Làm ơn, làm ơn đi mà...
Amelia Sachs đang vội vã quay ngược trở lại căn nhà của Boyd nhanh hết mức có thể, bỏ qua những lời chúc mừng từ các đồng sự và cố gắng quên đi nỗi đau ở chân.
Đổ mồ hôi, thở dốc, cô chạy tới chỗ nhân viên y tế đầu tiên của đội cứu thương mà mình thấy và hỏi: “Người phụ nữ trong ngôi nhà đó sao rồi?”.
“Kia ư?”, anh ta hất đầu về phía ngôi nhà.
“Đúng. Người phụ nữ nước da rám nắng sống ở đó.”
“Ồ, là cô ta. Tôi e là, tình hình không tốt.”
Sachs hít vào một hơi thật sâu, cảm thấy nỗi sợ hãi giống như tảng băng đặt lên da thịt mình. Cô đã tóm cổ được Boyd nhưng còn người phụ nữ cô đã có thể cứu sống thì lại chết. Cô nhấn tay vào ngón tay cái của mình và cảm thấy cơn đau, cảm thấy máu đang chảy ra. Nghĩ: Mình đã làm chính xác điều mà Boyd làm. Mình đã hy sinh mạng sống của một người vô tội vì lợi ích của công việc.
Nhân viên y tế tiếp tục: “Cô ta bị bắn”.
“Tôi biết”, Sachs thầm thì. Nhìn chằm chằm xuống đất. Này, thật khó mà sống với...
“Cô không cần phải lo lắng.”
“Lo lắng?”
“Cô ấy sẽ ổn thôi.”
Sachs cau mày. “Anh nói là tình hình không tốt.”
“Chà, kiểu như là, bị bắn cũng là một điều không hay chứ sao.”
“Chúa ơi, tôi đã biết là cô ấy bị bắn. Tôi đã ở đó khi điều đó xảy ra.”
“Ồ.”
“Tôi cứ nghĩ rằng ý anh là cô ấy đã chết.”
“Giờ. Cô ấy vẫn đang chảy máu nhưng chúng tôi đã đến đúng lúc. Cô ấy sẽ ổn thôi. Hiện cô ấy ở bệnh viện Luke’s ER. Tình trạng ổn định.”
“Được rồi, cảm ơn.”
Tôi có một tin xấu...
Sachs bước lại chậm rãi, với cái chân khập khiễng, và tìm thấy Sellito và Haumann ở trước ngôi nhà ẩn náu của Boyd.
“Cô tóm cổ hắn với một khẩu súng hết đạn phải không?”, Haumann hỏi, bằng giọng ngờ vực.
“Thực ra tôi tóm hắn với một hòn đá.”
Chỉ huy đội Phản ứng nhanh gật đầu, nhướn lông mày - lời khen ngợi ngọt ngào nhất của anh.
“Boyd có nói gì không?”, cô hỏi.
“Hắn biết quyền của mình. Hắn câm như hến.”
Cô và Sellito đổi lại súng. Anh nạp đạn. Cô kiểm tra khẩu Glock của mình và nhét lại nó vào bao.
Sachs hỏi: “Thế còn sự việc ở ngôi nhà thì sao?”. Haumann vuốt cái đầu húi cua lởm chởm của mình và nói: “Có vẻ như ngôi nhà hắn đang sống được thuê dưới tên Jeanne Starke. Đó là lũ trẻ của cô ta, hai bé gái. Không phải của Boyd. Chúng ta đã có tổ chức Bảo trợ trẻ em. Tòa nhà đó - anh hất đầu về phía ngôi nhà thứ nhất - là một nơi ẩn náu của hắn. Có đầy đủ vật chứng để chúng ta làm việc”.
Sachs nói: “Tốt hơn là tôi sẽ khám nghiệm hiện trường”.
“Chúng tôi giữ nó an toàn”, Haumann nói. “À, anh ấy làm điều đó.” Hất đầu về phía Sellito. Người đứng đầu ESU nói: “Tôi phải hỏi cung tên khốn này. Cô sẽ đến sau khi khám nghiệm hiện trường chứ? Họ sẽ cần lệnh”.
Sachs gật đầu, cùng với viên thanh tra to lớn bước về phía ngôi nhà tên tội phạm dùng để ẩn nấp. Một sự im lặng dày như những lớp cát ở giữa họ. Cuối cùng Sellito nhìn vào chân cô và nói: “Lại đau rồi phải không”.
“Lại?”
“Đúng, khi cô đi sơ tán các ngôi nhà, ở bên kia phố,
tôi đã nhìn ra ngoài cửa sổ. Có vẻ như là lúc đó cô vẫn đi lại được.”
“Đôi khi nó tự khỏi mà.”
Sellito nhún vai. “Thật buồn cười là làm thế nào những việc kiểu như vậy xảy ra được.”
“Buồn cười.”
Anh biết điều cô đã làm cho mình. Anh cũng nói với cô như vậy. Rồi anh hỏi: “Được rồi. Chúng ta đã bắt được tên giết người. Nhưng đó mới chi là một nửa công việc mà thôi. Chúng ta cần phải tóm được tên đầu sỏ thuê hắn và kẻ đồng lõa của hắn - kẻ mà chúng ta phải giả định rằng vừa mới nhận lấy nhiệm vụ từ Boyd. Bắt tay vào công việc thôi, Thanh tra”. Sellito nói với cái giọng cộc cằn như Rhyme có thể vẫn hay nói.
Đó chính là lời cảm ơn tuyệt vời nhất mà anh có thể nói với cô: Chỉ đơn giản là biết rằng anh đã trở lại.
Thường thì phần bằng chứng quan trọng nhất là cái cuối cùng mà chúng ta tìm ra.
Một nhà khám nghiệm hiện trường giỏi ngay lập tức nhắm vào các vật chứng dễ bị hủy hoại, thường là ảnh hưởng bởi sự bay hơi, bị xóa hỏng bởi mưa, bị tiêu tan bởi gió... và bỏ lại những bằng chứng đã quá rõ ràng để thu thập sau - như là khẩu súng còn bốc khói.
Lincoln Rhyme thường nói nếu hiện trường được bảo vệ, những đồ còn tốt sẽ không biến đâu mất
Tại cả hai nơi ở của Boyd và ngôi nhà ẩn náu bên kia phố, Sachs đã thu các mẫu dấu tay ẩn, ghép các dấu vết, thu lượm các mẫu chất lỏng từ nhà vệ sinh để có các phân tích DNA, cạo bề mặt sàn và các đồ vật, cắt các mẩu thảm để có các mẫu sợi và chụp ảnh cũng như quay phim toàn bộ khu vực. Chỉ sau khi làm như thế cô mới quay sự chú ý của mình sang các đồ rõ ràng và lớn hơn. Cô sắp xếp để đưa các chất acid và cyanide tới trụ sở trung tâm lưu giữ bằng chứng độc hại ở Bronx, và xử lý cái thiết bị nổ tự tạo được đựng trong chiếc đài bán dẫn.
Cô xem xét và kiểm tra các vũ khí cũng như đạn, tiền, các cuộn dây thừng, dụng cụ. Hàng tá đồ vật có vẻ hữu dụng để làm bằng chứng.
Cuối cùng, Sachs lấy lên một phong bì nhỏ màu trắng nằm ở gần cửa trước của ngôi nhà dùng để ẩn náu.
Ở bên trong là một tờ giấy.
Sachs đọc nó. Rồi cười rất nhanh. Cô đọc bức thư một lần nữa. Và gọi cho Rhyme, tự nghĩ rằng: Người anh em à, liệu chúng ta có sai không.
“Vậy”, Rhyme nói với Cooper khi hai người nhìn vào màn hình máy tính. “Tôi cá một trăm đô là chúng ta tìm thấy nhiều carbon nguyên chất hơn nữa, giống như thứ trên bản đồ giấu dưới gối của hắn ở căn hộ trên phố Elizabeth. Anh có muốn thử không? Đặt cược không?”
“Quá muộn rồi”, Cooper nói, khi chiếc máy phân tích kêu bíp và bản phân tích dấu vết các thành tố từ trên tờ giấy trồi lên trước họ. “Không thế thì kiểu gì tôi cũng cược rồi.” Anh ta đẩy chiếc kính cao hơn trên mũi và nói: “Và, đúng, carbon. Một trăm phần trăm”.
Carbon. Có thể được tìm thấy trong than đá, bụi hoặc hàng tá các vật chất khác.
Nhưng nó cũng có thể là bụi kim cương.
“Điều đáng ghét mới nhất trong tiếng Anh của thế giới thương mại là gì?” Nhà tội phạm học hỏi, tâm trạng lại một lần nữa tràn đầy hứng khởi. “Chúng ta đi sai đường rồi.”
Ồ, họ đã không sai về việc Boyd là hung thủ của vụ này hoặc sự thật là hắn đã được thuê để giết Geneva. Không, chính là họ đã hoàn toàn thổi phồng động cơ vụ án. Tất cả mọi thứ họ phỏng đoán về phong trào quyền dân sự trước đây, về những gợi ý hiện tại về việc dàn dựng nên vụ cướp của Charles Singleton từ Quỹ Nô lệ tự do, âm mưu về Bản sửa đổi số 14... Họ đã sai hoàn toàn.
Geneva Settle đã bị mục tiêu đến chết đơn giản bởi vì cô đã nhìn thấy một thứ gì đó mà đáng ra không nên thấy: một vụ cướp nữ trang đã được lên kế hoạch.
Bức thư mà Amelia Sachs tìm thấy trong ngôi nhà ẩn náu của hắn có bản đồ của nhiều tòa nhà khác nhau trên phố, bao gồm cả bảo tàng Mỹ - Phi. Tờ giấy ghi chú viết:
Một con bé da đen, ở cửa sổ này tầng năm, ngày mùng 2 tháng 10, khoảng 8 giờ 30 phút. Nó thấy chiếc xe chở hàng của tôi đậu ở con hẻm phía sau cửa hàng mua bán trang sức đá quý. Nó đã nhìn đủ để đoán ra được kế hoạch của tôi. Giết nó.
Cửa sổ của thư viện ở gần chiếc máy đọc vi phim, chỗ mà Geneva bị tấn công được khoanh tròn trên tấm biểu đồ.
Bên cạnh lỗi đánh thiếu chữ, ngôn ngữ của tờ ghi chú cũng khá khác thường, và theo như nhà tội phạm học thì khá tốt; khi lần theo dấu vết của một cái bất thường thì dễ dàng hơn. Rhyme đã đưa Cooper gửi một bản copy tới Paker Kincaid, một cựu chuyên viên kiểm tra tài liệu của FBI bên ngoài D.C., hiện đang hành nghề tự do. Cũng giống như Rhyme, Kincaid đôi khi được tham gia vào các công việc của những chỉ huy cũ và các sở hành pháp khác để tư vấn trong một số vụ việc liên quan tới các tài liệu và chữ viết tay. Email trả lời của Kincaid nói rằng anh sẽ có câu trả lời cho họ nhanh nhất có thể.
Khi xem xét lá thư, Amelia Sachs đã lắc đầu một cách đầy giận dữ. Cô nhớ lại vụ việc về gã có vũ trang mà cô và Pulaski ở bên ngoài bảo tàng ngày hôm qua - hóa ra hắn là một nhân viên an ninh, kẻ đã nói với họ về những thứ giá trị của giao dịch, về những giao dịch hàng triệu đô từ Amsterdam và Jerusalem hằng ngày.
“Chúng ta đáng lẽ nên chú ý điều đó”, cô nói, lắc lắc đầu.
Nhưng ai có thể đoán được là Thompson Boyd được thuê giết Geneva chỉ vì cô bé nhìn ra bên ngoài cửa sổ không đúng lúc?
“Nhưng tại sao lại lấy đi cái máy đọc vi phim chứ?”, Sellito hỏi.
“Tất nhiên là để đánh lạc hướng của chúng ta. Và đúng là nó đã làm khá tốt việc đấy.”
Rhyme thở dài. “Trong khi chúng ta thì chạy vòng quanh, nghĩ về các âm mưu liên quan tới luật hiến pháp. Boyd hẳn là chẳng có chút hiểu biết gì về cái mà Geneva đang đọc.” Anh quay sang cô bé, đang ngồi gần đó và cầm một ly chocolate nóng. “Kẻ nào viết cái tờ giấy đó đã nhìn thấy cháu từ trên phố. Hắn hoặc là Boyd liên lạc với người quản lý thư viện để biết cháu là ai và khi nào thì cháu sẽ quay lại, để Boyd có thể ở đó, đợi cháu. Tiến sĩ Barry bị giết ông ấy có thể chỉ ra manh mối giữa cháu với chúng... Giờ, nghĩ lại khoảng một tuần trước. Cháu nhìn ra ngoài cửa sổ lúc 8 giờ 30 phút, nhìn thấy một chiếc xe tải và một kẻ nào đó ở trong hèm. Cháu có nhớ đã thấy gì không?”
Cô bé liếc mắt và cúi xuống. “Cháu không biết. Cháu nhìn ra ngoài rất nhiều lần. Khi đọc mệt quá thì cháu đi loanh quanh vài lần, chú biết đấy. Cháu không thể nhớ một điều gì cụ thể cả.”
Sachs nói chuyện với Geneva trong mười phút, cố gắng gợi cho cô bé nhớ lại một hình ảnh. Nhưng để nhớ lại một người cụ thể và một chiếc xe tải chở hàng trên những con phố đông đúc ở trong thành phố chỉ qua một cái nhìn một tuần trước là quá nhiều với trí nhớ của một cô bé.
Rhyme gọi cho giám đốc của Sở giao dịch trang sức đá quý Mỹ và nói với ông ta những gì họ mới phát hiện ra. Hỏi xem liệu ông ta có tình cờ biết ai đó có khả năng cố tạo ra một vụ trộm, ông ta đáp lại rằng: “Mẹ kiếp, không có gì hết. Dù nó xảy ra nhiều hơn anh có thể nghĩ”.
“Chúng tôi tìm thấy dấu vết của carbon nguyên chất trong một vài vật chứng. Bụi kim cương, chúng tôi nghĩ thế.”
“Ồ, vậy có nghĩa là chúng đã xem xét con hẻm ở gần khu ga ra. Không ai ở bên ngoài được đến gần khu phòng cắt, nhưng, này, nếu anh đánh bóng sản phẩm, anh sẽ nhặt được bụi. Nó có ở trong những chiếc túi máy hút bụi chân không và trên bất cứ vật gì mà chúng tôi ném ra ngoài.”
Người đàn ông cười, không nhiều lo lắng với tin tức về vụ trộm đang lơ lửng trên đầu được báo trước. “Dù gì, tôi cũng sẽ báo với anh, bất cứ kẻ nào định động vào chúng tôi sẽ dính ngay vài viên đạn. Chúng tôi có hệ thống an ninh tốt nhất trong thành phố. Ai cũng tưởng là nó giống với trên ti vi. Chúng tôi có những gã đến để mua nhẫn cho bạn gái rồi chúng nhìn quanh và hỏi những tia vô hình mà ta đeo kính mới thấy đâu, anh hiểu chứ? Chà, câu trả lời là họ chả làm ra cái máy phát tia vô hình khi gió nào cả. Bởi nếu anh có thể đi loanh quanh các tia khi đang đeo những chiếc kính đặc biệt, thì những kẻ xấu sẽ đi mua những cái kính chó chết ấy và đi vòng quanh đúng không? Hệ thống báo động thực sự không như vậy. Nếu một con ruồi đánh rắm trong két của chúng tôi, còi báo động sẽ rú ầm ĩ. Và, sự thật là, cái hệ thống an ninh chặt đến mức một con ruồi cũng không thể lọt qua được.”
“Tôi đáng lẽ cần phải biết”, Lincoln Rhyme nói sau khi họ dập máy. “Nhìn lên biểu đồ nào! Nhìn vào những gì chúng ta tìm thấy ở nơi trú ẩn đầu tiên của hắn.” Anh hất đầu về phía tấm bản đồ được tìm thấy ở căn hộ trên phố Elizabeth. Nó chỉ cho thấy nét phác thảo của thư viện nơi Geneva bị tấn công. Trung tâm giao bên kia phố được vẽ lớn hơn và chi tiết hơn nhiều, cũng như các con hẻm gần đó, các cánh cửa và các khu ga ra - lối vào và lối ra của trung tâm, chứ không phải bảo tàng.
Hai thanh tra từ trung tâm thành phố đã hỏi cung Boyd về thân nhân kẻ đứng đằng sau vụ cướp, kẻ đã thuê hắn, nhưng hắn né tránh.
Sellito kiểm tra dữ liệu của sở Larceny, sở NYPD trên các báo cáo về các hoạt động đáng ngờ ở quận kim cương nhưng không có manh mối nào đặc biệt có vẻ liên quan. Fred Dellray tạm dừng việc điều tra những tin đồn về các vụ đánh bom khủng bố tiềm năng để kiểm tra các dữ liệu của FBI về bất cứ cuộc điều tra nào liên quan đến các vụ trộm trang sức. Bởi trộm cắp không phải là một tội cấp bang, không có nhiều vụ lắm, nhưng một vài trong số đó - phần lớn liên quan đến hoạt động rửa tiền trong khu vực New York - đang còn hiệu lực và anh hứa sẽ mang các báo cáo tới ngay lập tức.
Giờ họ quay sang các vật chứng tìm thấy tại nơi ở và ngôi nhà ẩn nấp của Boyd, với hy vọng tìm ra kế hoạch của tên trộm. Họ kiểm tra khẩu súng, những chất hóa học, dụng cụ và các vật còn lại, nhưng không có gì mà họ chưa tìm ra trước đó: nhiều mầu sơn màu cam, các vệt acid, các mẩu vụn bánh falafel và các vết sữa chua, có vẻ như đó là bữa ăn ưa thích của Boyd. Họ kiểm tra thông qua số seri các tờ tiền và không tìm thấy gì từ Bộ tài chính, và chẳng có tờ tiền nào có lấy một dấu vân tay. Để rút một số tiền lớn như vậy từ một tài khoản là khá mạo hiểm với gã thuê Boyd bởi bất cứ một giao dịch lớn nào như vậy đều phải được báo cáo theo các quy định về việc lưu giữ tiền. Nhưng một cuộc kiểm tra nhanh về các vụ rút tiền lớn gần đây từ các ngân hàng trong khu vực không đưa ra được một đầu mối nào. Điều này khá kỳ lạ, Rhyme nghĩ, dù đã kết luận rằng hung thủ hẳn đã rút nhiều khoản tiền nhỏ suốt thời gian để trả công cho Boyd.
Có vẻ như thủ phạm phải là một người rất khó tìm trên thế giới này, hắn không có điện thoại di động, hoặc nếu có, hắn hẳn phải là một thuê bao trả trước vô danh - sẽ không có các hóa đơn cước về nhật ký cuộc gọi - cũng như hắn phải tính toán trước để vứt nó đi trước khi bị bắt. Xem xét hóa đơn điện thoại bàn của Jeanne Starke không mang lại điều gì khả nghi trừ việc có hàng tá cuộc gọi tới một chiếc bốt điện thoại công cộng ở Manhattan, Queens hoặc Brooklyn, nhưng chẳng liên quan tới một địa điểm nào cụ thể thường xuyên cả.
Tuy nhiên, sự dũng cảm của Sellito đã mang lại những bằng chứng khá tốt: những dấu tay trên thanh dynamite và phần lõi của chiếc đài bán dẫn nổ. Hệ thống IAFIS cùa FBI và các dữ liệu dấu vân tay cấp cơ sở đưa tới một cái tên: Jon Earle Wilson. Hắn đã từng phạm nhiều tội ở Ohiho và New Jersey, bao gồm cả đốt nhà phóng hỏa, chế tạo bom và lừa đảo bảo hiểm. Nhưng hắn đã tr khỏi tầm kiểm soát của các nhà chức trách địa phương, Cooper báo cáo. Địa chỉ cuối cùng là ở Brooklyn nhưng đó là một khu đất trống.
“Tôi không cần những địa chỉ cuối cùng của hắn được biết đến. Tôi muốn địa chỉ hiện tại. Đưa cả FBI vào tìm kiếm nữa.”
“Nhất trí.”
Tiếng chuông cửa reo. Tất cả mọi người vẫn còn cảnh giác với hung thủ chính đằng sau vụ án và tên đồng phạm vẫn chưa bị tóm cổ và họ nhìn ra cửa với sự thận trọng. Sellito đã trả lời tiếng chuông cửa và anh bước vào phòng thí nghiệm với một cậu bé da đen, tầm tuổi vị thành niên, cao ráo, mặc một chiếc quần lửng ngang bắp chân và một chiếc áo Knicks. Cậu ta mang theo một chiếc túi đồ nặng. Cậu nhóc chớp chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Rhyme - rồi mọi thứ khác ở trong căn phòng.
“Ồ, Geneva, chuyện gì xảy ra vậy?”
Cô nhìn cậu ta với một cái cau mày.
“Ồ, mình là Rudy.” Cậu ta cười. “Cậu không nhớ tớ rồi.”
Geneva gật đầu. “Ừ. Mình cũng nghĩ thế. Cậu là…”
“Anh trai của Ronelle.”
Cô bé nói với Rhyme. “Một bạn gái trong lớp cháu.”
“Sao cậu biết tớ ở đây?”
“Ừ, Ronee nghe ai đó nói.”
“Hẳn phải là Keesh rồi. Cháu đã nói với cậu ấy.” Geneva nói với Rhyme.
Cậu bé nhìn quanh phòng thí nghiệm một lần nữa rồi quay lại với Geneva. “Đây là gì, vài đứa trong lớp gửi cho cậu cái này. Cậu biết đấy, cậu đã không ở trường và chúng nó nghĩ là cậu sẽ cần cái gì đó để đọc. Tớ đã bảo là, đưa cho cậu cái Game Boy, nhưng chúng nó bảo không, cậu thích đọc sách. Nên bọn nó gửi cái này cho cậu.”
“Thật sao?”
“Thật. Không phải bài tập về nhà hay đại loại như thế đâu. Cậu có thể đọc để giải trí"
“Ai gửi?”
“Ronelle, vài đứa con gái khác, không biết nữa. Đây này. Nặng cả tấn ý chứ.”
“Chà, cảm ơn nhé
Cô cầm lấy cái túi.
“Lũ con gái nói với tớ rằng mọi việc sẽ ổn.”
Geneva cười gượng gạo và cảm ơn cậu ta một lần nữa, gửi lời chào của mình tới bạn bè trong lợp. Cậu bé rời đi, Geneva nhìn xuống chiếc túi. Nhấc lên một quyển sách của Laura Ingalls Wilder, Geneva lại cười. “Không biết chúng nó đang nghĩ gì. Mình đã đọc quyển này rồi, đến bảy năm trước rồi ý chứ.” Cô thả nó vào trong túi. “Dù sao thì, các bạn ấy thật tốt.”
“Và khá có ích”, Thom nói một cách châm chọc. “Chú e là, không có nhiều thứ ở đây để cho cháu đọc đâu.” Một cái nhìn tới Rhyme. “Chú vẫn làm việc với anh ta. m nhạc. Giờ anh ta rất hay nghe nhạc. Thậm chí còn đe dọa sẽ tự viết vài bản nhạc. Còn đọc truyện viễn tưởng á? Chúng ta vẫn chưa đạt đến trình độ ấy.”
Geneva cười với Thom một cách vui vẻ, cầm chiếc túi đựng đồ và đi về phía hành lang khi Rhyme nói: “Cảm ơn. Vì đã vạch áo tôi ra, Thom. Trong bất cứ tình huống nào, giờ thì Geneva có thể đọc thỏa thích, mà tôi chắc chắn là cô bé thích làm thế hơn là ngồi nghe những câu nói chán ngắt của cậu. Còn với thời gian rảnh rỗi của tôi? Tôi cho là mình không có nhiều thời gian như thế, cậu biết đấy, cố để tóm những kẻ giết người”. Đôi mắt anh lại quay lên nhìn vào tấm bảng ghi chép bằng chứng.
Bảng bằng chứng:
Nơi ở của Thompson Boyd và nhà an toàn chính
+ Có nhiều falafel và sữa chua hơn, các vết sơn.
+ Tiền mặt (tiền cho công việc?) 100.000 đô la tiền mới. Không có dấu vết. Nhiều khả năng được rút ra bằng các khoản tiền nhỏ nhiều lần.
+ Vũ khí (súng, dùi cui, dây thừng) có liên hệ với các hiện trường trước.
+ Acid và cyanide có liên hệ với hiện trường trước đó, không có dấu hiệu đưa tới nhà sản xuất.
+ Không có điện thoại di động. Các thông tin ghi chép về điện thoại khác không có ích.
+ Các dụng cụ đưa tới hiện trường trước.
+ Lá thư hé lộ ra việc G. Settle bị nhắm tới vì cô bé là nhân chứng cho một vụ cướp trang sức đang được lên kế hoạch. Nhiều carbon nguyên chất hơn 1 được nhận định là bụi kim cương.
+ được gửi tới Parker Kincaid ở Washington D.C., để làm các kiểm tra đánh giá.
+ Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. Hiện đang truy lùng tên này.
Hiện trường quán Potter’s Field (1868)
+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.
+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.
+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.
+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để giấu bí mật của ông ấy?
+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.
- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).
+ Những đồng tiền vàng.
+ Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.
+ Không có danh tính.
+ Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”.
- Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác D.C., để làm các kiểm tra đánh giá.
+ Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. Hiện đang truy lùng tên này.
Hiện trường quán Potter’s Field (1868)
+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.
+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.
+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.
+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của giấu bí mật của ông ấy?
+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.
- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).
+ Những đồng tiền vàng.
+ Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.
+ Không có danh tính.
+ Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”.
- Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác
+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.
+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố.
+ Dấu vết:
- Falafel và sữa chua.
- Các mẫu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.
- Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.
* Xác định là Murine.
- Nhiều sợi vài từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ?
- Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.
* Xác định là bụi kim cương.
* Ngôi nhà được thuê, bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới Hammil thực tế.
Hiện trường Bảo tàng Mỹ - Phi
+ Gói đồ hiếp dâm:
- Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.
- Chiếc túi có hình mặt cười.
* Quá chung chung để lần tìm.
- Dao rọc giấy.
- Bao cao su Trojan.
- Băng dính.
- Dầu thơm mùi hoa nhài.
- Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.
- Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.
* Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.
+ Dấu tay:
- Nghi phạm đeo găng tay cao su.
- Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.
+ Dấu vết:
- Sợi thừng vải bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?
* Gửi tới CODIS.
* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.
- Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.
+ Vũ khí:
- Dùi cui hoặc một chiếc côn.
- Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster.
- Tạo những viên đạn riêng, đầu đạn với những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.
+ Động cơ:
- Geneva Settle là nhân chứng một vụ phạm tội đang trong kế hoạch thực hiện - ở Trung tâm mua bán trang sức bên kia con phố từ bảo tàng Mỹ - Phi
+ Hồ sơ vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.
- Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).
* Nạn nhân là một người gác ngục đã nghỉ hưu.
* Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.
• Được nhận dạng là Thompson G. Boyd, nhân viên thi hành án.
+ Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Thompson Boyd, cựu nhân viên thi hành án, Amarillo, TX.
+ Hiện đã bị bắt giữ.
Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109
+ Chưa có thông tin gì lúc này.
Hồ sơ về đồng phạm của Nghi phạm 109
+ Nam, da đen.
+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.
+ Cao khoảng 1m8.
+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.
+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.
+ Từng là phạm nhân.
+ Chân khập khiễng.
+ Được báo cáo có mang súng.
+ Râu được cạo sạch sẽ.
+
+ Đang đợi các nhân chứng thêm và băng ghi hình ninh.
- Băng ghi hình chưa rõ ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích.
+ Giày lao động cũ kỹ.
Hồ sơ về Charles Singleton
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
- Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
+ Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.
+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu :
- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sàn mà người da đen sở hữu.
- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.
- Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật của ông ấy là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.