tiếng.
“Sao thế?” Vân Côn nhìn thấy sắc mặt sảnh cso vẻ khác thường.
“Em có thể mở đầu nội dung mà thầy Côn định nói”. Sảnh lim dim mắt, đôi môi nhỏ xinh hình như đang lẩm bẩm… rồi cô nói “đúng là thế”. Sảnh mở to mắt nhìn thẳng vào Vân Côn: “Cô gái xinh đẹp này tên là Nghê na, là bạn gái ngày trước của thầy đúng không ạ?”
Vân Côn kinh ngạc: “Tại sao cô lại biết được?” Anh lại thở dài: “Thật đáng tiếc, chuyện này đã rất lâu rồi…”
Sảnh đưa mắt nhìn xuống: “Xin lỗi, em đã nhắc đến chuyện không vui của thầy, Em biết sự việc bất hạnh này xảy ra vào sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1984, chị ấy đã nhảy lầu. Thầy rất đau buồn, và đã thề sẽ tìm ra sự thật về “vụ án mưu sát 405”. Thầy đã rất gian khổ tìm kiếm mọi dấu vết. đau đáu hồi ức về mùa xuân năm đó xem là rốt cuộc đã có sai sót gì”.
Vân Côn cực kỳ ngạc nhiên nhìn Sảnh, càng nghĩ càng thấy sờ sợ, anh đứng lên chỉ tay vào Sảnh hỏi: “Bạn.. thực ra bạn là ai…?”
“Cô ta là người thành tin! Từ năm ngoái tôi đã biết rồi”. Ông Phùng nói khấp khởi và khoái trá.
“Không dám ạ! Chẳng qua là vì em đã điều tra rất tỷ mỉ đó thôi. Mối quan hệ giữa thầy và Nghê Na là do em suy luận ra. Em luôn rất có hứng thú với “vụ án mưu sát 405” nhưng em làm gì có đủ tài để giở từng tấm ảnh cua các cô gái là nạn nhân của vụ “405” này, cho nên chỉ có thể lợi dụng các tư liệu hiện có. Phòng quản lý sinh viên thường lưu trữ các bức ảnh chụp chung của các sinh viên mới, em nhờ thấy giáo ở đó cho xem bức ảnh năm 1983 và em đã nhận ra Nghê Na. Hôm nay thấy bức ảnh này trên bàn, thì em đoán ra mối quan hệ ngày đó của hai người. Thầy đã giữ bức ảnh này ngần ấy năm, chứng tỏ thầy đã nhớ nhung da diết. Em cũng có thể tưởng tượng được nỗi đau khô của thầy năm đó”.
“Cho đến giờ tôi vẫn chẳng hề nguôi”. Đôi mắt Vân Côn đỏ hoe. “Nhất là, những năm qua, năm nào cũng có một nữ sinh đi đến chỗ tuyệt vọng như thế”.