Lời dẫn
Nhiều năm sau, Vũ Văn Dung vẫn còn nhớ đêm hôm ấy,
vầng trăng sáng tỏ màu đồng mờ ảo như được phủ một lớp sương. Những bông hoa thạch lựu trong khu vườn thanh tĩnh bừng lên nở rộ như những đốm
lửa lập lòe trong đêm tối, tỏa ra một mùi hương thoang thoảng. Nhưng thứ thực sự khiến lòng người rung động lại là hương thơm ngòn ngọt từ người con gái thuận theo cơn gió đêm quấn quýt nơi mũi người.
Tiểu
Liên vẫn cúi đầu như đang trầm tư suy nghĩ điều gì đó. Bất chợt ngẩng
đầu lên. Một đôi mắt sáng long lanh như vầng trăng đang lơ lửng nơi bầu
trời, đôi mắt trong sáng chưa từng vướng bụi trần. Giật mình kinh ngạc,
hai con ngươi đen lay láy xoe tròn, trong phút chốc, trông đáng yêu như
một chú nai đi lạc.
Chàng cảm thấy nơi sâu thẳm trong lồng ngực
mình thoảng đập mạnh, giật mình ngỡ ngàng. Lại thấy nàng khoác lên gương mặt một nụ cười nhàn nhạt, ánh mắt không còn vẻ sợ hãi lại tràn đầy hi
vọng như ngày nào, thay vào đó là một vẻ bất cẩn và thản nhiên. Lùi về
sau một bước, nói: “Như Yên Các ở phía Tây, hôm nay là 15, trăng rằm mọc từ đằng Đông, lặn ở đằng Tây, chàng cứ đi về hướng đó là đúng rồi.” Nói xong, nàng khẽ đưa tay lên chỉ, tay áo nhấc lên, để lộ cái cổ tay trắng như sen như ngọc.
Chàng vô thức nhìn theo ánh mắt của nàng,
trong đôi mắt có thần ấy tràn đầy vẻ khinh mạn, đôi môi khẽ nhếch lên,
dường như đang hi vọng chàng mau rời khỏi chốn này.
Quả nhiên
nàng đã thay đổi. Không còn là một tì thiếp không được sủng ái, ngày
ngày chờ đợi chàng ghé thăm nữa. Ngược lại, nàng đã biến thành một người khéo léo trong từng lời nói, ánh mắt giả dối nhưng dường như có thể
nhìn thấu tất cả mọi thứ. Chàng không còn là toàn bộ bầu trời của nàng
nữa.
Trong lòng dấy lên một nỗi giận vô cớ, bất giác nhớ tới
quyền thần Vũ Văn Hộ, ánh mắt thoáng tối đi, đưa tay chộp lấy tay nàng,
cười lạnh, trầm giọng nói: “Sao hả, vừa gặp Tể tướng đại nhân thì đã
quên hết tam cương ngũ thường, phu thê lễ số rồi sao?”
Tiểu Liên thoáng khựng lại, rồi cười lạnh, đôi mày ngọc xếch lên, rồi gọi thẳng
tên chàng không hề úy kỵ: “Vũ Văn Dung, chàng tự hỏi lại bản thân mình
xem, có từng coi ta là thê thiếp của chàng không? Nếu có thì chắc chắn
chàng đã chẳng hỏi như vậy. Mà nếu không, thì hà tất gì phải hỏi?”
Một người hùng tài thao lược, ẩn nhẫn quyết tuyệt như Vũ Văn Dung cũng
chẳng thể nào ngờ nàng lại nói được những lời như thế. Nhất thời, chàng
đứng im ở một chỗ, bàn tay nắm chặt tay nàng thoáng nới lỏng ra, nàng
cảm giác nơi lòng bàn tay mình vẫn âm ấm.
Nàng giằng tay ra,
thấy bàn tay to lớn của chàng vẫn bất động, bực bội trong lòng, bàn tay
kia đặt lên gỡ từng ngón tay chàng, những ngón tay mềm mại của nàng vô
tình lại chạm phải tay chàng tỏa ra một hơi ấm nhồn nhột, Vũ Văn Dung
thoáng động lòng, bàn tay như thêm lực, kéo nàng vào lòng. Dưới ánh
trăng bàng bạc, gương mặt góc cạnh anh tuấn của chàng vùi vào cổ nàng,
cái cằm nhọn đặt lên vai nàng, gương mặt vừa như xúc động, lại như mơ
màng, phút chốc như một đứa trẻ bối rối không biết làm gì.
“Ở
đây đâu có người ngoài, chúng ta đóng kịch cho ai xem?” Bên tai vang lên một giọng nói thánh thót dễ nghe nhưng lại đầy mỉa mai. Tiểu Liên đẩy
mạnh chàng ra, nhìn ánh mắt khinh thường của chàng đang nhìn mình, trong đó không một chút hơi ấm.
“Trong mắt nàng từ trước tới nay chỉ là đóng kịch thôi sao?”
Vũ Văn Dung nhìn nàng trân trân, đáy tim dấy lên một cảm giác đau nhói,
rồi trong phút chốc, cảm giác ấy như cơn sóng biển tràn bờ. Chàng chưa
bao giờ thật lòng đối xử với nàng, nhưng bắt đầu từ khi nào, chàng đã
thực sự nhập vai vào vở kịch này?
“Chẳng nhẽ trong mắt chàng thì không phải?!” Tiểu Liên lạnh lùng nói đầy gai góc, gương mặt trắng ngần vẫn giữ một nụ cười nhàn nhạt, gò má đỏ hồng như màu hoa thạch lựu, vẻ
đẹp của nàng thật khó có thể diễn tả thành lời.
Chàng trầm giọng nói: “Tùy nàng vậy.” Giọng nói đã quay lại với vẻ lạnh lùng xa cách
thường ngày, “Như Yên Các đúng là ở phía Tây, nhưng Nghi Phụng Hiên lại ở phía Đông.” Trong giọng nói của chàng còn kèm theo một nụ cười lạnh
lẽo, hai tay chắp ra sau lưng, gương mặt anh tuấn thoáng qua một vẻ tà
mị. Đi thẳng qua người Tiểu Liên, ánh trăng kéo cái bóng chàng ra thật
dài.
Tiểu Liên nhìn theo dáng người cao ráo của chàng, phút chốc cảm thấy chàng thật cô độc. Nhưng nhớ lại sự tuyệt tình chàng từng dành cho mình, tim nàng lại cứng lại, hơi vươn vai, quay người đi về phía
Minh Duyệt tiểu trúc.
Vũ Văn Dung quay lưng về phía nàng, cũng
bỏ đi một mình, bất giác nghe thấy tiếng bước chân của nàng thoắt gần
thoắt xa. Thì ra nàng thực sự không quan tâm. Nơi mềm yếu nhất trong
trái tim không chống cự nổi cơn đau nhói vừa dấy lên, chàng chợt dừng
bước chân. Nắm chặt tay, mười khớp ngón tay trắng bệch. Không thể chấp
nhận việc mình mất cảnh giác với người do Vũ Văn Hộ phái đến, không thể
chấp nhận việc mình vì một nữ nhân mà thần hồn điên đảo, càng không thể
chấp nhận việc trái tim của nữ nhân này hoàn toàn không ở chỗ mình… Tình yêu không nhận được báo đáp sẽ biến thành một nỗi cô đơn vô bờ.
Vầng trăng vẫn lặng lẽ phô bày vẻ đẹp của mình, cái bóng trên mặt đất hắt
lên bờ tường, thật đúng với câu nàng nói: “Đổi ảnh thành ba người”.
Năm Thiên Hòa thứ tư, Tể tướng Vũ Văn Hộ chấp quyền, Hoàng thất tứ bề khốn
đốn, đây vốn không phải là lúc để động nhi nữ tư tình.
Nhưng nếu thực sự đã yêu thì phải làm thế nào để giấu đi sự rung động khắc cốt ghi tâm, không bao giờ để người biết đến?
Lừa được người khác, lừa được nàng. Nhưng làm sao để lừa chính bản thân mình?!
Người con gái đập vỡ ly trà, gương mặt diễm tuyệt, ánh mắt lấp lánh ấy có thực sự sẽ không bao giờ quay lại nữa không?!
“Đêm khuya xào xạc nghe mưa gió.
Ngựa sắt băng sông mộng vấn vương”[1]
[1] Bài thơ “Làm ngày mưa gió mùng bốn tháng mười một” của tác giả Lục Du thời Nam Tống. Thơ Nguyễn Chí Viễn dịch.
“Tiểu Liên, câu thơ này có ý là gì? Tác giả là ai?” Một giọng nói sang sảng
nhưng đượm vẻ già nua vang lên bên tai, tay tôi lỏng ra, cằm suýt chút
nữa thì đập xuống bàn, trước mặt vẫn còn quyển thơ cổ dày cộp dùng để
che chắn, ngẩng đầu lên nhìn người có đôi mắt sáng quắc đứng trước mặt,
vẻ ngái ngủ trong mắt tôi vẫn chưa kịp tan hết, trong đầu là một mớ hỗn
độn, chỉ máy móc trả lời.
“Mười năm xa cách thấy vô cùng.
Ta muốn nghĩ.
Nhưng thực khó quên…”[2]
[2] Bài thơ “Giang Thành Tử” của nhà thơ Tô Thức. Dịch nghĩa.
“Chát” một tiếng, là tiếng quyển sách bị đập lên bàn. Tôi rùng mình mở to mắt, lúc này mới nhìn rõ người đứng trước mặt tôi, thoáng khựng lại rồi kinh ngạc thốt lên: “Ông nội, sao ông lại ở đây?” Còn nhớ rõ ràng ban nãy
tôi đang học giờ cổ văn của thầy giáo hiền lành mà… Trong phút chốc cố
lấy lại tinh thần, ngồi thẳng lưng dậy.
“Hỏi con Lục Du thì con
lại đọc “Giang Thành Tử”, Tiểu Liên, con học giỏi lắm.” Ông nội thở dài, sa sầm mặt nói, nhưng khóe mắt ông vẫn còn vương nét thương yêu.
Tôi thấy ông nội không thực sự nổi giận bèn thầm thở phào một hơi, rồi làm
nũng: “Ông nội, ông mới là Giám đốc Viện Bảo tàng quốc gia, con chỉ là
cháu gái của Giám đốc Viện Bảo tàng quốc gia, không cần học nhiều thứ
thế này đâu.” Câu nói này chạm đúng vào nỗi đau của tôi, mùa hè trời
nóng nực, ai cũng buồn ngủ, các bạn khác được ở nhà ăn chơi, còn tôi thì phải học thơ ca, trà đạo, đàn cổ và một loạt các môn học khác nghe thì
đầy tao nhã nhưng lại vô cùng khốn khổ.
Thời tiết mùa hè đang
vào lúc nóng nhất, ánh mặt trời ngoài cửa sổ vàng rực một màu. Trong
gian thư phòng tràn đầy không khí cổ xưa, sắc mặt ông nội bỗng trở nên
nghiêm trang, nghiêm túc nhìn vào mắt tôi, nói: “Đây là sứ mệnh của nhà
Đoạn Mộc chúng ta. Con buộc phải chấp nhận.”
“Tiểu Liên biết rồi ạ!” Tôi cúi đầu, tắt ngay nụ cười, cung kính đáp.
Đây chính là ông nội tôi, Đoạn Mộc Quỳ. Tộc trưởng của gia tộc Đoạn Mộc,
Giám đốc Viện Bảo tàng quốc gia, giáo sư của nhiều trường đại học hàng
đầu thế giới. Từ nhỏ tôi đã là người kế thừa tính cách thích chu du tứ
hải của bố mẹ mình, việc gì cũng thích làm tùy hứng, lười biếng mà phù
phiếm. Nếu không phải năm xưa họ trốn tránh trách nhiệm của gia tộc,
ngao du khắp nơi làm đôi “tình nhân thần tiên” thì ông nội đã chẳng yêu
cầu tôi nghiêm khắc như bây giờ.
Nhưng cũng chẳng trách được bố
mẹ tôi, thực ra tôi cũng là một người rất lười biếng, việc gì cũng chỉ
cần lấp liếm cho qua, nhưng vẫn không đạt được yêu cầu của ông nội, thế
là gánh nặng trên vai tôi lại càng thêm nặng… Bời vì gia tộc Đoạn Mộc
không chỉ đơn giản là một “thư hương thế gia”[3] như người ngoài nhìn
thấy mà chúng tôi còn một thân phận đặc biệt không ai biết – người bảo
vệ gương Thanh Loan.
[3] Nghĩa là gia đình dòng dõi Nho học.
Nói tới thần vật cổ gương Thanh Loan thì nó rất là hoành tráng, câu chuyện
liên quan tới nó có kể ba ngày ba đêm cũng không hết. Khi đó ông nội đã
kể cho tôi rất lâu, chỉ tiếc là tôi chỉ nhớ một đoạn nhỏ trong đó. Gương Thanh Loan là thần vật thời thượng cổ, tương truyền là một hòn đá mà Nữ Oa nương nương bỏ sót khi vá trời, nó rơi xuống Diêu Trì hàng trăm năm, dần dần bị sóng bào mòn mà trở thành một chiếc gương có thần lực vô
hạn, từng giúp “Hoàng đế”[4], tiêu diệt quái long, giúp Châu Vũ Vương
tiêu diệt nhà Thương, không những thông hiểu cổ kim, hơn nữa còn có thể
dự đoán tương lai, đảo ngược thời gian, thu hồn người, không gì là không thể, hơn nữa nó còn là chiếc chìa khóa để mở ra kho báu khổng lồ mà
Hoàng Đế để lại. Truyền thuyết cổ xưa, thêm vào đó là lợi dự đoán “Gương Loan xuất hiện, thiên hạ về một mối” khiến chiếc gương Thanh Loan trở
thành một bảo vật bị hàng ngàn người tranh đoạt ở mọi triều đại. Mà chức trách của gia tộc Đoạn Mộc chúng tôi là đời đời bảo vệ gương Thanh
Loan, không có nó rơi vào tay gian thần. Không những sẽ làm lung lay
quốc gia, thậm chí còn có thể gây họa cho cả nhân gian, bởi vì không ai
biết năng lượng thực sự của chiếc gương này như thế nào.
[4] Hoàng Đế là một nhân vật trong truyền thuyết Trung Quốc.
Nhưng là trưởng nữ của nhà Đoạn Mộc, tôi đã lớn ngần này rồi mà vẫn chưa được nhìn tận mắt chiếc gương Thanh Loan trong truyền thuyết. Bởi vậy tôi
không tránh khỏi hoài nghi, rằng trên đời này có thực sự tồn tại cái gọi là gương Thanh Loan không? Hay là thứ mà gia tộc chúng tôi phải bảo vệ
chỉ là một đức tin mà thôi? Nhìn đống thư tịch chất cao như núi trên
bàn, tôi thở dài, chẳng dám nghĩ ngợi gì nhiều, vùi đầu vào đọc sách.
Ông nội là người mà tôi tôn kính nhất, cho dù chỉ giả vờ chăm chỉ thì
tôi cũng phải khiến ông vui lòng.
2.
“Tân tướng nhập trận phổ huyền ca
Cộng thức Lan Lăng giả dư đa
Chế đắc vũ hồ công hoan tửu
Đương yến uyển chuyển khách nhan đà”
Trong Viện Bảo tàng rộng lớn và sáng sủa, tôi đọc to từng chữ, tròng mắt
thoáng đảo đi, nhìn người con trai trong bức họa, bộ đồ trắng như tuyết, tay áo rộng lớn, nhưng lại đeo một chiếc mặt nạ đồng độc ác, thấp
thoáng cảm giác sát khí. Bên cạnh là một quyển sách mỏng nhưng cứng,
“Lan Lăng Vương nhập trận khúc”. Tôi dừng chân, trong lòng bỗng có một
cảm giác khó có thể nói thành lời, như từng cơn sóng cứ cuộn vào tim,
không thể nào bình tĩnh nổi.
Lúc này đã là hoàng hôn, trong Viện Bảo tàng rất ít khách tham quan, tôi chỉ vào bức tranh, lên tiếng hỏi:
“Ông nội, bức tranh này là như thế nào, sao lúc trước con chưa từng
thấy?”
“Con có bao giờ nghiêm túc ngắm nghía mọi thứ trong Viện
Bảo tàng của ông đâu. Nếu không phải vì Trấn Hồn Châu thì con có theo
ông đến đây không?” Ông nội liếc tôi một cái, mỉm cười nói tiếp: “Lan
Lăng Vương nhập trận khúc vốn là một sáng tác của tướng sĩ thời Bắc Tề
ca ngợi Lan Lăng Vương anh dũng thiện chiến, sau đó truyền tới Nhật Bản, trở thành nhạc cung đình của họ. Bức tranh này là đại sứ Nhật Bản mới
tặng chúng ta thời gian trước.”
“Ồ, vậy quyển sách rách nát kia
là gì?” Tôi chuyển ánh mắt, thấy trong cái tủ kính đặt dưới bức tranh là một quyển sách đóng bằng chỉ vừa dày vừa nặng, mà lại rách nát, nhìn
vào chất liệu của nó thì có thể đoán đây là hiện vật gốc của Viện Bảo
tàng.
Ông nội bất lực nhìn tôi, nói: “Rách nát? Bao giờ thì con
mới có thể dùng ánh mắt nghệ thuật để nhìn nhận những bảo vật vô giá này hả? Đây là tộc phả của gia tộc Cao Thị, Hoàng thất của Bắc Tề. Đây, Lan Lăng Vương tên là Cao Trường Cung, chính là một thành viên của Hoàng
thất Bắc Tề. Nhưng lạ là tộc phả của Cao Thị không hề ghi mẹ ông ấy là
ai?”
Vừa nhắc tới văn vật là ông nội “được lời như cởi tấm
lòng”. Bình thường tôi chẳng hứng thú gì với mấy thứ này, nhưng không
biết vì sao, lần này lại thấy rất hay.
“Đúng, hình như là thế.”
Tôi nhướng mày trả lời. Quên mất đã từng đọc trong cuốn sách nào, có một danh tướng thời Bắc Tề không có ghi chép gì về mẹ ruột, vẫn là một câu
đố cho hậu thế. Lan Lăng Vương là con thứ sáu, mẹ của năm người anh em
trước là ai đều được ghi chép rõ ràng, duy chỉ có mẹ Lan Lăng Vương là
ai thì trong sử không hề nhắc tới. Mà địa vị xã hội khi đó đối với phụ
nữ không có gì cấm kỵ, cho dù mẹ là kỹ nữ cũng không sao, ví dụ như mẹ
của một người em trai của ông cũng là kỹ nữ. Vậy rốt cuộc mẹ ông có thân phận gì mà đặc biệt đến độ không được ghi vào tộc phả? Nghĩ tới đây,
tôi bỗng thấy tim mình thoáng chua xót. Rồi ngay sao đó lại nghĩ, lại
cảm thấy việc này đâu có liên quan gì tới mình, thật ngạc nhiên vì cái
cảm giác kì lạ này, bèn lảng sang chủ đề khác.
“Ông nội, ông thực sự truyền Trấn Hồn Châu cho con ạ?”
“Con mà tài giỏi thì đương nhiên là ông sẽ truyền cho con.” Ông nội nói đầy hàm ý.
Tương truyền Trấn Hồn Châu của nhà Đoạn Mộc là một viên dạ minh châu to hơn
những viên trân châu thông thường, trong bóng tối tỏa ra ánh sáng màu
tím, có công hiệu ngưng thần trừ tà. Đồng thời nó cũng đại diện cho thân phận của người kế thừa gia tộc Đoạn Mộc. Ông nội nói nếu trong ba tháng tôi thi qua một kì thi vô cùng nghiêm khắc thì vào năm tôi tròn 18
tuổi, trong buổi lễ trưởng thành sẽ được truyền lại viên Trấn Hồn Châu.
Thế nên lần này ông đưa tôi tới chỉ để cho tôi được chiêm ngưỡng nó, nhằm
củng cố thêm ý chí của tôi trong một loạt các bài kiểm tra sau này.
Tôi nheo mắt cười tít, tinh nghịch nói: “Thế thì con phải xem viên trân
châu đó có đẹp không đã, nếu mà không đẹp thì con không cần đâu.”
Ông nội lườm tôi một cái, đang định nói gì đó thì nghe thấy tiếng tách, hộp điện tóe lửa, xung quanh bỗng tối om. Mấy khách tham quan trong Viện
Bảo tàng thốt lên những tiếng kêu kinh hãi, tôi cũng kinh ngạc nhìn lên
trần nhà, hệ thống điện của Viện Bảo tàng vốn được lắp đặt cẩn thận
nhất, sao tự nhiên hộp điện lại bị hỏng? Trong bóng tối, cảm giác như
ông nội vỗ vai tôi, giọng nói đầy cảnh giác: “Tiểu Liên, con ở đây chờ
ông, ông vào phòng quản lý xem thế nào.”
Bốn bề bỗng dưng lặng
ngắt như tờ. Trong bóng tối, tôi dường như còn loáng thoáng nghe thấy
giọng ông nói: “Tiểu Liên, chúng ta vào mật thất lấy Trấn Hồn Châu đi.”
Tôi thoáng khựng lại, cười nói: “Con từng xem bản đồ của mật thất rồi, cho
dù là trong bóng tối con cũng sẽ tìm được, thì ra ông nội muốn thử con?” Vừa nhận biết phương hướng, tôi quay người đi ra đằng sau. Tiếng bước
chân của ông nội vang lên sau lưng, từng bước từng bước, nhưng hình như
nhanh nhẹn hơn thường ngảy rất nhiều.
Lặng lẽ đi khoảng mấy chục bước, tôi rẽ phải rồi đứng sát vào tường, người đó đi theo tôi, tôi đột ngột thò một chân ra, người đó nhanh nhẹn tránh được và không còn giả
giọng ông nội nữa, một giọng nói trẻ trung thoáng mang vẻ ngạc nhiên:
“Đoạn Mộc Liên, không ngờ bị cô phát hiện ra.”
Tôi chẳng buồn
đếm xỉa gì tới hắn, cầm điện thoại đi động ra, bật nắp, có chút ánh sáng yếu ớt đó cũng đủ để tôi nhìn rõ tình thế trước mắt. Tôi tiện tay túm
lấy cái bình cứu hỏa đặt trong góc, ném vào đầu của kẻ đang mặc bộ quần
áo dạ hành[5], nhưng hắn nhanh nhẹn tránh được, “rầm” tiếng thủy tinh vỡ vang vọng trong Viện Bảo tàng rộng lớn. Tôi không đánh trúng hắn, nhưng đánh trúng cái tủ kính sau lưng hắn, cơ thể mất thăng bằng ngã nhào về
phía trước, tay phải vô thức chống xuống đất, bỗng cảm giác mặt đất mềm
nhũn như bùn, rồi bị lún sâu vào. Tôi nghe thấy tiếng ông nội ở đằng xa, nhưng không kịp trả lời, đất trời xoay chuyển, cả tôi và gã trộm mặc đồ đen bị rơi xuống mật thất dưới lòng đất. Thì ra nơi đặt Trấn Hồn Châu ở ngay đây, vừa nãy bàn tay tôi đã chạm vào cơ quan của mật thất. Tôi ngã đập lưng xuống đất, thấy xung quanh được bao phủ bởi một vầng ánh sáng
màu tím nhạt, một viên trân châu sáng rực được đặt ngay ngắn trên một
cái cột hình tròn ở chính giữa căn phòng đá, lớp lông thiên nga màu xanh lam đậm càng khiến nó trở nên thần bí, quý giá.
[5] Là bộ đồ màu đen để thuận tiện di chuyển trong bóng tối.
“Bây giờ anh biết… vì sao tôi chắc chắn anh là giả rồi chứ?” Tôi nhìn người
mặc áo đen đang đứng trước mặt, yếu ơt nói, “Bởi vì tôi chưa từng nhìn
thấy bản đồ mật thất, nếu không thì cũng chẳng vô tình mà rơi xuống
đây.” Tôi cố bò về phía hắn.
“Cũng cảnh giác nhỉ, con cháu nhà
Đoạn Mộc quả nhiên không đơn giản.” Người áo đen trầm giọng nói, liếc
tôi một cái rồi đi thẳng về phía Trấn Hồn Châu, vừa mới cầm nó vào trong tay đã bị tôi đang nằm dưới đất ngoắc chân ra, suýt nữa thì ngã, bàn
tay đang cầm Trấn Hồn Châu chống vào tường theo phản xạ.
Cạch
một tiếng, viên Trấn Hồn Châu lún vào một cái hố trên tường, dường như
đúng vào một cơ quan nào đó, chính giữa bức tường nứt ra, căn phòng sáng trưng như ban ngày, tôi bị ánh sáng chói mắt làm đau nhói, thấp thoáng
thấy một chiếc gương đồng đang chầm chậm nhô lên, tỏa ra ánh sáng rực rỡ như ánh mặt trời. Người mặc áo đen thoáng ngỡ ngàng giây lát rồi hân
hoan hét lên: “Gương Thanh Loan! Gương Thanh Loan!” Rồi kích động lao về phía nó.
Tôi giật mình, đầu óc bỗng trở nên trống rỗng, chỉ
biết là chiếc gương Thanh Loan không thể nào bị mất từ tay tôi, bèn cố
bò ra, túm lấy chân hắn, nói: “Không được… không ai được mang nó đi!”
Gã áo đen nóng lòng thoát khỏi tôi, bàn tay đánh mạnh một cái, trúng vào
sống lưng tôi, đau đớn vô cùng, nhưng tôi vẫn không buông tay.
“Buông tay, nếu không ta sẽ giết ngươi.” Hắn cúi đầu nhìn tôi, hai mắt hằn tia máu đỏ như thể kiên quyết phải lấy được gương Thanh Loan.
Tôi
hốt hoảng, bỗng buông lỏng tay ra, gã áo đen cũng ngẩn ngơ, tưởng là tôi sợ chết, bèn nhìn tôi đầy mỉa mai, rồi quay người đi về phía chiếc
gương Thanh Loan. Tôi cố hết chút sức lực cuối cùng, đứng bật dậy, nhân
lúc hắn đang quay lưng về phía tôi, nhanh chóng rút khẩu súng lục màu
bạc nơi thắt lưng hắn.
“Đứng im!”
Nhưng hắn cũng là cao
thủ, tiếng “im” còn chưa nói xong thì hắn đã nhanh nhẹn quay người ôm
lấy tôi, giữ chặt cánh tay tôi, bên tai tôi vang lên giọng nói lạnh lẽo: “Muốn chết phải không? Ta sẽ cho ngươi toại nguyện.”
“Nhưng ta
không để cho ngươi đắc ý đâu!” Tôi liền giằng mạnh cánh tay rồi chĩa đầu súng vào ngực mình. Lúc giằng co thì tôi nghe thấy “bùm” một tiếng,
tiếng vọng vang lên khắp nơi như những hạt bụi bay trong không khí. Uy
lực của khẩu súng này đủ để xuyên qua trái tim của hai người. Xung quanh lặng ngắt như tở, yên lặng tới nỗi tôi có thể nghe thấy tiếng viên đạn
đang xuyên qua máu thịt mình.
Ánh sáng vàng rực của chiếc gương
Thanh Loan cùng ánh sáng màu tím nhàn nhạt tỏa ra từ Trấn Hồn Châu bay
lướt trước mắt tôi, tôi bất giác đưa tay ra, nhưng chẳng nắm được cái
gì. Cơ thể tôi bồng bềnh tựa mây rồi bay lên, bay lên, trước mắt bỗng
tối om, tôi mất đi tri giác.
3.
“Nô tì cầu xin My
chủ nhân, xin hãy thủ hạ lưu tình, tiểu thư nhà tôi từ nhỏ chưa phải
chịu chút khổ sở nào, e rằng sẽ xảy ra án mạng mất.” Tiếng cầu xin thảm
thiết kèm theo tiếng khóc xé lòng thấp thoáng vang lên bên tai tôi.
“Chẳng qua là bị vài cái roi mà giả bộ chết. Người đâu, làm ả tỉnh cho ta!”
Một giọng nói yêu mị và mỉa mai lẫn trong tiếng cười lạnh lẽo vang lên.
Ý thức của tôi vẫn chưa tỉnh táo lại, bỗng dưng bị một chậu nước lạnh
giội vào, mọi vết thương trên khắp cơ thể đau nhói, tôi chầm chậm mở mắt ra, tầm mắt tôi chạm vào một chiếc váy gấm màu xanh nhạt mặc trên người mình, nhưng trên đấy đã lốm đốm vết máu, trông vô cùng thảm hại. Những
giọt nước trên mặt chảy xuống theo từng sợi tóc, chảy qua những vết
thương đang nứt miệng khiến đau đớn khôn tả.
Đây là đâu? Tôi
ngẩng đầu dậy, đối diện với một ánh mắt đẹp lạnh lùng của một người đàn
bà xa lạ. Trên người cô ta là một chiếc váy lụa mỏng màu cam rực rỡ, đôi mắt phượng xếch lên, xương gò má rất cao, bông hoa mẫu đơn màu vàng cài trên đầu thoáng chuyển động. Không thể nói là đẹp, nhưng cũng có vài
phần nhan sắc. Ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế gỗ màu đỏ đặt chính giữa
căn phòng, bên cạnh là mấy thị nữ và nam bộc đang cung kính đứng hầu, có vẻ là người có chức có quyền, nhìn tôi đầy đắc ý.
“Tiểu thư,
tiểu thư!” Người thị nữ ban nãy cầu xin cho tôi đang quỳ bên cạnh, thấy
tôi tỉnh lại, vội vàng vừa khóc vừa bò tới chân tôi, nước mắt giàn giụa.
Nhìn vào trang phục của họ thì chẳng nhẽ tôi quay lại thời cổ đại rồi!? Đây
là triều đại nào, tôi có thân phận gì!? Tôi nhờ vào sức mạnh của gương
Thanh Loan nên mới giữ được tính mạng sao!? Nó với Trấn Hồn Châu ở đâu
rồi!?
Hoàn toàn không hiểu được tình hình trước mắt, tôi chỉ cảm thấy trong đầu mình rối tung, những vết thương trên người đau nhức. Mắt liếc nhìn người thị nữ quỳ dưới chân mình, bỗng dưng tôi ý thức được
rằng cô ta đang khóc vì tôi, trong lòng chợt thấy ấm áp, giọng nói nghẹn ngào: “Tôi không sao.”
“Bích Hương vô dụng, tại Bích Hương
không cứu được tiểu thư.” Cô ta thấy tôi yếu ớt lên tiếng an ủi thì càng khóc dữ hơn, quay người về phía người phụ nữ yêu mị, dập đầu liên tục.
“My chủ nhân, cầu xin người tha cho tiểu thư nhà tôi, cùng là tì thiếp của
Tư Không phủ, hà cớ gì phải đấu nhau để người chết ta sống. Huống hồ Tư
Không đại nhân cũng sắp quay về rồi.”
“Câm miệng!”
Một
tách trà bay ra, đập đúng lên người nha đầu đó, nước trà nóng còn đang
bốc khói đổ lên làn da non nớt của cô ấy, vang lên tiếng “xèo xèo”. Tôi
bất giác nổi giận, trói rồi đánh tôi thế này là quá lắm rồi, lại còn
không tha cho cả một con nha đầu sao?
Người phụ nữ yêu mị mặc bộ trang phục màu cam nhướng mày nói: “Không ngờ chủ nhân vô dụng nhà
ngươi lại có một con nha đầu lanh lợi như vậy! Chỉ tiếc rằng nó lanh lợi không đúng chỗ!” Ả vừa cười lạnh vừa liếc tôi một cái, nói, “Chủ nhân
nhà ngươi không được sủng ái, có phải ngươi không biết đâu. Hôm nay ta
cũng chẳng ngại gì mà nói trắng ra, cho dù hôm nay ả có chết ở chỗ Yên
Vân Các của ta thì Tư Không đại nhân cũng chẳng có nửa lời trách tội.”
Nói rồi ả đưa tay áo lên che miệng cười, quay về phía tôi, nói tiếp:
“Nói không chừng nhờ tay ta để tiêu diệt ngươi lại đúng ý của chàng.”
Nghe tới đây, tôi bất giác ngạc nhiên, từ lời của Bích Hương mà nói thì tôi
với người phụ nữ này cùng là tì thiếp của Tư Không gì đó, rõ ràng ả ta
muốn nhân lúc ông xã không có nhà mà ra tay tiêu diệt tình địch. Nhưng
vì sao ả lại nói rằng Tư Không đại nhân gì gì đó cũng muốn đưa tôi vào
chỗ chết?
“Chị gái này, tôi với chị cùng chung một chồng, lẽ ra
phải thương yêu nhau. Giờ trở mặt với nhau thì cũng phải cho tôi một lý
do chứ? Rốt cuộc là tôi đã phạm phải lỗi gì mà chị lại dùng tư hình với
tôi? Nếu không cho dù có lập được công với Tư Không đại nhân thì chắc
chị cũng vẫn chỉ là kẻ vô danh?” Tôi nhếch miệng lên, cố gắng để nụ cười của mình trông thật hiền hòa, lễ phép. Nhưng trong lòng thì đang bốc
hỏa, sao mà mình xui xẻo thế nhỉ, ở thời hiện đại bị một kẻ trộm giết
chết thì thôi, về đến cổ đại lại còn phải chịu nỗi khổ về thân xác. Cùng chung một chồng với người khác tôi còn nhịn được, cùng lắm thì bỏ nhà
ra đi, thế mà lại còn không được sủng ái, đúng là trúng số độc đắc. Ha
ha!
Hình như không ngờ tôi sẽ nói những lời này, người phụ nữ
mặc áo cam thoáng khựng lại, nhìn tôi đầy kinh ngạc, không biết trả lời
thế nào.
Tì nữ Bích Hương quỳ dưới chân tôi thì nhìn tôi hốt
hoảng, ngay sau đó quay đầu lại nói: “Đúng đấy My chủ nhân, tiểu thư nhà tôi cho dù có lấy trộm cây trâm ngọc của Dương Chỉ Bích của người thì
cũng không đến nỗi phải chịu tội chết chứ? Đã phải chịu mấy roi, chắc
lửa giận của người cũng nguôi rồi chứ? Nô tì to gan nhắc nhở người một
câu, ngoài Tư Không đại nhân, còn có bên Tể tướng phủ cũng cần phải để ý đấy ạ.”
Quả nhiên là một con nha đầu lanh lợi, tôi nhìn cô ta
khen ngợi. Mặt người phụ nữ được gọi là My chủ nhân thoáng tái xanh, rồi trắng bệch, bị mất mặt trước bao nhiên người nên ả giận dữ lườm Bích
Hương.
“Cẩu nô tài to gan, dám dạy dỗ ngược lại chủ nhân à? Chủ
nhân nhà ngươi ít nhiều gì cũng là một tì thiếp, ngươi là cái thá gì mà
dám nói với ta như vậy?” Nói rồi đánh mắt ra hiệu, một nam bộc sau lưng ả nghe lời chạy lên trước rồi giáng mạnh một cái tát vào mặt Bích Hương.
Sau mấy cái tát, máu chảy ra từ khóe miệng cô nàng.
“Dừng tay!”
Tôi không biết mình lấy sức ở đâu ra mà có thể hét to như thế. Gã nam
bộc kia dừng ngay tay lại vì tiếng hét bất ngờ của tôi.
“Có giỏi thì giết ta đi, hà tất phải xả giận với một kẻ hầu tay không tấc sắt, tự nhiên lại tự hạ thấp thân phận của mình.”
Tôi hít sâu một hơi, nhướng mày lên nói: “Nếu không phải trong lòng cô đang sợ điều gì đó thì đã không nhân lúc Tư Không đại nhân không có nhà mới
dám động đến tôi. Hôm nay tôi cũng nói thẳng ra, tôi chẳng muốn tranh
chấp với cô cái gì, cô cũng nên biết điểm mà dừng. Nếu không nỗi nhục
hôm nay chắc chắn sẽ có ngày tôi đền lại gấp nhiều lần.”
Những
lời đàm phán, uy hiếp, dọa dẫm rất điển hình. Trên mặt tôi là vẻ điềm
tĩnh hiếm có, nhưng tim thì đang đập thình thịch, ai mà biết người đàn
bà điên này có thực sự giết tôi diệt khẩu hay không?
Mặt của ả
ta lại càng tái nhợt, nhìn tôi một lúc lâu rồi bật cười lạnh: “Nguyên
Thanh Tỏa, thì ra ta đã coi thường ngươi rồi! Hôm nay ta tạm tha cho
ngươi, để xem sau này ngươi còn dám lợi dụng thế lực nhà mẹ đẻ ngươi để
động tâm tư với Tư Không đại nhân hay không?” Nói xong ả căm phẫn đứng
lên, đưa đám tùy tùng bỏ đi.
Trong căn phòng tối tăm lạnh lẽo
bỗng chốc chỉ còn lại sự yên tĩnh. Bích Hương khóc lóc cởi dây thừng ở
chân tay tôi ra, trên làn da trắng ngần hằn lên những vết máu.
Tôi mệt mỏi ngồi bệt trên mặt đất, nghĩ lại mọi điều vừa xảy ra, cảm giác
như một giấc mộng. Xuyên không vào thời cổ đại đã đành, lại còn xuyên
không đến cái nơi quái quỷ này. Nhớ tới ông nội, nhớ tới căn nhà ở thế
kỷ XXI của tôi, cảm thấy tim mình chùng xuống.
4.
“Tiểu thư, sau này chúng ta phải làm thế nào, làm thế nào? Tiểu thư phải như
thế từ lâu mới đúng, thỏ bị dồn vào chân tường cũng biết cắn người đấy,
My chủ nhân thật là ức hiếp người quá đáng! Ít nhiều gì cũng là người
được Tể tướng đại nhân ban cho, bà ta chẳng qua là đố kỵ với thân phận
cao quý của người mà thôi. Tiểu thư, đừng trách nô tì lắm lời, Vũ Văn
công tử tuy rằng tướng mạo đường hoàng, khí độ bất phàm, có vẻ là một
công tử hào hoa phong độ, nhưng trên thực tế chẳng qua chỉ là một gã cả
ngày chỉ biết ăn chơi ở mấy chỗ phấn hoa, đâu đáng để tiểu thư một lòng
tình sâu nghĩa đậm với chàng.”
Tôi nằm trên đất, cả người đau
nhức, vừa ăn chút cơm canh nguội ngắt mà My chủ nhân sai người mang tới, trong lòng như có một đám mây mù che khuất. Bích Hương thì cứ lải nhải
bên tai, để làm rõ thân phận của mình, tôi đành phải im lặng lắng nghe.
Nghe khoảng gần nửa canh giờ, cuối cùng cũng đại khái hiểu được thân thế của mình.
Tiểu thư nhà cô ta tên là Nguyên Thanh Tỏa, là cháu
gái họ xa của Nguyên Thị (vợ của Tể tướng đại nhân Vũ Văn Hộ), làm tì
thiếp của Tư Không đại nhân Vũ Văn Dung. Vũ Văn công tử gì gì đó thì là
một kẻ rất trăng hoa, ngoài mặt thì vui vẻ chấp nhận, nhưng trên thực tế lại chẳng đoái hoài gì đến nàng. Các tì thiếp khác trong phủ thấy nàng
thân phận cao quý nhưng tính tình yếu đuối nên thường nghĩ ra đủ mọi
cách để ức hiếp nàng. My chủ nhân ban nãy tên thật là Giang Yến My, hiện nay đang được sủng ái nhất, bởi vậy đương nhiên cũng ra tay độc ác hơn
những người khác. Nguyên Thanh Tỏa sau khi bị chịu mấy roi thì bất tỉnh
nhân sự, hôn mê một ngày một bêm, sau khi tỉnh dậy thì biến thành Đoạn
Mộc Liên tôi.
“Vị Vũ Văn công tử này tổng cộng có bao nhiêu tì
thiếp?” Tôi thấy tò mò, bất giác mở miệng ra. Lời nói vừa thốt ra đã cảm thấy hơi không ổn, chỉ sợ con nha đầu lanh lợi này phát hiện ra sự khác thường của tôi.
“Haiz, tiểu thư ngày nào cũng nhốt mình trong
phòng, chả trách người không biết. Trong Yên Vân Các này có hai mấy tì
thiếp, còn chưa tính các ca kỹ vũ nữ trong phủ… Vũ Văn công tử bản tính
phong lưu là việc mà cả nước đều biết, uổng công tiểu thư một lòng một
dạ với chàng, mà chàng ta đâu đoái hoài đến. My chủ nhân lăng mạ tiểu
thư ngay trước mặt chàng, chàng chẳng buồn nhìn tiểu thư một cái, cũng
chả trách mọi người đều cưỡi lên đầu lên cổ chúng ta. Tiểu thư ngày nào
cũng nhốt mình trong phòng, không thêu khăn thì ngồi khóc, các tì thiếp
khác chỉ biết ganh ghét, đố kị, thực ra tấm lòng người dành cho Vũ Văn
công tử thì họ nào có biết.”
Con nha đầu này lanh lợi thì lanh
lợi, nhưng khuyết điểm là nói nhiều, tôi hỏi có một câu, nó chẳng chớp
mắt lấy một cái đã trả lời tôi hàng chục câu.
Nhưng từ lời của
nó tôi lại biết thêm rất nhiều chuyện của Nguyên Thanh Tỏa. Xem ra tuy
rằng cô ta không được sủng ái nhưng lại rất yêu thương gã công tử đào
hoa kia. Nói ra đúng là cũng khổ cho cô ta, không nhưng phải chịu đựng
nỗi đau khổ khi người mình thích ở cùng người khác mà lại còn phải chịu
nỗi đau thể xác, cả cơ thể lẫn trái tim đều bị dày vò, chả trách vừa mới chịu vài roi đã bất tỉnh nhân sự. Tôi bất giác thấy căm ghét cái gã Vũ
Văn công tử mà mình chưa từng gặp mặt này, đúng là một gã đàn ông vô
trách nhiệm, cho dù phụ nữ thời cổ đại không có địa vị, có thể tặng qua
tặng lại như một món quà, nhưng không thích thì đừng có nhận, hà cớ gì
phải hủy hoại cả cuộc đời của người ta.
Nhưng nói ra thì thấy
cái tên Vũ Văn Dung nghe thật là quen, hình như là một nhân vật rất nổi
tiếng trong lịch sử. Lại còn Tể tướng Vũ Văn Hộ, hình như là một cái tên có mối quan hệ khá lằng nhằng với Vũ Văn Dung, nhắc tới một trong hai
người thì không thể không nhắc tới người còn lại. Giữa họ rốt cuộc là có mối quan hệ gì, sau này sẽ xảy ra chuyện gì!? Chắc là trong sách lịch
sử đều có ghi chép lại. Nhưng giờ toàn thân tôi mệt mỏi, tinh thần thì
hoảng loạn cho dù có vắt kiệt óc thì cũng không thể nhớ ra được cái gì.
Chỉ nhớ mang máng rằng họ đều là những người trong Hoàng thất của Bắc
triều.
Tôi nhìn Bích Hương, rồi đột nhiên nghiêm túc nói: “Bích
Hương, chúng ta chạy trốn đi.” Ở đây đã chẳng vui vẻ gì thì hà tất gì
tôi phải mua dây buộc mình? Nghĩ lại tôi đường đường là một người hiện
đại, tôi không tin là rời khỏi Tư Không phủ này, tôi lại không sống nổi. Hơn nữa tôi cũng có thể thăm dò dấu vết của chiếc gương Thanh Loan, nếu tìm luôn được Trấn Hồn Châu thì nói không chừng có thể quay về thời
hiện đại.
“Tiểu thư, người nói thật chứ ạ?” Bích Hương khựng
lại, trợn tròn mắt nhìn tôi hồi lâu, khàn giọng nói, trong giọng nói
tràn đầy vẻ không ngờ. Nghĩ lại, cái cô nàng Nguyên Thanh Tỏa đó vốn là
một người con gái yếu ớt, ngày trước chắc không thể nào có suy nghĩ này.
Tôi không trả lời mà đứng lên loạng choạng đi tới bên cửa sổ, hí hoáy một lát, mở được bản lề cửa rồi nhanh nhẹn trèo ra ngoài.
“Nào, ngươi giẫm lên ghế rồi trèo qua cửa sổ, ta đỡ ngươi.” Tôi đưa tay ra,
hạ thấp giọng nói, lúc này tôi đã đứng bên ngoài cửa sổ, Bích Hương đứng nhìn tôi có một chút do dự, nhưng cuối cùng vẫn làm theo lời tôi nói.
Lúc này đã là đêm khuya thanh tĩnh, trong Yên Vân Các toàn là đàn bà phụ
nữ, người gác cửa cũng đứng ở cách xa mười trượng. Tôi vừa kéo Bích
Hương trèo lên bức tường cao ngất của phủ viện thì sau lưng ánh lửa ngợp trời. Tôi quay đầu lại, thấy một người đàn ông trẻ tuổi mi thanh mục tú đuổi theo sau lưng tôi, nhìn y phục thì đoán chắc là thống lĩnh thị vệ
của Tư Không phủ. Sau lưng hắn là một đám nô dịch trong phủ cũng cầm
đuốc trong tay chạy tới, Bích Hương giật mình, hai tay lỏng ra, suýt thì ngã khỏi bức tường. Tôi nhanh tay kéo nó một cái, khiến chính tôi cũng
lảo đảo suýt thì ngã xuống.
“Thanh chủ nhân, người có biết tự ý
rời phủ là mắc tội gì không?” Thống lĩnh thị vệ đứng dưới chân tường,
ngẩng đầu nhìn tôi, tuy rằng miệng gọi tôi là chủ nhân nhưng trong giọng nói chẳng có chút gì gọi là tôn kính.
Bích Hương vẫn lơ lửng
trên tường, tôi khó nhọc giữ vững tư thế của mình, nếu cứ thế này thì cả hai chúng tôi đều sẽ rơi xuống. Tuy rằng tình thế nguy cấp, nhưng cái
miệng tôi vẫn không chịu buông tha cho người khác, cười lạnh một tiếng:
“Ngươi làm thị vệ giỏi lắm. Ta ở trong phủ bị người ta đánh cho dở sống
dở chết thì ngươi coi như không thấy, tới khi ta bị ép tới mức phải tự
tìm đường sống thì hỏa nhãn kim tinh của ngươi lại phát hiện ra ngay. Tự ý rời phủ bị mắc tội gì thì ta không biết, lệnh của My chủ nhân thì
ngươi đi mà hỏi nàng ta!”
Gã thị vệ đó sửng sốt nhìn tôi, dường
như không dám tin rằng những lời này do chính tôi thốt ra, trên mặt
thoáng qua một tia hoang mang, ngập ngừng một lát, vừa định nói điều gì
đó, nhưng tôi đã không kiên trì được nữa, bàn tay Bích Hương từ từ tuột
ra, tôi giật mình, giọng nói đành thay đổi 180 độ.
“Thực ra việc hôm nay là ý của một mình ta, tì nữ Bích Hương đã khổ sở giữ lại nhưng
ta kiên quyết làm việc này, bỏ lại nó một mình bỏ chạy. Đón lấy!” Lòng
bàn tay trượt ra, Bích Hương rơi xuống chân tường, tôi đành mượn lực hất một cái, ném nó về phía đám thị vệ.
Nghe tiếng hét của tôi, gã
thị vệ vô thức đưa tay ra đón, ôm trọn Bích Hương, thấy nó không còn
nguy hiểm gì, tôi thở phào một hơi.
“Sở tổng quản, tôi xin người tha cho tiểu thư nhà tôi, người chỉ vì quá nông nổi.” Bích Hương vừa
mới hoàn hồn đã lập tức quỳ thụp xuống cầu xin thay tôi, nhìn tôi đầy lo lắng.
“Sở tổng quản, ngươi cũng thấy rồi đấy, việc ta bỏ trốn
thực sự không liên quan gì tới Bích Hương. Chỉ xin ngươi niệm tình nó vô tội, cứ bẩm báo đúng sự thực với Tư Không đại nhân, bảo toàn tính mạng
cho nó. Tiểu Liên cảm kích vô cùng, sau này chắc chắn sẽ báo đáp ơn ngày hôm nay.” Tôi nghiêm mặt nói, nhìn hắn đầy chân thành rồi quay người
nhảy xuống bờ tường bên kia.
5.
Cái gã Sở tổng quản đó chắc chắn không phải là một thùng nước gạo. Sau khi tôi thoát khỏi
phủ, hắn phái người đi truy nã tôi khắp nơi, tiếng vó ngựa vang lên dồn
dập, chắc là tôi chỉ chạy được tầm hai dặm là sẽ bị hắn bắt lại. Tôi
đành trốn trong miệng giếng ở dưới chân tường Tư Không phủ rất lâu, chờ
bọn người đuổi theo tôi đi xa rồi mới dám ra ngoài. Giờ chỉ hi vọng cái
gã Sở tổng quản không phải thùng nước gạo này có một chút tinh thần
chính nghĩa, thay tôi bảo vệ Bích Hương.
Trốn trong giếng suốt
một đêm, bên ngoài đã dần dần không còn động tĩnh gì nữa, tôi nhanh nhẹn men theo con phố đi về phía Bắc, cảm giác hoang mang lớn dần lên, không biết nên đi về đâu. Quốc gia này không phải là bần cùng, nhưng chắc
chắn cũng không giàu có, dân chúng mà tôi gặp đều mặc áo vải, ăn uống
đơn giản, đến cả mấy quán hàng ăn ngoài phố cũng chỉ bán mấy món đồ ăn
bình thường. Ra tới chợ, tôi dùng khuyên tai đổi lấy một con ngựa, đi về phía Nam, nghĩ bụng thiên hạ lớn thế này, kiểu gì cũng có một chỗ cho
tôi dung thân. Nhưng tôi lại nghĩ không biết chiếc gương Thanh Loan đang ở đâu, năm châu bốn bể, tôi biết tìm ở đâu, thế là lòng tôi lại thấy
trĩu nặng như có một đám mây đen đang vây lấy mình, không tìm được
phương hướng.
Ra khỏi thành, đi về phía Nam rất lâu, xung quanh
đều là đồng không mông quạnh, tôi đi đường dài mệt mỏi, tâm trạng thì
bất an, lúc này đã gần như không còn sức lực. Vừa định xuống ngựa nghỉ
ngơi thì bỗng nghe thấy một tiếng vút, rồi một thanh trường đao không
biết từ đâu bay tới, cắm đúng vào con ngựa bên dưới tôi, con ngựa hoảng
hốt, hai vó trước nhấc lên, hất tôi xuống đất. Tôi đau đớn nằm trên mặt
đất không ngồi dậy nổi, phẫn nộ đang định quay đầu cãi nhau với kẻ ngang ngược nào đó một trận, ai ngờ vừa quay đầu lại, tôi đã sững sờ với cảnh tượng trước mắt.
Từ đằng xa thấy một đội binh sĩ mặc áo giáp
đồng lao tới, trên đầu buộc dải lụa màu đỏ, trong tay nắm những chiếc
trường thuẫn cán gỗ có tua rua màu đỏ, hò hét ầm ĩ như nước thủy triều
cuộn tới. Cát vàng cuộn lên, tiếng vó ngựa nện xuống mặt đường, đằng sau đám bộ binh còn một đám kị binh cưỡi ngựa cầm thuẫn lao tới, đồng thanh hò hét cái gì đó, tiếng hét lẫn vào tiếng bước chân vang như sấm rền
khiến tôi bất giác thấy một nỗi sợ hãi không đọc được thành tên. Cả
người tôi vốn đã đau nhức khôn cùng, giờ lại đột nhiên phải chứng kiến
cảnh tượng này khiến tôi cảm thấy chút sức lực ít ỏi trên cơ thể yếu
đuối của tôi đã bay biến hết. Đột nhiên sau lưng cũng vang lên tiếng
giết, quay ngoắt đầu lại, sau lưng lại một nhóm quân khác đang tiến tới, trên đầu buộc dải lụa màu xanh, số lượng ít hơn đối phương rất nhiều,
nhưng sát khí thì vô cùng đáng sợ, mấy binh sĩ đi đầu nắm đao lao tới,
trong mắt là sự bi phẫn và những tia máu đỏ ngầu.
Cát vàng cuộn
lên, che mờ đôi mắt tôi, tôi ngơ ngác nhìn phía trước, thấy tim mình đập dữ dội, tai như ù đi. Tiếng kim loại va chạm vào nhau, tiếng máu phun
ra, tiếng thân người đổ rạp xuống đất…
Một binh sĩ bị chém ngã
ngay trước mặt tôi, động mạch ở cổ bị nứt ra sau một nhát dao, máu tươi
phun ra trước mặt tôi, nhuộm đỏ cả chiếc váy lụa mỏng màu xanh khói. Vai tôi thoáng run rẩy một cảm giác sợ hãi chưa từng có chiếm trọn trái tim tôi.
Vốn tưởng rằng cảnh tượng này chỉ có trong những bộ phim
truyền hình, có nằm mơ cũng không ngờ được rằng có một ngày mình phải
tận mắt chứng kiến toàn bộ. Trên chiến trường, vô số mạng sống đang biến mất, trong không khí ngập tràn mùi máu tanh và chết chóc.
Lúc
này tôi mới ý thức được thế giới mà mình ở đáng sợ như thế nào. Ở trong
phủ phải đấu trí với những người đàn bà khác, tính toán, giăng bẫy lẫn
nhau, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ mất mạng. Ra khỏi phủ lại phải gặp
một thế giới đầy mùi máu tanh khác. Các dân tộc còn chưa thống nhất, hỗn chiến liên miên, trên đường đầy những người chết đói, máu chảy thành
sông, đây chính là Bắc triều?
Vì đôi bên quân số chênh lệch nên
bên buộc lụa xanh nhanh chóng ở vào thế hạ phong. Đúng vào lúc này, ở
phía Tây có một con ngựa trắng lao tới nhanh như điện, người đàn ông
ngồi trên ngựa mặc một bộ áo giáp màu bạc sáng lóa, phản chiếu dưới ánh
mặt trời hoàng hôn đang ngả về Tây khiến ánh sáng ấy trở nên vàng rực rỡ chói mắt. Người đó đeo một chiếc mặt nạ màu bạc, trông vô cùng đáng sợ, lạnh lùng mà tràn đầy sát khí, tay cầm trường kiếm cưỡi ngựa lao tới,
đánh Đông dẹp Bắc, nhanh chóng mở đường máu, nhất thời không ai có thể
lại gần. Chàng đột nhiên giữ cương ngựa dừng lại, giơ cao thanh trường
kiếm chỉ lên trời. Nhìn từ góc độ của tôi, chỉ thấy ánh bạc chói mắt,
cái bóng chàng cầm thanh trường kiếm chỉ lên trời trong ánh chiều tà
trông thật là anh tuấn, nhìn từ đằng xa, cảnh tượng đẹp như tranh vẽ.
Xung quanh bỗng vang lên tiếng hét vang trời, phảng phất như một kiểu ám thị nào đó, trường kiếm của chàng vừa hạ xuống, trong bụi cỏ lập tức lao ra vô số binh sĩ đầu quấn lụa xanh, mặt họ đều được bôi một chất gì đó có
màu xanh như cỏ, dường như đã mai phục rất lâu. Trong đám quân đó có một người hét lớn: “Trúng kế rồi”, sau đó là tiếng chém giết nhau vang lên
ngập trời.
Trong mắt tôi không biết từ khi nào đã chỉ là một
cảnh tượng mông lung, màu đỏ của máu khiêu vũ trước mắt, một binh sĩ bị
chặt đứt một cánh tay hét lên đau đớn rồi ngã lên người tôi, tôi bị đè
xuống đất, cảm giác tứ chi mình dường như mất đi cảm giác, không còn sức để đẩy hắn ra. Không biết đã trôi qua bao lâu, thế giới dần dần yên
tĩnh lại. Khung cảnh tang thương, điêu tàn.
Bên xanh đã chiến
thắng, các tướng sĩ đang mệt mỏi dọn dẹp chiến trường, áp tải những con
tin của bên chiến bại, đồng thời cứu chữa cho những người còn sống của
bên mình. Gã binh sĩ bị đứt tay đè lên người tôi đã được cứu đi, trước
mắt tôi là bầu trời màu tối. Khóe mắt cay đau nhói, tôi vô thức nhìn lên không trung, đối diện với một ánh mắt sâu thẳm lặng lẽ như mặt hồ.
Bên chân trời màu đỏ thẫm, tia mặt trời cuối cùng đã lặng lẽ biến mất. Bộ
khôi giác màu bạc trên người chàng tỏa sáng lấp lánh, lạnh lẽo như ánh
trăng, chiếc mặt nạ độc ác đáng sợ này trông thật là quen thuộc, đầu óc
đang rối loạn, tôi không tài nào nhớ nổi mình đã nhìn thấy nó ở đâu.
Chàng cúi xuống đỡ tôi dậy, đôi mắt sau tấm mặt nạ sáng tỏ như gương,
lạnh lùng không một gợn sóng, lòng bàn tay to lớn và ấm áp, hơi ấm thấm
qua làn áo mỏng, đi vào da thịt tôi, chỉ vậy thôi mà dễ dàng khiến những giọt nước trong mắt tôi lăn ra.
“Vì sao… vì sao người ở đây
nhất định phải giăng bẫy, chém giết, tàn sát nhau? Vì sao không thể
chung sống hòa bình mà nhất định phải người sống kẻ chết? Vì sao? Vì sao lại có chiến tranh?” Dựa vào lồng ngực ấm áp của chàng, tôi đột nhiên
túm lấy tay áo chàng, ánh mắt mờ đi, khàn giọng nói. Nước mắt lã chã lăn xuống, cảm giác chua xót nghẹn ứ trong tim.
Đôi mắt sau tấm mặt nạ thoáng khựng lại, dường như đang nhìn tôi dò xét, thấp thoáng có thể thấy hàng lông mi dày của chàng đang chuyển động.
Cho dù là ai
chết thì cũng có người buồn vì người đó. Mình đi rồi, chắc là ông nội
cũng đau lòng lắm. Vì sao phải giết người, vì sao lại khiến người khác
phải buồn?… Không biết từ lúc nào, nước mắt tôi đã giàn giụa khắp mặt,
lẩm bẩm lại bao lần, đôi tay vẫn nắm chặt lấy tay áo chàng, rồi bỗng
nhiên thấy mắt mình hoa lên, ý thức dần dần bị rút kiệt.
Dường
như nhìn thấy đằng sau tấm mặt nạ, trong đôi mắt lặng lẽ của chàng
thoảng qua một cơn sóng nhỏ, chàng đưa ngón tay thuôn dài ra lau những
giọt lệ trên má tôi, nói khẽ vào tai tôi điều gì đó, rồi bế bổng tôi
lên.
Vòng tay chàng ấm áp quá, khiến tôi quay về thời cổ đại đã
lâu lần đầu tiên có cảm giác an lòng. Dường như tôi còn ngửi thấy một
mùi hương độc nhất vô nhị, nhẹ nhàng, thanh tao, nhưng đi vào lòng
người.
Trải qua nỗi sợ hãi và những đau đớn trên cơ thể, tôi dần mất đi tri giác, trong lúc mơ màng, tôi cảm thấy như mình đang nằm giữa một đám mây, ấm áp mà mềm mại.
6.
Uể oải ngồi dậy, mặt trời đã lên ba con sào. Ở khu doanh trại hoang vắng này tu dưỡng
mấy ngày, sự sợ hãi mấy hôm trước cuối cùng cũng rời xa, biến thành sự
kiên định dẻo dai. Cho dù thế nào, tôi cũng phải sinh tồn tại nơi này,
tìm được gương Thanh Loan và Trấn Hồn Châu, có lẽ tôi phải cược một lần
thì mới có thể quay về thế giới hiện đại, cho dù chỉ có một tia hi vọng
cũng tốt.
Cậu bé chăm sóc tôi mới 11, 12 tuổi, tên là A Tài, chỉ là một đứa trẻ mới lớn, giọng nói lảnh lót như chuông. Nó nói tôi đã
hôn mê hai ngày hai đêm, tướng quân của nó tới thăm tôi một lần, đêm hôm kia đã phụng chỉ hồi kinh rồi.
“Đô thành của các ngươi ở đâu?”
Tôi tò mò hỏi. Bản đồ Bắc triều bị phân chia nhiều mảnh, không biết họ
đang ở bên nào. Nhớ lại ánh mắt sâu thẳm như mặt hồ ẩn sau chiếc mặt nạ
độc ác ấy, trong lòng tôi bỗng thấy ấm áp một cách kì lạ.
A Tài
thoáng ngơ ngác, rồi nhanh nhẹn trả lời: “Nghiệp Thành”[6]. Cứ như thể
là người hiện đại không biết Bắc Kinh, có lẽ nó không ngờ lại có người
hỏi nó một câu hỏi ngu ngốc như thế.
[6] Tên một vùng đất thời xưa ở phía Bắc An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
“Nghiệp Thành?” Tôi vô thức lặp lại. Cố tìm kiếm trong đầu chút kí ức liên quan tới vùng đất này.
Xem ra chàng là tướng quân của Bắc Tề rồi.
“Tướng quân nhà ngươi tên là gì?” Tôi hỏi khẽ, nghĩ rằng mình từng được chàng
ôm trong lòng, kéo tay áo chàng vô số lần, hai gò má bất giác ửng hồng.
“Tướng quân nhà tôi anh dũng thiện chiến, đối với bách tính rất tốt, cô nương
sau khi hồi thành tất sẽ nghe được uy danh của người.” Vừa nhắc tới
tướng quân là thằng bé lập tức thể hiện thái độ ngưỡng mộ, không dám nói thẳng tên chàng, lại còn ngạo mạn chơi trò câu đố với tôi. Thì ra nó
coi tôi là một dân nữ ở gần đây.
Nếu thực sự được làm một dân nữ bình thường thì tốt quá, ít ra cũng có nhà, có một nơi có thể về. Nghĩ
tới đây, tim tôi chùng xuống.
“Phiền ngươi lâu quá rồi, ta nên
đi thôi. Ngươi tên là A Tài phải không? Nếu sau này có cơ hội gặp lại
thì ta sẽ dạy ngươi cách phòng địch, đảm bảo chỉ vài ngày ngươi sẽ được
thăng làm thứ trưởng.” Cậu nhóc A Tài này trông cũng đôn hậu, chất phác, tuy rằng chăm sóc tôi rất vụng về, nhưng cũng được coi là một hơi ấm
hiếm hoi mà tôi gặp được kể từ khi xuyên không về thế giới cổ đại.
A Tài nhìn tôi từ trên xuống dưới, vẻ như không dám tin, bật cười khinh
mạn: “Cô? Dạy tôi cách phòng địch? Ha ha, dạy tôi thêu khăn thì còn có
lí.”
Tôi hơi ngẩn ra, xem ra nó thấy tôi rất buồn cười, một nữ
tử yếu ớt thời cổ đại mà muốn dạy đàn ông cách bày binh bố trận chống
địch thì đúng là kì cục. Nhưng là con cái nhà Đoạn Mộc, binh pháp là một môn học bắt buộc. Nhưng tôi chẳng biện hộ gì thêm, chỉ nói: “Đúng rồi,
từ đây cứ đi thẳng thì sẽ đến đâu?”
A Tài nhìn theo hướng tôi
chỉ, nghiêm túc suy nghĩ rồi nói: “Đó là một tiểu trấn, qua khỏi núi Bắc Mang, đi tiếp là tới thành Trường An.”
Nhắc tới thành Trường
An, tôi lại chìm vào suy nghĩ. Đêm qua nửa đêm tỉnh lại, tôi ngồi dậy đi ra vườn hít thở chút không khí trong lành, bỗng nhìn thấy ở phía Tây
không xa có một ánh sáng màu xanh quen thuộc, khả năng xuyên thấu của nó rất mạnh, ánh sáng lập lòe mà tỏa sáng vạn trượng. Tôi không thể nào
nhầm được, đó là ánh sáng của gương Thanh Loan.
“Gương Thanh
Loan xuất hiện, thiên hạ về một mối”, truyền thuyết nói người nào có
gương Thanh Loan thì người đó sẽ có cả thiên hạ. Ông nội cũng từng nói,
gương Thanh Loan là bảo vật của tiên gia, vô tình bị rơi xuống nhân
gian, chỉ có bậc Đế vương cửu ngũ chí tôn mới xứng đáng được có nó. Nói
như thế thì gương Thanh Loan chắc chắn sẽ bị khí chất của Hoàng đế thu
hút, rơi xuống thành Trường An cũng là lẽ đương nhiên. Chỉ sợ rằng nó
rơi phải tay gian thần, hoặc là lưu lạc trong nhân gian, nếu không cẩn
thận, nó có thể khiến cả một triều đại thay đổi. Bởi vậy tôi nhất định
phải tìm thấy nó.
Từ biệt A Tài, nó tưởng là tôi sống trong
thành mà họ vừa tấn công được nên không giữ tôi lại. Tôi dắt con ngựa
hồng nó tặng cho tôi đi về hướng Tây, vừa đi vừa để tâm quan sát thế
thái nhân tình, tính toán thầm trong lòng xem tìm được gương Thanh Loan
thì sẽ đi đâu tiếp.
Sau lưng bỗng vang lên tiếng bánh xe lăn
trên đường, tiếng chân ngựa lộp cộp, bước đi chậm rãi mà ổn định, tôi
quay đầu lại nhìn, thì ra là một cỗ xe ngựa hoa lệ đi qua, trên tấm rèm
gấm màu trắng là những sợi tua rua màu đỏ, xa phu đội một chiếc mũ đen, y phục sạch sẽ, chắc là đánh xe cho một gia đình giàu có. Tôi đi rất
chậm, thúc ngựa nhường đường sang một bên, tình cờ quay đầu sang, thấy
rèm cửa của xe ngựa bị vén lên, lộ ra một gương mặt xinh đẹp say đắm
lòng người. Bàn tay nhỏ mềm mại vén nhẹ rèm lên, thấy tôi, đôi lông mày
khẽ nhướng lên, tỏ ra kinh ngạc: “Thanh Tỏa tỷ tỷ, sao tỷ lại ở đây?”
Tôi giật mình. Thanh Tỏa? Nàng ta đang gọi tôi? Đang do dự không biết nên
trả lời thế nào thì nàng ta đã kêu xa phu dừng xe lại, bước chân uyển
chuyển đi về phía tôi, ngẩng đầu nhìn tôi, nói: “Thanh Tỏa tỷ tỷ, muội
là con gái của đại thần trong triều, tên là Nhan Uyển, từng có duyên gặp tỷ trong phủ Tể tướng một lần. Tỷ tỷ không nhớ sao?”
Thì ra chỉ mới gặp mặt một lần, tôi thầm thở phào nhẹ nhõm, bèn xuống ngựa, hành lễ: “Thanh Tỏa chào Nhan cô nương.”
Nhan Uyển thoáng ngơ ngác, ngay sau đó bật cười khoác tay tôi, nói: “Tỷ tỷ
tới phủ Tể tướng sao? Tể tướng đại nhân mừng thọ, nghe nói Tư Không đại
nhân cũng ở đó. Cha muội bảo muội mang quà lễ tới trước, không ngờ lại
gặp tỷ ở đây.”
“À, đúng thế, tình cờ quá.” Tôi cười cười, trong
bụng nghĩ thầm, “Nàng ta nhiệt tình quá, đi cùng một đoạn đường chắc là
khó tránh rồi, nhưng cho dù thế nào cũng phải thoát khỏi nàng ta trước
khi tới phủ Tể tướng, nếu không thì chẳng khác nào tự chui đầu vào rọ.”
“Thanh Tỏa tỷ tỷ sống ở Tư Không phủ có tốt không? Tư Không đại nhân việc công bận rộn, thường mấy tháng trời không có ở phủ, tỷ tỷ phải ở phòng không suốt thời gian dài.” Nói xong, Nhan Uyển lấy tay lên che miệng cười
khẽ.
Trò chuyện một lát, tôi dần thân thiết với nàng hơn, nhưng
cũng không ngờ nàng lại phóng khoáng đến thế, nói cả chuyện này. Nhưng
nghĩ lại, Bắc triều ở cách thời hiện đại rất lâu, không bảo thủ như
người Hán, ngược lại, họ khá cởi mở. Nhưng cởi mở đến đâu thì chắc cũng
không thể cởi mở như người hiện đại chúng tôi được.
Tôi nhướng
mày nói: “Xem ra Nhan muội muội rất quan tâm tới việc của Tư Không đại
nhân thì phải, đã nói với ta suốt cả đoạn đường rồi giờ lại hỏi tới cả
chuyện khuê phòng nữa?” Nói rồi tôi học theo nàng, lấy tay áo che lên
miệng cười khẽ. Nhưng đột nhiên phát hiện ra y phục của mình trông vô
cùng thảm hại, so với bộ y phục gấm thêu hoa của nàng thì đúng là chênh
lệch.
Nhận ra khẩu khí đùa cợt của tôi, Nhan Uyển thoáng khựng
lại, gò má ửng hồng, mỉm cười kéo áo tôi: “Đâu có, Nguyên tỷ tỷ cười
muội rồi. Tỷ tỷ dọc đường mệt mỏi, y phục cũng bị cành cây cào rách, nếu tỷ không chê thì hãy mặc tạm của muội đi.”
“Được, vậy thì phiền muội quá.” Tôi gật đầu đáp, Nhan Uyển vội vàng nói lảng chủ đề, chỉ sợ
tôi truy hỏi tới cùng. Nhưng tôi không có chút cảm giác gì với gã chồng
tạm bợ ấy nên cũng chẳng buồn để tâm.
Trong giây lát, Nhan Uyển
đã đặt vào tay tôi một bộ y phục bằng lụa tơ tằm màu tím đậm, cảm giác
chất liệu trơn mịn, ánh mặt trời dát vàng lên bộ y phục khiến nó ánh lên một màu bạc lấp lánh, vô cùng rực rỡ.
Tôi bất giác ngơ ngẩn, xem ra Nhan cô nương quả nhiên là con nhà khuê các, ra tay rất rộng rãi.
Bộ y phục này hình như rất quý giá? Tôi ngẩng đầu lên nhìn nàng, thầm ước
lượng, nàng ta với Nguyên Thanh Tỏa chẳng qua mới gặp nhau một lần,
chẳng nhẽ tình cảm đã tốt như vậy hay sao?
“Uyển nhi với tỷ tỷ
đã từng có duyên gặp mặt, có gì phải ngại ngùng.” Nhan Uyển bật cười,
đưa tay ra dúi bộ quần áo vào lòng tôi.
Dọc đường đi tới Trường
An, xa phu quay đầu lại hào hứng bẩm báo, chỉ nửa canh giờ nữa là tới
phủ Tể tướng. Tôi nghĩ bụng, chắc đã đến lúc phải “chuồn”.
“Nhan cô nương, ta biết ở Trường An có một tiểu điếm làm bánh rất ngon, hay
là ta đi mua về cho muội nếm thử?” Tôi ghé sát thành xe, quay đầu lại nở một nụ cười rạng rỡ với Nhan Uyển.
Nhan Uyển thoáng ngơ ngác, nghĩ ngợi rồi nói: “Tỷ tỷ muốn ăn gì, muội sai người hầu đi mua là được rồi.”
“Không cần, cứ để ta tự đi, muội tới phủ Tể tướng chờ ta, lát nữa ta sẽ quay
lại.” Tôi xua tay, chẳng nói gì nữa, nhảy xuống khỏi xe ngựa.
“Thế tỷ tỷ nhớ quay về sớm nhé!” Giọng nói lảnh lót của Nhan Uyển vang lên
sau lưng, dường như thực sự hi vọng tôi sẽ ở lại. Tôi chẳng quay đầu
lại, vẫy tay với nàng, nghĩ bụng chắc sẽ chẳng còn ngày gặp mặt.
Thành Trường An quả nhiên là phồn hoa, náo nhiệt, con đường lát đá xanh người đi qua đi lại, các sạp hàng ven đường trông vô cùng lộng lẫy. Dọc đường tôi vừa đi vừa dừng, cuối cùng dừng chân lại bên một khách điếm có vẻ
sạch sẽ. Trong lòng thầm tính toán, hôm nay là 15, lại là đêm trăng
tròn, gương Thanh Loan phải phát sáng mới đúng, tôi có thể nhờ vào thứ
ánh sáng màu xanh ngọc bích ấy để tìm được nó, lấy được rồi thì sẽ quy
ẩn sơn lâm.
Bên ngoài cánh cửa sổ bằng gỗ điêu khắc tỉ mỉ bỗng
nhiên vang lên tiếng huyên náo, tôi thò đầu ra ngoài, thấy một đám binh
sĩ mặc khôi giáp đường hoàng đang áp giải mười mấy phạm nhân đi qua phố, thu hút ánh mắt của bao người đi đường. Lũ phạm nhân bị trói bằng dây
thừng, quần áo rách nát, mặt cáu bẩn, nhưng biểu cảm thì vô cùng hiên
ngang. Loáng thoáng nghe thấy tiếng bàn tán xôn xao của đám người ở dưới lầu.
“Đây là con tin thua trận của nước Tề phải không, nghe nói sắp bị đưa tới biên cương làm nô lệ đấy.”
“Làm nô lệ? Không được sung sướng thế đâu, Tể tướng đại nhân bị bại trận, chắc là sẽ mang chúng ra để trút giận.”
“Nghe nói Tể tướng đại nhân định giết chúng để thị chúng, nhưng Thiên vương không đồng ý, chỉ hạ lệnh bắt họ đi làm nô lệ.”
“Suỵt… Thiên vương cái gì, bây giờ phải gọi là Hoàng thượng rồi, huynh không
sợ bị người khác nghe thấy sẽ gây ra phiền phức hay sao?”
…
Tôi dỏng tai lên nghe khiến đầu cũng ong ong lên. Thiên vương, Hoàng
thượng? Hình như trong sách sử cũng có nội dung liên quan tới vấn đề
này, nhưng chỉ tiếc là khi đó tôi đâu nghĩ có một ngày mình sẽ xuyên
không về Bắc triều, bởi vậy đâu có thèm học.
Thôi bỏ đi, tốt nhất là hãy nghỉ ngơi cho khỏe để đêm nay còn đi lấy cái gương Thanh Loan thì hơn.
7.
Đây là một phủ đệ phồn hoa, bức tường bao quanh cao tới một mét, cửa chính
đứng sừng sững một đôi sư tử đá vô cùng uy nghiêm, hai bên trái phải mỗi bên có ba thị vệ, thắt lưng đeo bảo đao, cảnh vệ vô cùng nghiêm ngặt.
Tôi bất giác thấy hiếu kì, nghĩ bụng chủ nhân căn nhà này nếu không phải là cự phú thì cũng là đại quan, không những gia đình bề thế mà kẻ thù cũng nhiều, bởi vậy mới phải ngày đêm canh phòng nghiêm mật thế này.
Nép vào cửa, tôi giẫm lên lưng ngựa, trèo lên tường, nhẹ nhàng đá một cái,
con ngựa lập tức lộc cộc chạy về phía trước, các thị vệ đi tuần trong
phủ nghe theo tiếng vó ngựa, lập tức đuổi theo, tôi nhân cơ hội đó nhảy
vào một bụi cây, rồi nhờ vào ánh trăng mờ mờ, lén vào trong.
Vừa nãy tôi đã đứng ở trên đỉnh lầu của khách điếm chờ rất lâu, có lẽ đó là nơi cao nhất của thành Trường An, nhưng vẫn không thấy ánh sáng xanh
của chiếc gương Thanh Loan, lẽ ra đã gần như mất hết hi vọng thì tôi lại thấy một tia sáng màu tím phát ra từ trong phủ này, ngay sau đó ánh
sáng xanh quen thuộc của gương Thanh Loan cũng rọi lên nơi góc trời, gần như mời gọi ánh trăng tròn đêm rằm, rồi ngay sau đó nó biến mất trên
bầu trời đêm cao vút, chẳng nhẽ Trấn Hồn Châu và gương Thanh Loan đều ở
trong phủ này.
Ngoài khung cửa hình trăng khuyết, trong những
ngọn lửa sáng rực trời, từ đằng xa văng vẳng tiếng đàn sáo, âm thanh của tì bà và cổ cầm hòa lẫn vào nhau, nghe thật vui tai. Tôi nép mình sau
lùm cây nhìn ra xa, thấy phủ đệ này to lớn khác thường, đình đài lầu các liên miên, mấy nam nhân áo gấm kim quan đang ngồi trong tòa tiểu đình
bên mặt hồ uống rượu, trên ca đài đằng trước có một đội nhạc đang diễn
tấu đàn sáo, vô số các vũ cơ khoác trên mình những bộ váy thướt tha đang nhẹ nhàng múa theo tiếng nhạc.
“Tể tướng đại nhân, tôi kính ngài một ly, chúc ngài xanh như tùng bách, hưởng tận vĩnh niên.”
“Ha ha, đến đây đều là người một nhà, Trương huynh hà tất phải câu nệ như
vậy, lão Lý tôi có gì nói nấy, tôi chúc Tể tướng đại nhân trọng quyền
nắm trong tay, đứng mãi không đổ. Nào, cạn!”
Bàn tiệc lập tức yên lặng, trong không khí tỏa ra một vẻ quỷ dị khác thường.
“Tể tướng đại nhân, không phải tôi nói nhiều, ngày xem tiểu Hoàng đế càng
ngày càng uy phong hơn rồi, chúng ta “trả ngai cho vua” thì hắn lập tức
thu nhận hết, lại còn nói cái gì… Lão Lý, hắn nói gì nhỉ?”
“Xưng vương chưa đủ đã trấn uy thiên hạ, phải xưng Hoàng đế.” Cái người tên
lão Lý dừng lại một lát nhìn vị tướng già ngồi ở ghế đầu, trầm giọng
đáp. Xem ra vị trưởng giả đó chính là Tể tướng đại nhân mà họ nói.
Tể tướng đại nhân? Tể tướng đại nhân? Cái này nghe thật quen, tôi thầm nghĩ trong lòng.
“Hừ, không có Tể tướng đại nhân thì Đại Chu chúng ta có ngày hôm nay sao?
Tôi thấy hắn cũng giống y như gã ca ca Vũ Văn Giác của hắn, không biết
giác ngộ.”
“Được rồi, Trương đại nhân, ngài uống say rồi.” Tể tướng đại nhân đặt ly rượu lên bàn, trầm giọng nói.
Lúc này sắc mặt của ông tuy rằng không thể nói là nghiêm khắc, nhưng vẫn vô cùng đáng sợ. Bàn tiệc lại một lần nữa im lặng dị thường, vị đại nhân
họ Trương nheo đôi mắt như tỉnh như say của mình, rụt rè nhìn Tể tướng
một cái rồi cúi đầu, không nói gì nữa.
“Dung nhi, ngươi thấy thế nào?” Im lặng giây lát, Tể tướng đại nhân quay sang người đàn ông trẻ
tuổi ngồi bên tay trái ông, hắn quay lưng về phía tôi, cái lưng hắn
thẳng tắp và đường hoàng, đang ôm một vũ cơ uống rượu.
Nhất thời, tất cả mọi ánh mắt trên bàn tiệc đều tập trung vào người đó.
Dường như hắn đã uống say, vũ cơ ngồi trên người hắn đang cười nghịch ngợm,
mớm rượu cho hắn, nghe thấy thế thì nũng nịu nói: “Tư Không đại nhân, Tể tướng đại nhân đang hỏi ngài kìa.”
Tư Không đại nhân? Vũ Văn
Dung? Tôi giật mình, thế giới này sao lại nhỏ như thế, hóa ra hắn chính
là gã phu quân hữu danh vô thực hoang dâm vô độ của tôi sao?
“Ồ? Vậy sao?” Vũ Văn Dung véo nhẹ cằm nàng ta một cái, quay đầu lại nói với Tể tướng đại nhân. “Hoàng thúc vừa nói gì ạ? Cháu nghe không rõ, Hồng
Diệp đẹp quá, Hoàng thúc ban nàng cho cháu được không?”
“Tư
Không đại nhân này, ca nữ vũ cơ trong phủ ngài ít cũng phải tới cả trăm
người, Tể tướng đại nhân đã ban cả cháu gái của phu nhân ngài ấy cho
ngài rồi, ngài là người có diễm phúc nhất thế gian này rồi, còn không
hài lòng sao?” Không khí vừa mới giãn ra một chút, Trương đại nhân đã
uống say lại lấy lại tinh thần, cười cười tiếp lời.
Tể tướng đại nhân liếc mắt nhìn Vũ Văn Dung một cái, ánh mắt sáng quắc đã bình tĩnh
lại, cười nói: “Trương đại nhân, ngài lại giễu nó rồi. Đàn ông năm thê
bảy thiếp có xá gì, hôm nay chỉ cần tận hứng. Nào, cạn!” Nói rồi ông
nâng ly lên, uống cạn chỗ rượu trong cái ly đồng.
Suy nghĩ của
người cổ đại thật vô lí. Đàn ông năm thê bảy thiếp không sao? Hừ, dựa
vào cái gì chứ? Tôi lườm đám đàn ông đó một cái, chẳng muốn nghe họ nói
tiếp. Xem ra gương Thanh Loan không có ở trong đình viện, chắc là được
cất ở một nơi nào đó như thư phòng hay kim xa, nghĩ thế, tôi quay người
vừa định bước ra khỏi chỗ này thì nghe thấy tiếng “roẹt” của y phục
rách, cành cây bị chiếc váy vướng vào bật lên phần phật, làm rụng cả mấy chiếc lá xanh.
“Kẻ nào?”
Âm thanh đó đã nhanh chóng làm kinh động đám thị vệ trong phủ và mấy người đang uống rượu, họ cảnh
giác nhìn về phía tôi, rồi đứng lên đi lại gần. Tôi thầm kêu khổ trong
lòng, chỉ tại cái bộ quần áo này quá nhiều tua rua phiền phức ở trên,
nếu không thì tôi đã không bị vướng vào.
Đám thị vệ cầm đuốc vây tôi vào giữa, tôi đứng lên, len lén nhìn xung quanh, đang thầm nghĩ
phải làm thế nào để thoát thân thì bên tai bỗng vang lên một giọng đàn
ông trầm ấm và dễ nghe, trong giọng nói trầm trầm ấy thoáng qua một chút kinh ngạc: “Sao lại là nàng?”
Tôi ngẩng đầu lên, ánh lửa bập
bùng đập vào mắt, người nói mặc bộ đồ gấm, đầu đội kim quan, chiếc
trường bào màu lam đập tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo, nước da ngăm ngăm đen,
hàng lông mày dài, đôi mắt sâu thắm như biển cả dưới ánh đuốc bập bùng
dường như đang tỏa sáng, vẻ phong lưu không giấu, cả người toát lên một
sự ngang tàng và mê hoặc. Sống mũi cao thẳng đứng với gương mặt sắc nét
khiến vẻ đẹp của chàng như một bức tượng điêu khắc.
Tôi thầm
kinh ngạc, đây chắc là phu quân Tư Không đại nhân Vũ Văn Dung của tôi
thì phải, không ngờ chàng lại là một “mỹ nam tuyệt đỉnh” thế này, chả
trách bao nhiêu tì thiếp trong phủ đều vì chàng mà ngày đêm ghen tuông
với nhau.
“Thanh Tỏa, con tới đây làm gì?” Tể tướng đại nhân
chậm rãi mở miệng, đôi mắt lấp lánh tinh quang lặng lẽ nhìn tôi. Lúc này tôi mới nhìn rõ dung mạo của ông, một người đàn ông trung niên có đôi
mắt sáng quắc, trên trán đã hằn mấy vết nhăn rất sâu, không những không
hề khiến ông già đi mà ngược lại còn có cảm giác như một người từng
trải, từ người ông toát ra một khí thế nghiêm nghị, nói một là một, hai
là hai.
Lúc này tôi mới hoàn hồn, đầu óc chuyển động nhanh
chóng, vội vàng lên trước một bước, cúi người hành lễ: “Thanh Tỏa bái
kiến cô phụ”[7]
[7] Cô phụ là chồng của cô.
Chưa chờ ông trả lời, dưới ánh lửa bập bùng, vạt váy dài của tôi bỗng dưng tỏa ra
ánh sáng vàng, dường như che kín cả mây mù, tỏa ra ánh sáng lấp lánh,
mọi người có mặt ở đó đều kinh ngạc, nhất là Vũ Văn Dung, chàng tái mặt
nhìn tôi.
Tôi giật mình, cúi đầu nhìn xuống, thấy trên vạt váy
bằng lụa màu tím của tôi có thêu một con chim phượng hoàng đang vỗ cánh
muốn bay, chỉ thêu là loại kim tơ dạ minh, ban ngày không nhìn thấy hình vẽ này, nhưng dưới ánh lửa nó mới hiện ra. Màu tím thể hiện cho sự cao
quý, phượng hoàng ý chỉ Hoàng hậu, trên váy tím của tôi thêu chim hình
chim phượng hoàng màu vàng, rõ ràng là có ý không tốt, là bất kính với
đương kim Hoàng hậu.
Tôi nhìn đôi mắt thoáng tối đi trong giây
lát của Tể tướng đại nhân và gương mặt căng thẳng của Vũ Văn Dung, thấy
tim mình chùng xuống, bỗng chốc cảm thấy thật hoang mang, những mảnh
ghép trong não dần dần liên kết lại thành một đoạn lịch sử hoàn chỉnh.
Trong lịch sử có ghi chép, Tể tướng Vũ Văn Hộ của Bắc Chu một mình nắm triều
chính trong tay, đầu tiên ủng hộ lập cháu mình là Vũ Văn Giác lên làm
Hoàng đế, sau đó đầu độc chết người này, lập Vũ Văn Dục. Vũ Văn Dục
không phải kẻ nhu nhược, sau khi thượng vị đã dần dần lôi kéo một số
trọng thần, định làm nên cơ nghiệp, đổi danh hiệu “Thiên vương” thành
“Hoàng đế”. Vũ Văn Hộ giả bộ mượn việc “hoàn chính vu đế”[8] để thăm dò, trao quyền cho hắn, hắn lập tức nắm hết toàn quyền khiến Vũ Văn Hộ sinh nghi và dùng rượu độc đầu độc hắn.
[8] Tức là trả lại quyền chính trị cho nhà vua.
Còn vị phu quân hữu danh vô thực Vũ Văn Dung của tôi chính là một nhân vật
nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Bắc Chu. Sử sách ghi chép, chàng là một vị Hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử Bắc Chu, không những giăng bẫy tiêu diệt được Vũ Văn Hộ mà còn khiến Bắc Chu nhanh chóng phát triển,
sau đó lại tiêu diệt Bắc Tề, thống nhất Bắc triều.
Với tình hình này thì thấy Vũ Văn Dung vẫn đang chỉ là Tư Không đại nhân, Hoàng đế
hiện nay có lẽ là anh trai của chàng, Vũ Văn Dục. Nhưng tuy rằng hắn là
hoàng đế, nhưng người thực sự nắm quyền trong tay là Tể tướng Vũ Văn Hộ. Tôi mặc áo tím thêu kim phượng, người tôi đắc tội không phải là Hoàng
đế, mà là Vũ Văn Hộ, nếu tôi khiến ông ta hiểu lầm rằng Vũ Văn Dung có
dã tâm gì thì tôi với chàng chắc chắn sẽ nguy hiểm tính mạng.
Nghĩ vậy, lúc này tôi mới hiểu vì sao sắc mặt Vũ Văn Dung lại tái xanh. Đám
thị vệ đều như hổ báo, không khí căng thẳng vô cùng, từng giọt mồ hôi
lớn rịn ra trên trán.
“Cô phụ, xin người hãy làm chủ cho Thanh
Tỏa.” Đầu óc tôi chuyển nhanh như điên, vén vạt áo lên, bước lên một
bước rồi quỳ một chân xuống trước Vũ Văn Hộ, giả bộ đưa tay áo lên lau
nước mắt.
“Ồ? Nói ta nghe.” Vũ Văn Hộ hơi ngỡ ngàng, nheo mắt lại, lẳng lặng nói.
“Thanh Tỏa kể từ khi gả tới Tư Không phủ, các tì thiếp khác trong Như Yên Các
đều nói con là kẻ không may mắn, phòng con thường xuyên vô duyên vô cớ
phát hỏa, họ nói là bị tà linh xâm nhập. Thanh Tỏa vì không muốn gây
thêm phiền phức cho Tư Không đại nhân, cũng là vì không muốn làm tổn hại tới uy danh của phủ Tể tướng, bởi vậy vẫn nghiến chặt răng chẳng nói
nửa lời.” Tôi cúi đầu xuống nói, dừng lại một chút, rồi ngẩng đầu lên
nhìn sắc mặt Vũ Văn Hộ.
“Nói tiếp đi!” Ông lạnh nhạt nói, sắc
mặt thoáng thay đổi, nhưng vẫn sa sầm xuống. Những người khác đều đang
kinh ngạc nhìn tôi, dường như không hiểu vì sao tôi lại nói những điều
này.
“Nhưng sau khi Tư Không đại nhân rời phủ, những tà linh đó
lại càng lợi hại hơn, đến nỗi đêm nào con cũng không thể ngủ nổi. Thanh
Tỏa vốn là cô nữ[9], bao nhiêu năm nay nhờ có cô mẫu[10], luôn một lòng
chăm sóc nên trên đời này con chỉ còn người là người thân. Nỗi lòng nhớ
quê khiến con không tự chủ được mà rời phủ, chỉ đành thêu bức hình tượng trưng cho người trên y phục, một là để tưởng nhớ đến người, hai là có
thể nhờ vào khí chất tôn quý của cô mẫu mà trấn áp đám tà linh.
[9] Con gái mồ côi.
[10] Cô mẫu là cô ruột.
Khi nhắc tới hai chữ “cô nữ”, tôi nhớ tới ông nội, tới gia đình hiện tại,
tới Bắc triều ngày đêm tối tăm mà tôi đang phải sống. Sống mũi cay cay,
nước mắt dâng trào, tôi vội vàng vén tay áo lên lau, Vũ Văn Dung ngây
người nhìn tôi, trong mắt thoáng qua một ánh lửa phức tạp.
Sắc
mặt Tể tướng Vũ Văn Hộ thoáng thay đổi, trong ánh mắt là vẻ thâm trầm
khó đoán. Tôi nghĩ bụng trò nịnh bợ này chắc cũng không đến nỗi nào, nói hình ảnh phượng hoàng là tượng trưng của vợ ông ta, cũng tức là khen
ông ta là rồng là vương, cho dù ông ta có nhận hay không thì chỉ cần ông ta biết con chim phượng hoàng này không đại diện cho tôi là được. Huống hồ truyền thuyết nói chỉ có bậc cửu ngũ chí tôn mới có thể trấn áp linh hồn, tôi nói thế này cũng tức là nói vòng nói vèo nói ông ta là Hoàng
đế rồi.
“Đứng lên nói đi! Thế sao giờ con lại tới đây?” Giọng
nói của Vũ Văn Hộ đã hiền hòa hơn rất nhiều, tôi nghĩ ông ta đã cho tôi
đứng lên thì chắc là tôi không còn nguy hiểm tính mạng nữa. Bất giác tôi thầm thở phào trong lòng, thế là miệng lưỡi càng thêm lanh lợi.
“Thanh Tỏa bất tài, không có khả năng tặng cho cô phụ một món quà mừng thọ ra
hồn, nhưng không dám quên công ơn bồi đắp và ân tình của cô phụ với con, chỉ hi vọng được nhìn thấy lão nhân gia người từ xa vẫn mạnh khỏe an
khang, tinh thần phấn chấn là Thanh Tỏa đã hài lòng lắm rồi. Huống hồ…
huống hồ Tư Không đại nhân không có trong phủ, một mình Thanh Tỏa cô đơn không ai giúp đỡ, không thể đối phó nổi với những chuyện vặt xung
quanh. Thế là lại càng thêm nhớ cô mẫu, vừa nãy con nghĩ có thể ra hậu
viện sẽ nhìn thấy người, ai ngờ lại làm phiền tới nhã hứng của các vị,
Thanh Tỏa quả thật tội đáng muôn chết.” Tôi càng nói càng hăng, trong
lòng thầm tính toán, với tình thế ngày hôm nay, muốn chạy trốn cũng khó, chỉ đành cứ lấy lòng Vũ Văn Hộ có thế lực lớn nhất trước, còn sau đó
mới tính kế lâu dài.
Trên mặt Vũ Văn Hộ lướt qua một sự thấu
hiểu, chắc là ông hiểu “cô đơn không ai giúp đỡ” mà tôi nói nghĩa là gì. Sự tranh đấu giữa nữ nhân vốn rất kịch liệt, bọn họ đều là những người
năm thê bảy thiếp, làm sao không hiểu được nguyên do trong đó.
“Vũ Văn huynh, ai cũng nói ở phủ Tư Không mỹ nữ nhiều như mây, nhưng ngài
cũng nên để ý một chút. Nếu Nguyên tiểu thư thực sự có mệnh hệ gì thì
ngài ăn nói làm sao với Tể tướng đại nhân đây?” Vị Trương đại nhân đó
lại lên tiếng.
Lúc này trong tay Vũ Văn Dung vẫn ôm Hồng Diệp,
đang định lên tiếng trả lời thì tôi đã tiếp lời: “Thực ra Tư Không đại
nhân luôn thương yêu thần thiếp, cũng chình vì vậy mà Thanh Tỏa mới bị
các tì thiếp khác ganh ghét. Huống hồ nam nhân mà, ai cũng có mới nới
cũ.” Nói rồi tôi ngước mắt nhìn chàng, ánh mắt chan chứa tình cảm mà ai
oán, nhân lúc chàng đang cười, bèn nhanh nhẹn đánh mắt ra hiệu cho
chàng.
“Thanh Tỏa, khiến nàng chịu khổ rồi.” Vũ Văn Dung hiểu ý, bèn lại gần đỡ tôi lên, đôi tay to lớn nắm lên cổ tay bị sương đêm thấm ướt của tôi, hơi ấm lan dần ra.
Tay chàng rất lớn, rất ấm. Tôi
bị Vũ Văn Dung ôm trong lòng, cả người thấy thật khó chịu, đang định
giằng ra thì chàng đã đẩy tôi ra trước, tôi không kịp đề phòng, loạng
choạng lùi về sau mấy bước, suýt thì ngã xuống đất. Chàng hừ lạnh một
tiếng, trong mắt là sự khinh thường tột độ.