Trong lòng thoáng chút hoài nghi, đang định lặng lẽ bỏ đi thì chân tôi
mềm ra, còn chưa kịp bước chân đi, gót chân đã nhói lên một cơn đau dữ
dội, tôi rên khẽ một tiếng rồi cả người đổ nhào về phía trước.
“Ai?”
Vũ Văn Dung rất cảnh giác, lập tức quát lên theo phản xạ. Rồi chàng ta
bước ra khỏi cửa phòng, đi vòng ra sau gốc cây, nhìn thấy tôi thì thoáng sững lại.
Tôi bất lực nằm bò trên đất, cơn đau nơi dạ dày đã bị cảm giác đau đớn khôn tả nơi gót chân lấn át, vết thương bỗng dưng rách ra, một dòng máu đỏ tươi tuôn xối xả, thấm ướt cả vạt váy.
“Đau quá…” Mặt tôi tái nhợt, mồ hôi vã ra như tắm, giọng nói yếu ớt, rên rỉ.
Vũ Văn Dung ngập ngừng giây lát, trên gương mặt tuấn tú lóe lên một vẻ phòng bị, cuối cùng bế thốc tôi lên, đi vào phòng.
Cơ thể hư nhược, yếu ớt, ý thức đã dần mơ hồ, loáng thoáng cảm thấy có
người hằn học đổ một bát thuốc đắng nghét vào cổ họng. Không biết bao
lâu đã trôi qua, cảm giác đau đớn trên cơ thể đã lui dần, tôi mở mắt ra, xung quanh là bức màn hoa viền chỉ vàng, thì ra mình đang nằm trên
chiếp sập xa hoa của Vũ Văn Dung, vết thương nơi gót chân đã được băng
bó lại. Cơn gió ngoài cửa sổ cuộn lên hơi lạnh, phương Đông đã hừng
sáng, đêm nay thật dài.
Dạ dày tôi lại cuộn lên đau nhói, gót
chân thì tê dại, có lẽ chàng ta cho tôi uống thuốc an thần để giảm đau,
chỉ mới điều trị triệu chứng chứ chưa trị tận gốc.
Vũ Văn Dung
ngồi trên chiếc bàn gỗ đỏ gần đó, lặng lẽ nhấp một ngụm trà, mặt không
biểu cảm, ngước mắt lên nhìn tôi, đôi mắt như hai đốm lửa.
“Nàng quay về kiểu gì?” Chàng nhướng mày lên hỏi, trong giọng nói chẳng một chút hơi ấm.
“Cưỡi ngựa quay về.” Cơ thể tôi vẫn còn yếu nhưng thấy thái độ của chàng ta
như vậy thì lửa giận càng bốc lên, cố ý trả lời nhấm nhẳng.
Vũ
Văn Dung hơi sững lại một chút, sau đó “hừ” một tiếng rồi trầm giọng
hỏi: “Ta muốn hỏi nàng Lan Lăng Vương sao lại dễ dàng tha cho nàng quay
về?”
“Chàng đi mà hỏi hắn, làm sao mà ta biết được.” Tôi nhướng
mày lên, lườm chàng ta một cái, ra vẻ chàng làm gì được ta. Đêm nay đã
qua, với tình cảnh này của phủ Tể tướng thì có lẽ tướng quân mặt nạ đã
thuận lợi cứu được các tướng sĩ Bắc Tề bị giam dưới thủy lao.
Chờ chút, Lan Lăng Vương? Như có một tia chớp giữa trời xanh, đầu óc tôi
xoay chuyển dữ dội, một tia sáng lóe lên trong bóng tối kí ức. Tướng
quân mặt nạ… Lan Lăng Vương? Ở nơi sâu thẳm nào đó trong vùng kí ức đang bị phong tỏa bỗng lóe lên một tia sáng, rồi một tiếng sấm nổ ra trong
đầu tôi.
Nhớ lại bức tranh cuộn dài trong tủ kính ở Viện Bảo tàng ngày hôm đó.
“Tân tướng nhập trận phố huyên ca
Cộng thức Lan Lăng giả dư đa
Chế đắc vũ hồ công hoan tửu
Đương yến uyển chuyển khách nhan đà”
Còn nhớ rõ hôm đó, trong đại sảnh của Viện Bảo tàng rộng rãi, sáng sủa, tôi nhìn người đàn ông trong bức họa, bộ y phục trắng như tuyết, tay áo
rộng lớn, trên mặt đeo một chiếc mặt nạ đồng đanh ác, cảm giác ớn lạnh
dâng lên. Bên cạnh còn có một dòng chữ với những nét bút rất cứng cáp:
“Lan Lăng Vương nhập trận khúc”.
Trước đây tôi chưa từng nghĩ rằng chàng chính là Lan Lăng Vương (Cao Trường Cung).
Những ghi chép lịch sử liên quan tới chàng ùa về trong đầu tôi. Cái tên của
Lan Lăng Vương lưu truyền hậu thế, ngoài sự anh dũng thiện chiến của
chàng còn có một phần nguyên nhân là do thân thế của chàng giống như một câu đố. Sinh mẫu[1] của chàng không được ghi chép lại trong sách sử,
vẫn là một câu đố đối với hậu thế. Cha Lan Lăng Vương có sáu người con,
năm người anh em còn lại đều ghi chép rõ ràng mẫu thân là ai, duy chỉ có mẫu thân của Lan Lăng Vương là không được ghi lại trong sách sử. Mà
trong xã hội thời đó, địa vị của nữ nhân không có gì phải úy kỵ, cho dù
mẫu thân là kỹ nữ cũng không sao, ví dụ như một người em trai của chàng
có mẹ là kỹ nữ. Vậy thì thân phận của mẹ chàng chắc chắn phải vô cùng
đặc biệt đến nỗi không thể được ghi vào tộc phả.
[1] Mẹ ruột.
Rồi lại nghĩ tới kết cục của chàng… Tim tôi đau nhói, cảm giác hoảng sợ lập tức chiếm trọn trái tim, cơn ớn lạnh chạy dọc toàn thân rồi bao vây lấy tôi. Tôi không tinh thông lắm lịch sử Bắc triều, chỉ loáng thoáng nhớ
rằng khi còn rất trẻ, Lan Lăng Vương đã bị Hoàng đế Bắc Tề ban độc tửu…
Một cuộc đời phong ba hiển hách cuối cùng đã kết thúc trong bi kịch.
Gò má ớn lạnh, không biết từ lúc nào hai hàng nước mắt đã chảy dài trên
má. Lông mày tôi thoáng chuyển động, nhìn Vũ Văn Dung bằng ánh mắt như
không dám tin vào những gì chàng nói, không muốn chấp nhận nên mới muốn
xác nhận lại một lần nữa: “… Chàng nói vị tướng quân đeo mặt nạ ấy là…
Lan Lăng Vương?”
Thấy tôi như vậy, Vũ Văn Dung ngây người, mặt
tỏ vẻ hoài nghi, ngập ngừng rối nói: “Khi Tiên đế còn tại vị, ta từng
theo đoàn quân xuất chinh. Nghe nói Lan Lăng Vương anh dũng thiện chiến
của Tề quốc lúc nào cũng đeo một chiếc mặt nạ màu bạc, người từng nhắc
nhở bọn ta phải thận trọng đề phòng.”
Ồ, vậy có lẽ không phải là người ấy đâu. Tôi vẫn không cam tâm, vẫn muốn tự lừa gạt bản thân. Tôi
biết rõ kết cục thê lương của chàng, nhưng lại chẳng thể làm gì cho
chàng. Hiện thực ấy làm sao tôi có thể đối diện được.
“Từ trên
xuống dưới trong phủ đều bị bệnh, sao chỉ có chàng là không sao?” Im
lặng giây lát, thấy ánh mắt Vũ Văn Dung nhìn tôi ngày càng phức tạp, tôi tỉnh táo lại, quay đầu đi lau nước mắt rồi chuyển chủ đề, đi thẳng vào
câu hỏi. Nếu để chàng phát hiện ra vẻ khác thường của tôi khi nhắc tới
Lan Lăng Vương thì đối với chàng hay với tôi đều chẳng có ích gì.
“Sao hả, nàng nghi ngờ ta?” Vũ Văn Dung trầm giọng, đôi mắt nhìn tôi như uy hiếp.
“Từng nghi ngờ, nhưng giờ thì không.” Tôi quan sát thần sắc của chàng, giây sau mới đáp khẽ.
“Ồ? Vì sao?” Gương mặt thấp thoáng nộ khí của Vũ Văn Dung hơi ngây ra, nheo mắt nhìn tôi vừa ngạo mạn, vừa nghi hoặc.
“Trực giác. Thấy chàng lén đổ thuốc đi, nghĩ là chàng giả bệnh, bởi vậy mới
nghi ngờ. Nhưng…” Tôi liếc qua đôi mắt lạnh lẽo của chàng, kéo dài giọng nói: “Nếu thực sự chàng muốn tiêu diệt họ thì có lẽ sẽ dùng một cách
nào đó khéo léo hơn, nếu muốn hạ độc thì cũng phải là loại độc cực mạnh, đâu có dễ dàng để người ta vẫn còn hơi thở.” Lời nói vừa thốt ra, tôi
đã cảm thấy cách dùng từ của mình vô cùng độc đáo, nghe không ra là khen hay chê.
“Hừ, sao hả, nàng tưởng rằng nàng hiểu ta lắm sao?”
Nghe tôi nói vậy, Vũ Văn Dung hơi ngây người, ngay sau đó khóe môi nhếch lên thành một nụ cười khinh miệt.
“Ta nói rồi, là trực giác,
chẳng liên quan gì tới việc hiểu hay không hiểu.” Tôi lạnh nhạt đáp,
bỗng lại nhớ ra điều gì đó, cất cao giọng hỏi: “Chàng có biết bệnh cũ
của Tể tướng đại nhân là bệnh gì không? Còn phu nhân thì sao, người bị
mắc bệnh gì?”
“Tể tướng vẫn bị bệnh tim, bình thường uống thuốc
và tĩnh dưỡng tốt nên rất ít phát bệnh. Phu nhân thì bị hen suyễn nhẹ,
đêm qua đột nhiên bị nặng hơn, mấy lần suýt thì không thở được nữa.” Ánh mắt Vũ Văn Dung hình như hơi ngạc nhiên, rồi lại chìm vào suy nghĩ.
“Dạ dày của ta bị đau, coi như là bệnh cũ, vết thương ở gót chân thì là
mới. Cho dù có kẻ tổn hao tâm tư để hại ta thì cũng không kịp điều chế
ra loại thuốc để làm vết thương ở chân ta nặng thêm. Trong phủ người nào cũng bệnh cũ tái phát, nhưng bệnh cũ của từng người đều khác nhau. Chỉ e rằng không chỉ đơn giản là hạ độc đâu.” Tôi thở dài, thoáng thấy hoảng
sợ trong lòng. Nghĩ cũng thấy may vì căn bệnh cũ của mình không đến nỗi
chí mệnh, nếu không thì chắc chắn giờ cũng như ngọn đèn lay lắt trước
gió? Rồi nghĩ lại sự kiện hình nộm mấy hôm trước, cứ cảm thấy sau lưng
có một sức mạnh khổng lồ thần bí nào đó đang thao túng, nhưng nghĩ kĩ
thì chẳng tìm ra manh mối gì.
Vũ Văn Dung nhìn tôi chăm chú, im
lặng giây lát, dường như đang nghĩ ngợi xem tôi có đáng tin hay không.
Cuối cùng cũng mở miệng: “Hồi trẻ sư phụ từng dạy ta một vài kiến thức
về tà môn dị thuật. Ta phát hiện ở mấy vị trí chính trong phủ Tể tướng
có dán hoàng phù ở những nơi rất bí mật. Cây Bàn Long Mộc trong đình
viện cũng có người động vào và thả một tổ kiến vào gốc cây.”
“Ý
chàng là có người làm hỏng phong thủy của phủ Tể tướng, dán bùa chú khắp nơi?” Tôi thấy ớn lạnh, gương mặt nanh ác của con rối hôm đó lại hiện
lên trước mắt. Thời cổ đại rất thịnh sử dụng bùa thuật, nghĩ lại chuyện
bùa chú nguyền rủa chắc chắn không phải là không có thật. Rốt cuộc là kẻ nào có bản lĩnh lớn đến độ có thể làm mọi người trong phủ Tể tướng ngã
xuống chỉ trong một đêm? Mục đích của hắn là gì?
“Không biết.
Tóm lại kẻ này không tốt đẹp gì.” Vũ Văn Dung thở dài rất nhẹ, cảm giác
bị người ta nắm trong lòng bàn tay thực chẳng dễ chịu gì.
“Nhưng vì sao chỉ có chàng là không sao?” Tôi nghiêng đầu nhìn chàng, nghi
hoặc nói, rồi tò mò hỏi: “Chẳng nhẽ từ nhỏ chàng chưa bao giờ bị bệnh?”
“Ta không biết. Hồi nhỏ cơ thể ta yếu ớt, lắm bệnh, lẽ ra phải có rất nhiều bệnh cũ mới đúng.” Vũ Văn Dung hoài nghi nhìn vào mắt tôi giây lát,
không tìm được chút gì là thăm dò, mỉa mai hay hoài nghi trong đó mới
lên tiếng trả lời.
Lúc này trời đã gần sáng, cơn buồn ngủ ập
tới, tuy rằng dạ dày và gót chân vẫn nhoi nhói đau nhưng ý thức tôi đã
mơ hồ, không cưỡng nổi cơn buồn ngủ.
Dường như có ai đó dừng lại bên giường tôi giây lát rồi quay người đi ra khỏi phòng. Tôi vùi sâu
đầu trong gối, mệt mỏi ngủ thiếp đi.
2.
Bên tai
vang lên tiếng ồn ào huyên náo, tiếng đánh nhau, tôi mở mắt ra, một tia
mặt trời chói mắt rọi thẳng vào hàng mi dày của tôi.
Thì ra đã là chính ngọ.
Cảm giác người mình đã nhẹ nhàng hơn rất nhiều, tiếng trống và tiếng tre
trúc va vào nhau lẫn lộn, dường như có mùi gì đó khác thường.
Tôi soi mình trong gương, chỉnh lại mái tóc rối và trang phục, khí sắc của
tôi đã khá hơn nhiều, không còn nhợt nhạt như tối qua nữa. Đi ra khỏi
cửa, lẫn vào đám người, thấy trên mặt đất lát đá xanh có vô số ngọn nến
trắng xếp thành hình bát quái, mấy người đeo mặt nạ quỷ quái màu đỏ máu
đang hoa chân múa tay múa may linh tinh, miệng lẩm bẩm thần chú gì đó,
tiếng nhạc khúc đơn điệu hòa lẫn, vô cùng quái dị. Chính giữa vòng tròn
bát quái là một đạo sĩ mặc trường bào đen trắng ngồi nghiêm trang, mái
tóc dài bạc trắng, sắc mặt hồng nhuận, đôi mắt khép chặt, bàn tay cầm
một thanh kiếm gỗ, trên đó đánh một đạo bùa màu vàng, đầu mũi kiếm chỉ
vào cây nến ở trung tâm trận đồ bát quái.
Tôi vốn đang đứng giữa đám người, bỗng có một cậu bé cung kính gọi tôi từ sau lưng, dẫn tôi tới chỗ ngồi bên cạnh Vũ Văn Dương.
Tôi ngồi trên ghế được chạm khắc hoa văn tỉ mỉ, có thể nhìn nghiêng được
gương mặt của vị đạo sĩ. Tiếng nhạc bỗng dừng lại, ông ta mở bừng mắt
ra, tuy rằng không ngồi đối diện, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được hai luồng kim quang từ đôi mắt đó bắn vọt ra. Khó có thể tưởng tượng ở độ
tuổi đó mà vẫn còn ánh mắt sắc bén như vậy. Duỗi hai ngón tay ra, ông ta huơ cây kiếm gỗ trong tay, giọng nói vang lên như tiếng chuông: “Diệt!”
Giọng nói vừa dứt, những ngọn nến xung quanh cũng tắt phụt.
Mọi người đều tỏ vẻ kinh hãi, xen lẫn là những tiếng xuýt xoa đầy thán
phục. Tôi nghiêng đầu nhìn về phía chỉnh tọa, khí sắc của Tể tướng đại
nhân và phu nhân Nguyên Thị đã khá hơn nhiều, đang hài lòng nhìn viên
đạo sĩ, dường như vô cùng tin tưởng ông ta.
Tôi hơi hoài nghi
trong lòng, đạo gia thực sự lẽ ra phải có đôi mắt hiền hòa, khoan hồng
mới phải chứ? Vì sao trong đầu tôi chỉ xuất hiện duy nhất một câu nói để hình dung về ông ta: Người này không phải người lương thiện.
Viên đạo sĩ đó đè lá bùa dưới thanh gươm gỗ, rồi chỉ thanh gươm xuống, là
bùa lập tức bốc cháy. Gã người hầu bên cạnh mang một chậu nước sạch tới, đạo sĩ ném lá bùa vào chậu nước, ngọn lửa vẫn không tắt đi mà vẫn cháy
trong chậu nước trong giây lát. Đám người kinh ngạc thốt lên, tôi cũng
trợn tròn mắt. Gã đạo sĩ này rốt cuộc là có lai lịch như thế nào?
“Tể tướng đại nhân, bần đạo đã trừ sạch ác linh trong phủ, chỉ cần uống
nước bùa này xuống là sức khỏe của chư vị sẽ khôi phục ngay trong ngày
mai.” Viên đạo sĩ bước lên một bước, không hề hành lễ, nghển cao cổ lên
nói, thần sắc cung kính nhưng trong ánh mắt lại có sự cao ngạo và khinh
mạn, dường như không coi Tể tướng đại nhân vào đâu.
“Làm phiền
Vô Thần đạo nhân quá. Lần này cũng nhờ có đạo nhân kịp thời tới nơi, cứu hàng trăm mạng người trong phủ của ta.” Tể tướng Vũ Văn Hộ ôm hắn nói,
thần thái tỏ ra vô cùng cảm kích, có lẽ là đã sợ xanh mặt trước căn bệnh cũ của mình. Có thể càng ở ngôi cao, hưởng càng nhiều vinh hoa phú quý
thì người ta lại càng sợ chết.
“Tất cả đều tùy duyên mà thôi, Tể tướng đại nhân không cần phải để bụng.” Vô Thần đạo nhân cúi đầu nói,
trong mắt là sự điềm tĩnh khó lường.
Người hầu trong phủ đã bê
chậu nước rửa bùa tới trước mặt tôi và Vũ Văn Dung, múc ra hai bát đặt
vào tay chúng tôi. Tôi và chàng nhanh chóng đưa mắt nhìn nhau, trước con mắt chứng kiến của mọi người, chỉ đành đưa tay áo lên che miệng mà
uống.
“Cảm tạ đạo nhân.” Vũ Văn Dung và tôi uống nước bùa của
người ta, tuy rằng không muốn nhưng trên mặt vẫn làm ra vẻ cảm kích, cả
hai đều cúi đầu cung kính nói.
Vô Thần đạo nhân không nói gì,
hơi cúi người xuống, coi như là hối lễ. Ngẩng đầu lên nhìn Vũ Văn Dung
và tôi, thần sắc thoáng trở nên trầm trọng, ánh mắt đột nhiên thật phức
tạp, ngay sau đó cười nói: “Nhị vị đều không phải là những người phàm
phu tục tử, hôm nay được gặp thật là vinh dự.”
Tôi ngơ ngác,
trái tim như bị điện giật, nếu ông ta thực sự có thể nhìn thấu quá khứ
và tương lai của tôi và Vũ Văn Dung, tôi cũng chẳng quan tâm, bởi vì cho dù nói rằng tôi là người từ thế giới tương lai tới e rằng cũng chẳng ai tin. Nhưng nếu ông ta nói Vũ Văn Dung có Đế vương chỉ tướng thì e rằng
ngay bây giờ Tể tướng Vũ Văn Hộ sẽ ra tay tiêu diệt chàng.
Thế là tôi tỏ vẻ ngây thơ tiếp lời: “Ồ? Ta vốn chẳng có sở trường gì, không hiểu đạo trưởng nói phi phàm ra sao?”
Vô Thần đạo nhân ngưng thần nhìn tôi giây lát, thần thái cao thâm khó
lường, cười nói: “Diện tướng và khí phách của cô nương khác với người
thường, bần đạo không nhìn ra mệnh số của cô. Bần đạo chỉ biết cô nương
từ nơi khác tới, còn nhiều hơn thì không nói được.”
Tôi thoáng giật mình. Xem ra gã đạo sĩ này quả nhiên có bản lĩnh.
Từ nơi khác tới? Câu này thực sự có chút chân thực. Lẽ nào ông ta thực sự nhận ra tôi tới từ khoảng không gian, thời gian khác?
“Ồ!” Tôi cố làm ra vẻ thất vọng.
“Còn tưởng rằng đạo trưởng sẽ nói ta và phu quân có thể bách niên giai lão…
Bởi vì làm được một điều mà những nữ nhân khác không làm được nên mới
phi phàm.” Nói rồi tôi liếc Vũ Văn Dung một cái, nói, “Có điều những gì
đạo trưởng nói cũng đúng, ta đúng là từ một nơi khác tới, ta tới từ Tư
Không phủ, gả về đó đã được một năm rồi.”
Vô Thần đạo trưởng
nghe nói vậy thì ngây người lại một chút, gật nhẹ đầu, không nói gì nữa. Có lẽ nghe những điều chẳng ăn nhập gì của tôi, ông ta đã nghi ngờ rằng mình nhìn nhầm, một đứa con gái nói năng chẳng có đầu có cuối như tôi
thì làm gì có chỗ bất phàm.
Nghe tôi nói tới câu “bách niên giai lão”, Vũ Văn Dung cũng hơi kinh ngạc nhìn tôi, trên mặt thoáng qua một biểu cảm khó hiểu.
Tể tướng đại nhân và Nguyên phu nhân ngồi từ đằng xa thấy chúng tôi trò
chuyện đã lâu thì phái người tới giục chúng tôi nhập tiệc. Tất cả mọi
người đều nhìn Vô Thần đạo trưởng như ân nhân cứu mạng, bởi vậy ai cũng
tỏ ra cung kính với ông ta. Vũ Văn Hộ còn coi ông ta như hàng thượng
khách, cung kính hơn hẳn đối với các triều thần khác.
Thế là chỉ trong một ngày, phủ Tể tướng đã được giải thoát khỏi bầu không khí chết chóc, dần dần khôi phục lại quang cảnh uy nghiêm và hào hoa như thường
ngày. Có người tới báo thủy lao bị cướp, Vũ Văn Hộ cũng chẳng buồn quan
tâm, chỉ vội vã ra lệnh phong tỏa tin tức, một lòng một dạ nghĩ tới sự
an nguy của mình.
3.
Bữa tiệc mời đạo trưởng đương
nhiên không thể qua loa. Chỉ có điều ở sảnh trước chỉ bày cơm chay đơn
giản, để cho thanh tịnh nên chỉ có vài người trên bàn tiệc.
“Đạo trưởng, phủ Tể tướng vốn luôn rất vững vàng, bình yên, không biết vì
sao đột nhiên lại bị tà linh?” Đang lúc trò chuyện cao hứng, Vũ Văn Hộ
dường như nghĩ ra điều gì đó, nghi hoặc hỏi.
“Tể tướng đại nhân
đã bao giờ nghe nói tới “gương Thanh Loan”?” Vô Thần đạo trưởng im lặng
giây lát rồi lên tiếng hỏi, hai mắt nhìn thẳng vào biểu cảm của Vũ Văn
Hộ.
Vừa nghe thấy ba tiếng “gương Thanh Loan”, đôi đũa trong tay tôi suýt thì rơi xuống, không dám ngẩng đầu nhìn lên, chỉ sợ biểu cảm
kinh ngạc của mình lúc này sẽ tiết lộ điều gì đó, đành nghiêng tai chăm
chú lắng nghe.
“Chưa bao giờ nghe nói.” Vũ Văn Hộ suy nghĩ giây lát rồi lắc đầu nói.
Vũ Văn Dung ngồi bên cạnh tôi hơi khựng người lại, trong mắt lướt nhanh
một tia nhìn kinh ngạc lạ thường, nhưng ngay lập tức lại khôi phục lại
vẻ điềm tĩnh, không hề có chút gì khác thường.
“Gương Thanh Loan là một ma vật cổ, là một hòn đá mà Nữ Oa nương nương đã để sót lại khi
vá trời, rơi xuống Diêu Trì hàng trăm năm, dần dần bị bào mòn thành một
chiếc gương có thần lực phi phàm, từng giúp Hoàng đế tiêu diệt ác long,
giúp Chu Vũ Vương diệt Thương Trụ, không những thông hiểu cổ kim, hơn
nữa còn biết trước tương lai, điên đảo thời không, thấu tỏ linh hồn, là
một báu vật vạn năng. Nhưng sau đó gương Thanh Loan rơi vào tay ma giáo, dần dần bị nhiễm sức mạnh tà ác, người có nó sẽ gọi tà linh tới, phạm
phải tội to tày trời. Gia Cát Lượng cũng từng rút ra một quẻ xăm “Thanh
Loan nhất xuất, thế tất vong quốc[2]” Vô Thần đạo trưởng thong thả nói.
[2] Gương Thanh Loan xuất hiện, tất sẽ mất nước.
Tôi thất kinh, trái tim càng thêm dao động. Ông ta nói gì thế? Rõ ràng là
“Gương Thanh Loan xuất hiện, thiên hạ quy về một mối” mới đúng chứ, tại
sao ông ta lại nói rằng “Thanh Loan nhất xuất, thế tất vong quốc”? Ông
ta điên đảo đổi trắng thay đen như vậy rốt cuộc là vì mục đích gì?
“Ý của đạo trưởng là…” Vũ Văn Hộ cau mày, nhìn ông ta dò hỏi.
“Gương Thanh Loan có khả năng đang ở tại quý phủ. Thế nên mới gọi tà linh tới, khiến cho phủ Tể tướng chỉ trong một đêm phải đối mặt với cái họa diệt
môn.” Hai mắt Vô Thần đạo trưởng sáng lấp lánh như một ngọn đuốc, nghiêm giọng nói, “Tể tướng đại nhân có biết gương Thanh Loan ở đâu không?”
“Trong phủ thực sự có ma vật đó sao? Sao ta chưa từng biết?” Vũ Văn Hộ tỏ rõ
vẻ kinh ngạc, quay đầu sang nhìn Nguyên Thị, bà cũng khẽ lắc đầu.
Thấy họ đều nói mình chưa từng biết tới việc này, trên mặt Vô Thần đạo
trưởng thoáng tỏ ra thất vọng. Ngừng lại một lát, ông ta lại điềm tĩnh
nói: “Chiếc gương Thanh Loan đó có thể che giấu năng lượng của mình,
nhìn vào không khác gì những chiếc gương bình thường, phủ Tể tướng này
quá rộng, đúng là khó có thể phát giác.”
“Không biết đạo trưởng hiện đang ở đâu?” Vũ Văn Hộ hỏi đầy thâm ý.
“Bần đạo chu du tứ hải, không ở nơi nào cố định.” Vô Thần đạo trưởng cung kính trả lời.
“Chi bằng tạm thời hãy ở lại trong phủ của ta, một mặt là trừ bỏ tà linh,
tìm kiếm gương Thanh Loan, mặt khác để ta bẩm báo lên Hoàng thượng,
phong cho đạo trưởng làm Pháp sư hộ quốc. Nếu không với thần lực của đạo trưởng thì thật là uổng phí nhân tài.”
“Vậy thì bần đạo cung
kính không bằng tòng mệnh vậy.” Trên mặt Vô Thần đạo trưởng vẫn giữ vẻ
điềm tĩnh, không hề chối từ, thản nhiên nâng ly lên nói.
Tôi
thầm thở dài trong lòng một tiếng, đúng là dẫn sói vào nhà. Tuy rằng
không biết vị đạo trưởng này có lai lịch như thế nào, nhưng qua việc ông ta bẻ cong lai lịch của gương Thanh Loan có thể thấy ông ta tới đây là
có mục đích khác.
Vũ Văn Dung chỉ mỉm cười uống rượu, gắp thức
ăn, tôi vô thức nhìn sang chàng, chàng cũng đang nhìn tôi, trong mắt hai người đều có một ngọn lửa phức tạp khó nói thành lời, có thể thấy chàng cũng không tin tưởng vị đạo trưởng này.
Tôi ngập ngừng rồi nâng ly với chàng.
Thôi kệ, tôi chẳng muốn quan tâm tới việc gì trong phủ Tể tướng nữa, tuy
rằng việc của gương Thanh Loan đã có manh mối, nhưng sức của mình tôi
cũng không thể nào kiểm soát được nó, huống hồ là người vô duyên chưa
chắc đã tìm được gương Thanh Loan. Thấy thời gian ước định sắp tới, lúc
này tôi chỉ muốn tới cổng Tây thành để gặp Lan Lăng Vương.
Ly rượu này coi như là cáo biệt. Vũ Văn Dung thấy tôi chủ động kính rượu chàng thì cũng nâng ly lên với tôi.
Ngửa đầu uống cạn.
Lúc này đã là canh ba.
Phủ Tể tướng từ trên xuống dưới qua kiếp nạn này đều đã khôi phục lại nguyên khí, bởi vậy tôi dễ dàng lẻn được ra ngoài.
Tôi cưỡi con bạch mã lao đi trên con đường tĩnh mịch không một bóng người
lúc nửa đêm. Mặc một chiếc váy phù dung vải voan mỏng màu xanh khói,
khoác một chiếc áo choàng với những hoa văn màu trắng sáng, mái tóc được búi gọn và giữ lại bằng chiếc trâm ngân chu, đây là trình độ làm tóc
tốt nhất của tôi rồi.
Nghĩ tới việc lát nữa sẽ được gặp chàng,
trong lòng tôi tràn đầy niềm hoan hỉ. Còn về gương Thanh Loan, sau này
tôi sẽ nghĩ cách. Tôi nói với mình như vậy. Ước mong được gặp chàng và
đổi lấy tự do cho chính mình đã vượt qua tất cả, tôi chỉ một lòng muốn
theo chàng đi tới tận chân trời góc bể.
Lan Lăng Vương vẫn được nhắc lại trong sách sử suốt cuộc đời được nhuốm một màu sắc thần bí và bi kịch.
Cho dù vận mệnh không thể nào thay đổi thì tôi cũng muốn được ở bên cạnh
chàng. Tôi muốn được dùng những hiểu biết về lịch sử của mình để bảo vệ
chàng, không để chàng đi tới cái kết cục tàn khốc ấy.
Tôi không biết đó có phải là tình yêu không, chỉ biết rằng, tôi rất muốn gặp chàng. Rất muốn ở cạnh chàng.
4.
Vầng trăng treo lơ lửng. Trên nền trời xanh thẫm điểm xuyết vài ngôi sao, trong không khí thoang thoảng, hơi lạnh của trời đêm.
Tôi đứng trong cơn gió lạnh lẽo dưới cổng thành, gió cuốn tà áo màu xanh
khói của tôi lên, nhìn từ xa như một chú bướm đang nhảy múa.
Thời gian chờ đợi luôn trôi qua thật khó khăn, tôi chắp tay đi đi lại lại,
trên mặt là một nụ cười mong ngóng, bước chân nhẹ nhàng như đang nhảy
múa. Đôi giầy thêu đạp lên phiến đá xanh, phát ra âm thanh khe khẽ.
Thời gian trôi qua từng giây từng phút, sắc trời đã nhạt dần, ánh sao cũng tối dần.
…
Chờ đợi, mong ngóng, tôi bắt đầu thấy nóng ruột.
Vầng trăng sáng dần chếch về phía Tây, canh tư đã qua.
Sự nhiệt tình trong lòng nguôi dần từng chút một, nụ cười hân hoan cũng
dần trở nên chát đắng, tạo thành một nét mặt không cam tâm và cũng chẳng dám tin.
Lúc này trời đã gần sáng, chàng… vì sao vẫn không tới?
Vậy mà tôi vẫn chờ mãi, chờ mãi, chờ cho tới khi tia sáng đầu tiên ló rạng, bầu trời phương Đông dần được phủ một màu trắng nhợt, lúc này tôi mới
tin, chàng sẽ không tới…
Ngồi dựa lưng vào tường thành, ôm chặt
đầu gối, nước sương thấm ướt y phục, cảm thấy hơi lạnh. Trái tim tôi như có một lỗ đen khổng lồ, lạnh lẽo nhấn chìm tôi. Bỗng dưng tôi nghe thấy hơi thở rất nhẹ, cảm giác thấy hơi ấm từ người khác, kinh hãi phát hiện ra sau lưng có người, tôi mừng thầm, vội vã đứng phắt dậy, quay người
lại, khóe mắt vẫn còn vương một giọt lệ, khóe môi nhếch lên thành một nụ cười hân hoan.
Khi nhìn rõ người trước mặt, ngọn lửa trong tim
đột nhiên tắt ngúm, khóe môi nhếch lên hạ xuống, sự mong ngóng trên
gương mặt biến thành vẻ thất vọng. Đồng thời trong đầu cũng dấy lên một
tia kinh ngạc. Vì sao lại là chàng ta?
Thân hình cao ráo của
người trước mặt dần dần bị ánh bình minh bao phủ, tạo thành một cái bóng tuyệt đẹp, cẩm y kim quan, đôi mắt sáng bừng, so với vẻ tiều tụy vì một đêm không ngủ của tôi, trông chàng càng thêm khí phách.
Là Vũ Văn Dung.
Thấy giọt nước mắt và biểu cảm thoáng chút thất vọng của tôi, trên mặt Vũ
Văn Dung thốt nhiên kinh ngạc, ngay sau đó chuyển thành một sự giận dữ
thâm trầm, lạnh giọng nói: “Nàng sẽ giải thích cho ta chứ?”
“Chàng muốn nghe điều gì?” Tôi cúi đầu xuống, nhẹ giọng hỏi ngược lại, cảm
thấy toàn thân mình không chút sức lực, trái tim bị một màn sương mờ che phủ, chẳng muốn dây dưa với chàng.
“Nghe nàng nói vì sao lại tự ý rời khỏi phủ, vì sao lại ăn mặc lộng lẫy như thế này để rồi khổ sở
chờ ở đây cả đêm, vì sao nhìn thấy ta lại có biểu cảm như vậy?” Vũ Văn
Dung đi tới trước mặt tôi, siết chặt cằm tôi, nâng lên, hàng lông mày
kiếm nhướng lên, nhấn rõ từng tiếng.
Tôi bị chàng ta siết mạnh,
đau nhói, trong lòng vốn đã không vui, khóe mắt nóng bừng, nước mắt sắp
trào ra đến nơi. Nhưng chàng càng hung dữ thì tôi lại càng không chịu
thua kém, đưa mắt nhìn ra chỗ khác, tôi dịu giọng nói: “Ôi, Tư Không đại nhân từ lúc nào bắt đầu quan tâm tới hành tung của Thanh Tỏa vậy? Trong mắt chàng, chẳng phải ta là kẻ có cũng được, không có cũng được, mà
tránh được thì càng tốt sao?” Nói rồi ánh mắt tôi nhìn chàng ta đầy châm biếm, nhướng mày lên lạnh giọng nói: “Chàng và ta có quan hệ như thế
nào thì ai cũng biết!”
Vũ Văn Dung khựng lại, hai mắt nhìn tôi
trân trối một hồi lâu, tôi cũng lặng lẽ và chán nản nhìn lại. Giây lát
sau, chàng hằn học buông tôi ra, nhướng mày cười lạnh: “Được, vậy nàng
nói xem, ta và nàng là quan hệ gì?”
Trong lòng tôi tràn đầy ấm
ức mà không nơi phát tiết, lúc này trái tim đã nguội lạnh, bất chấp hậu
quả, nói thẳng: “Ta là tì thiếp mà Vũ Văn Hộ tặng cho chàng, làm gì có
chuyện chàng thật lòng đón nhận? Sợ ta giám sát chàng, sợ ta nhìn thấu
dã tâm của chàng, ngoài mặt thì đối với ta rất tốt, nhưng âm thầm để mặc những ả đàn bác khác đối xử không ra gì với ta. Vũ Văn Dung, không
thích thì đừng lấy, hà cớ gì phải làm lỡ cả cuộc đời của người khác?”
Có phải là nam nhân trong thiên hạ đều là phường phụ tâm bạc hạnh? Nguyên
Thanh Tỏa thực sự một lòng một dạ yêu thương chàng ta sâu sắc, sống
trong tòa Như Yên Các bé nhỏ chờ đợi, mong ngóng được gặp chàng ta giây
lát, nhưng thứ mà nàng nhìn thấy chỉ là tiếng hoan lạc của chàng ta với
người phụ nữ khác, cuối cùng vẫn bị My chủ nhân đang đắc sủng đánh cho
thừa sống thiếu chết. Sự đấu tranh chính trị của đám nam nhân thì liên
can gì tới người con gái hiền hòa, bé nhỏ và yếu ớt ấy? Nếu bắt Đoạn Mộc Liên tôi bị cầm tù cả đời trong khoảng bầu trời bốn góc ấy để giữ một
gã đàn ông mà mình không yêu, cả ngày phải đấu trí với đám phụ nữ nanh
nọc, độc ác thì chi bằng cho tôi một đao chết luôn cho xong.
Vũ
Văn Dung nghe tôi nói thẳng như vậy thì kinh ngạc, hai mắt tối sầm
xuống, con ngươi mắt đen láy như mực tỏa ra một tia lửa lạnh lẽo và phức tạp, giọng nói ngược lại, rất bình thường như một sự bình yên trước
giông bão, bước thêm một bước, nhìn tôi đầy uy hiếp.
“Ồ? Ta có dã tâm gì mà sợ nàng nhìn thấu sao?”
Đối mặt với đôi mắt u ám và lạnh lẽo của chàng ta, tôi bỗng thấy hoảng sợ,
vô thức lùi chân lại, miễn cưỡng nói: “Bản thân chàng phải là người rõ
nhất chứ! Sao lại hỏi ta?”
Tư Không Vũ Văn Dung lúc này vẫn còn
chìm trong tửu sắc, vô cùng phóng đãng, trêu hoa ghẹo nguyệt khắp nơi,
nếu không phải nhờ có những hiểu biết về lịch sử, biết rằng chàng là Chu Vũ Đế, một vị minh quân thống nhất Bắc triều thì e rằng tôi không nhận
ra chàng có dã tâm gì. Cũng không thể biết rằng chàng vẫn luôn ẩn nhẫn
trù mưu, sẽ có một ngày giết chết Tể tướng Vũ Văn Hộ, người đã giết hai
người huynh đệ của chàng.
Ánh mắt Vũ Văn Dung càng thêm đáng sợ, tôi hốt hoảng, lùi dần về phía sau, tới khi sống lưng tôi đụng phải bức tường thành lạnh lẽo và cứng ngắc, không còn đường lùi. Chàng áp sát
lại gần tôi, gương mặt đẹp như tạc tỏa ánh sáng lạnh lẽo dưới chút ánh
trăng còn sót lại, bàn tay vỗ “bịch” một cái lên bức tường sau lưng tôi, ánh mắt nhìn thẳng vào tôi. Tôi cảm thấy hai luồng ánh mắt của chàng
đang rọi vào tim tôi, muốn xuyên thấu mọi ý nghĩ của tôi.
Đối
diện với ánh mắt lạnh lẽo ấy, trong lòng tôi bỗng thấy e sợ, không dám
nhìn tiếp vào mắt chàng, nói giọng run rẩy: “Chàng, chàng định làm gì?”
“Ta định làm gì? Nàng nói xem ta định làm gì? Chẳng phải nàng tự cho rằng
mình rất hiểu ta sao?” Giọng nói trầm ấm của chàng vang lên trong không
gian, hơi ấm từ miệng chàng quấn quýt bên tai tôi, rồi bỗng dưng nhẹ
nhàng cắn lấy thùy tai tôi…
Tôi cứng đơ lại, cảm giác sợ hãi bao trùm, bản năng khiến tôi quay người đi định tránh, nụ hôn nóng bỏng của chàng rơi trên cổ trắng ngần của tôi. Cả người tôi run rẩy, một cảm
giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng, tôi đâu đã trải qua những việc này, sợ
hãi biến thành cơn run rẩy, đầu óc trống rỗng, trong giọng nói run rẩy
gần như là cầu khẩn, lắp bắp: “Chàng làm gì… đừng… đừng như thế…”
Chàng ngẩng đầu lên nhìn tôi, trong đôi mắt sáng lóe lên một tia cười lạnh,
siết chặt cằm tôi, bắt tôi phải đối mặt thẳng với ánh mắt của chàng,
trên gương mặt tuấn tú hiện lên một nụ cười tà ác, trầm giọng nói: “Nàng biết những gì, vì sao lại không nói với cô phụ của nàng? Nguyên Thanh
Tỏa, nàng đối với ta như thế nào, trong lòng ta hiểu rõ. Ha ha, quả
nhiên là khác với trước kia rồi, đã biết dùng chiêu mềm nắn rắn buông để thu hút sự chú ý của ta!” Nói rồi đôi môi mỏng nóng ấm ghé sát về phía
tôi.
Tôi vừa kinh hãi, vừa hoảng sợ, vốn trong lòng tràn đầy sự
tủi thân, lúc này chẳng còn chút khí thế mạnh mẽ nào của ban nãy, tôi
nhắm mắt lại, dòng nước mắt nóng hổi lăn xuống, rơi vào lòng bàn tay
chàng, biến thành một bông hoa nước vỡ vụn.
Vũ Văn Dung khựng
lại, trong đôi mắt đen láy lóe lên một sự kinh ngạc, bất giác dừng lại.
Hàng lông mi còn đọng nước của tôi run rẩy, cả người tôi cũng đang run
rẩy, nhìn chàng đầy oán trách và sợ hãi. Thấy tôi như vậy, chàng dừng
lại trong giây lát, trên mặt là một vẻ bất lực, đẩy mạnh tôi ra, trong
giọng nói tràn đầy sự đả kích khinh miệt.
“Hừ, mềm nắn rắn buông quan trọng là ở chỗ biết điểm dừng, mềm quá đôi khi lại phản tác dụng.”
Cả người tôi như một cục bông mềm nhũn, không được cánh tay chàng đỡ lấy nên chầm chậm trượt xuống theo bờ tường.
Chàng còn tưởng là tôi đang mềm nắn rắn buông sao! Nhưng tôi lúc này sau khi
bị dọa dẫm muốn phát nộ cũng chẳng đủ sức, trong giọng nói chỉ còn sự
nghẹn ngào: “Ta bất quá chỉ là muốn đi… Đã không thích ta, đã ghét ta
thì vì sao còn giữ ta bên cạnh? Thả ta đi đi, ta hứa với chàng là sau
khi đi rồi, ta sẽ không quay lại nữa.”
Vũ Văn Dung nghe nói vậy
thì quay đầu nhìn tôi, ánh mắt trở nên phức tạp, lạnh lẽo, lạnh lùng
nói: “Có rất nhiều cách để nàng biến mất nhưng giờ không phải lúc. Nàng
coi Tư Không phủ của ta là nơi nào, dễ dàng để nàng nói đến là đến, đi
là đi sao?”
Tôi nhắm mắt lại hít sâu một hơi. Vũ Văn Dung chẳng
nhẽ chàng cứ kiên quyết ép ta vào đường cùng? Nhìn chàng đầy căm hận,
tôi nói rõ từng tiếng: “Vũ Văn Dung, chàng đừng ép ta!”
Vũ Văn
Dung đi tới cạnh tôi, ngồi xổm xuống, khóe miệng nhếch lên thành một nụ
cười lạnh lẽo: “Nguyên Thanh Tỏa, là nàng ép ta! Nếu ban nãy nàng không
nói những lời kích động ta thì có lẽ ta có thể tha cho nàng đi. Nhưng
giờ đây, hừ… Trừ phi ta gật đầu, còn nếu không cả đời này nàng đừng hòng rời khỏi Tư Không phủ!”
Nói rồi chàng giữ chặt cổ tay tôi, kéo
tôi đứng lên, lôi tôi đi vào trong cổng thành. Lúc này tôi vừa sợ hãi,
vừa giận dữ lại vừa tuyệt vọng, chẳng còn sức để nói lời nào, dường như
mình vừa bị rút kiệt hết mọi sức lực, chân còn chưa đứng vững, cả người
đã đổ nhào về phía chàng. Vũ Văn Dung đưa tay ra giữ lấy thắt lưng tôi,
thấy ánh mắt của tôi hốt hoảng, trống rỗng thì “hừ” nhẹ một tiếng, ôm
thốc tôi lên ngựa, hai người cùng cưỡi một con ngựa đi về phía phủ Tể
tướng.
Trời đã sáng. Những vì sao nơi chân trời đã nhạt nhòa, ánh mặt trời đã xé rách màn đêm, tỏa ra tia sáng chói lọi.
Lẽ ra tôi còn tràn đầy hân hoan chờ đợi cuộc sống sau này.
Lẽ ra tôi còn tưởng rằng Lan Lăng Vương sẽ tới và đưa tôi đi.
Lẽ ra tôi không ghét Vũ Văn Dung nhiều đến thế.
Lẽ ra tôi còn muốn nâng ly từ biệt chàng, tưởng rằng sau này sẽ không gặp nhau nữa.
Ai ngờ chỉ trong một đêm, thứ tôi nhận được chỉ là đáp án ngược lại.
…
Tôi đờ đẫn dựa vào lòng Vũ Văn Dung, cụp mắt nhìn xuống đất.
Cảm giác con đường lát đá xanh tối tăm trước mặt dài như không có điểm tận
cùng.
5.
“Thanh Tỏa tiểu thư, Tư Không đại nhân bảo tôi gửi lời đến người, nói là đã
sắp khai yến, mời tiểu thư qua đó.” Một tì nữ đứng ở cửa nói với tôi,
tôi ngồi trong màn ừ một tiếng, rồi lại nằm xuống một lát rồi mới uể oải ngồi dậy.
Sau mấy ngày mệt mỏi, tôi chẳng muốn gặp ai, cô mẫu
phái người tới, tôi chỉ nói cơ thể hư nhược, bệnh vẫn chưa lành hẳn, cả
ngày ở trong phòng nghỉ ngơi. Nhưng lần này Vũ Văn Dung đích thân phái
người tới gọi tôi đi dự yến, làm sao tôi có thể không đi?
Ngồi
trước trang đài[3] soi gương, gương mặt trong gương nhợt nhạt, hàng mi
dài thanh tú bị bao phủ bởi vẻ tiều tụy, mái tóc đen dài xõa ra sau
lưng, ngũ quan đoan chính trông càng đáng thương, đôi môi xám xịt, hầu
như chẳng còn giữ nổi sắc hồng.
[3] Bàn trang điểm.
Vũ
Văn Dung, chắc chắn chàng ta rất muốn nhìn thấy dáng vẻ của tôi hiện
giờ? Tôi chăm chú nhìn mình trong giây lát, cắn cắn môi, lúc này đôi môi mới có chút huyết sắc. Nhếch mép lên, tập luyện một nụ cười thật rạng
rỡ. Cầm chiếc lược cẩn thận chải từng lọn tóc, tỉ mẩn chọn chiếc trâm
cài có khảm một viên ngọc tím cho hợp với đôi khuyên tai thủy tinh tím,
dùng nó để búi gọn mái tóc ra sau, mấy sợi tóc lòa xòa bên tai, trông cả người tôi có sức sống hơn nhiều.
Cố tình chọn một bộ sa y màu
đỏ có những hoa văn hồ điệp chìm, màu sắc vui vẻ này cũng như là một
cách để thị uy. Tôi hài lòng ngắm mình trong gương, đang định bước ra
ngoài cửa thì lại dừng lại, trầm tư suy nghĩ nhìn vào chiếc gương đồng
trên trang đài.
Mấy hôm nay, Tể tướng Vũ Văn Hộ nghe theo lời
của Vô Thần đạo trưởng, đã tỉ mỉ kiểm tra một lượt những chiếc gương
trong phủ, vẫn không tìm thấy chiếc gương Thanh Loan. Những gia đình
giàu có ở thời đại này thường khắc hình long lân quy phụng hay hình lục
lăng ở mặt sau của chiếc gương để đại diện cho sự cát tường, nhưng gương Thanh Loan được nước Diêu Trì mài mòn, xung quanh đều trơn nhẵn như
ngọc, không có một đường vân nào. Đặc điểm này của gương Thanh Loan tôi
cũng biết, nhưng âm thầm tìm khắp trong phủ Tể tướng cũng chẳng có thu
hoạch gì. Nhưng Vô Thần đạo nhân… Vì sao ông ta lại hiểu về gương Thanh
Loan như vậy? Tôi luôn cảm thấy ông ta là một nhân vật khó nhằn, có lai
lịch bất minh. Nhưng lúc này chẳng nghĩ được nhiều nữa, thở dài một hơi, tôi cố tỏ ra tươi tắn, bước chân ra khỏi cửa.
Khi tôi tới nơi
thì đã hơi muộn. Hôm nay là buổi gia yến tổ chức để chúc mừng Tể tướng
Vũ Văn Hộ đã xây một tòa kiến trúc rất cao cho Vô Thần đại nhân ở ngay
trong phủ Tể tướng. Nghe nói tòa lầu các đó được xây dựng dựa vào “Ngọc
Hư Quan” trên đỉnh núi Côn Lôn, được lấy tên là “Vô Thần Các”, xem ra
ông ta thực sự muốn giữ đạo nhân ở lại lâu dài trong phủ.
Đạo
gia đa số đều thích thanh tịnh, nhưng bữa yến tiệc này dường như hơi
nhiều người. Tôi mỉm cười tươi tắn bước vào, thỉnh an mọi người có mặt
rồi nhìn về phía Vô Thần đạo nhân, nói: “Thanh Tỏa tới muộn, nhưng vì có nguyên nhân, nên mong đại nhân thông cảm.” Nói rồi tôi hất tay áo lên,
nhẹ nhàng mở ra, nói, “Để chúc mừng tân các của đạo nhân hoàn thành,
Thanh Tỏa đã chuẩn bị một món quà mọn, không biết tâm ý ngài thế nào.”
Trên hai cuộn giấy tinh xảo, tôi viết lên hai dòng chữ uốn lượn: “Tề vạn vật hề siêu tự đắc. Ủy tính mệnh hề nhậm khứ lưu”[4]. Nét chữ của tôi là do danh sư đào tạo, luôn uyển chuyển, sắc nét, để phối hợp với ý tứ của
câu thơ, tôi còn cố ý viết sao cho thật thoáng, có lẽ trông cũng không
tệ.
[4] Bằng trời đất hề, tâm khoan khoái. Giao mạng sống hề,
theo người đi (Trích trong Kim Vân Kiều truyện. Dịch thơ: GS Đàm Quang
Hưng).
“Đạo nhân chu du tứ hải, tầm mắt và trái tim đều không ai sánh bằng. Chỉ có châm ngôn của đạo gia viết bởi Kê Khang mới xứng với
ngài, Thanh Tỏa hèn mọn, mong đại nhân tiếu nạp.” Tôi cuộn bức vẽ lại,
đích thân giao vào tay gã tiểu đồng sau lưng Vô Thần đạo nhân.
Kê Khang là một danh sĩ thiên cổ, là nhân vật đại diện cho phong lưu Ngụy
Tấn, câu thơ này lại bao hàm tư tưởng Đạo gia, ý của tôi muốn nói, ông
ta từ bỏ cuộc sống ngao du sơn thủy để bước chân vào phủ Tể tướng, trên
thực tế là một hành vi siêu thoát. Quả là một sự giả tạo.
Vô
Thần đạo trưởng thấy tôi khen ngợi mình thì hình như rất hài lòng, tự
đắc, vuốt chòm râu trắng như tuyết, cười nói: “Tiểu thư hữu tâm quá. Chỉ là bần đạo đã già, đâu thể sánh với Kê Khang hạc lập kê quần”[5]. Nói
rồi ông ta bật cười cao ngạo như thể mình vừa kể một câu chuyện cười.
[5] Tương truyền Kê Khang là người khôi ngô, tuấn tú, những người gặp ông
đều nói ông có ngoại hình đường hoàng, đứng đắn, chắc chắn là bậc cao
nhân. Trong “Dung Chỉ” có ghi chép lại, có người từng khen con trai của
Kê Khang như một chú hạc giữa đàn gà trước mặt Vương Nhung. Nhưng Vương
Nhung nói: “Đó là vì ngươi chưa gặp cha hắn”. Bởi vậy từ đó mới có câu
“Hạc lập kê quần” để khen ngợi những người ưu tú.
Cả bàn tiệc
yên lặng trong giây lát, mọi người chỉ lặng lẽ cười theo. Tôi thì lại
cười rất thật lòng, nghĩ bụng lão già này thật thú vị, đã hơn 60 tuổi
rồi mà còn muốn so sánh dung mạo với Kê Khang. Chắc cũng vì quá đắc ý
nên mới nói một câu tỏ vẻ không kính trọng người đời trước như vậy. Mọi
người chỉ nói ông ta đúng là người hào sảng chứ không để ý nhiều.
“Nét chữ của tiểu thư uyển chuyển mà vẫn không đánh mất sự mạnh mẽ, thực là
hiếm thấy. Lại thêm một câu thơ rất hay, chắc chắn bần đạo sẽ treo nó
tại chính môn của Vô Thần Các, chỉ ngắm thôi cũng đã thấy vui lòng.” Vô
Thần đạo nhân vuốt râu nói, xem ra thực sự rất đón nhận cái tình của
tôi.
“Đạo nhân không chê là tốt.” Tôi cúi đầu nói. Trong lòng
bất giác vui thầm, hiện nay tôi đang mâu thuẫn với Vũ Văn Dung, nhân cơ
hội còn đang ở phủ Tể tướng, tôi phải khiến Vũ Văn Hộ càng vui càng tốt. Trước mắt ông ta coi Vô Thần đạo nhân là thượng khách, đương nhiên phải lấy lòng người mà ông ta coi trọng rồi. Huống hồ Vô Thần đạo nhân lai
lịch khó đoán, lại biết pháp thuật, tôi càng không thể đối đầu với ông
ta.
Nhưng ích lợi gần nhất vẫn là trên bàn tiệc. Tôi ngồi ngay ngắn trên ghế, nghiêng đầu mỉm cười, mắt liếc Vũ Văn Dung.
Chàng thấy tôi xuất hiện rất lộng lẫy thì hơi kinh ngạc, giờ lại thấy tôi
cười cười nói nói lấy lòng Vô Thần đạo nhân thì ánh mắt nhìn tôi thăm
dò. Nhưng chàng cũng là một người rất giỏi diễn kịch, chớp mắt đã đổi
sang vẻ mặt hiền hòa, gắp một miếng măng vào bát tôi, nói giọng bình
thường: “Thấy sắc mặt nàng khá tốt, bệnh khỏi hẳn rồi chăng?”
“Cũng nhờ Tư Không đại nhân một lòng chăm sóc, Thanh Tỏa mới khỏi nhanh như vậy.” Tôi càng cười rạng rỡ hơn.
Chàng hơi sững lại, nhất thời không nói được lời nào, chỉ mỉm cười nhìn tôi.
Nguyên Thị nhìn tôi đầy thâm ý, nét mặt tỏ vẻ hài lòng. Có lẽ bà tưởng tôi
không phụ lòng kì vọng của bà, mối quan hệ với Vũ Văn Dung đã có chuyển
biến tốt. Nhưng không biết rằng lúc này tôi mới thực sự đối đầu với
chàng.
“Đúng rồi, đạo trưởng có còn nhớ hôm đó ngài từng nói Tư
Không đại nhân có diện tướng bất phàm, chắc chắn không phải hạng phàm
phu tục tử?” Tôi làm như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, không nhìn Vũ Văn
Dung nữa, mỉm cười hỏi.
“Còn nhớ.” Hình như Vô Thần đạo nhân không ngờ đột nhiên tôi lại hỏi vấn đề này, lúng túng giây lát rồi đáp.
“Dám hỏi đạo nhân, bất phàm như thế nào ạ?” Tôi nhấp một ngụm trà, ngây thơ hỏi.
“Điều này…” Vô Thần đạo nhân trầm ngâm giây lát, ánh mắt làm như vô tình lướt qua Vũ Văn Hộ và Vũ Văn Dung, nhất thời không có câu trả lời.
“Ừm… Thiên đình[6] đầy đặn, địa các vuông tròn…” Tôi giả bộ quay sang ngắm
Vũ Văn Dung, lẩm bẩm nói, “Thực ra tôi cũng hiểu đôi chút về xem tướng,
trông có vẻ như…” Tôi chớp mắt, nhìn sang Vô Thần đạo nhân vẻ dò hỏi.
[6] Giữa trán.
“Đế vương chi tướng, chí quý chi dung.” Vô Thần đạo nhân ngập ngừng giây
lát rồi trầm giọng nói. Đương nhiên ông ta biết địa vị của Vũ Văn Hộ
trong triều đình như thế nào, cũng biết mối quan hệ giữa Vũ Văn Hộ và Vũ Văn Dung. Trước mặt Tể tướng Vũ Văn Hộ mà hình dung về Vũ Văn Dung như
vậy đương nhiên là chẳng có chút ích lợi gì đối với ông ta. Ông ta nhìn
tôi đầy kinh ngạc, có lẽ trong lòng đang thầm nghĩ, ban nãy tôi vẫn còn
ngoan ngoãn, sao đột nhiên lại thốt ra những lời nói có thể gây hại cho
phu quân của mình. Ai cũng biết, trong triều đình hiện nay, Tể tướng Vũ
Văn Hộ một tay chấp chướng đại quyền, Hoàng đế mà ông ta đưa lên chẳng
qua chỉ là một con rối, nói chết là phải chết chứ đừng nói chỉ một Tư
Không Vũ Văn Dung nhỏ bé. Huống hồ, một người như Vũ Văn Hộ chắc chắn là rất đa nghi, luôn luôn đề phòng hậu họa.
Sắc mặt Vũ Văn Dung sa sầm xuống, nhìn tôi bằng ánh mắt phức tạp, ngay sau đó cúi đầu xuống
gắp thức ăn, làm như thể không nghe thấy gì. Vũ Văn Hộ vẫn giữ nét mặt
bình thường, nhưng ánh mắt thì đã tối đi. Quay mặt về phía Vô Thần đạo
nhân, nhưng ánh mắt thâm trầm lại đang chiếu vào Vũ Văn Dung, cười nói:
“Vậy sao? Đế vương chi tướng không phải là người phàm có thể có được.”
Ngữ khí của ông ta vẫn bình thường, nhưng có thể nhận ra hơi lạnh trong đó, chỉ nghe thôi mà tôi đã ớn lạnh trong lòng. Sắc mặt Vũ Văn Dung thoáng
cau lại, vẫn bình tĩnh cúi đầu, vừa định nói gì đó thì tôi đã mỉm cười
tranh nói trước: “Trong sách nói Lưu Bị thiên đình đầy đặn, địa các
vuông tròn, hai tay dài quá gối, thùy tai dài tới vai, là Đế vương chi
tướng, Tư Không đại nhân bất quá chỉ mới giống được hai điểm. Diện tướng như thế này cứ trong mười người thì tìm được hai người, có lẽ chỉ là
phúc trạch thâm hậu, làm sao dám nói là Đế vương chi tướng. Tôi còn
tưởng diện tướng bất phàm của chàng mà đạo nhân nói là ý nói chàng hồng
loan tinh vượng, mệnh phạm đào hoa cơ”[7]. Nói rồi tôi liếc nhìn Vũ Văn
Dung một cái, rồi lại nhìn cô mẫu Nguyên Thị đầy vẻ tủi thân, nhìn Vũ
Văn Hộ bằng vẻ đáng thương và nói tiếp: “Cô phụ cô mẫu phải làm chủ cho
Thanh Tỏa, nghe nói Tư Không đại nhân lại vừa ý hai ca kĩ trong phủ. Chỉ thấy người mới cười, không thấy người xưa khóc, Thanh Tỏa sau này không biết nên đi đâu về đâu nữa.” Nói rồi tôi chép miệng, đặt nhẹ đôi đũa
xuống bàn.
[7] Ý nói là người đào hoa, nhiều thê thiếp.
Mọi người thấy tôi đi một đường dài rồi giở tính trẻ con đều bất lực bật
cười, bầu không khí giãn ra ít nhiều. Cô mẫu Nguyên Thị tưởng là tôi
đang cố ý tranh sủng, giả bộ trách cứ: “Thanh Tỏa, con gái nói điều này
trước mặt mọi người mà không biết xấu hổ. Vả lại nam nhân tam thê tứ
thiếp là chuyện bình thường, huống hồ con gả về đó đã hơn năm trời mà
chẳng sinh cho Dung nhi đứa con nào, đương nhiên nó phải tìm người khác
rồi.”
Tôi tuy rằng đang diễn kịch nhưng nghe những lời này, gò má vẫn nóng bừng.
Sắc mặt Vũ Văn Hộ dần dần hòa hoãn trở lại, tiếp lời Nguyên Thị, cười nói:
“Đứa cháu gái này của ta càng ngày càng lợi hại rồi, dám cáo trạng tới
tận chỗ ta, quản cũng không phải mà không quản cũng không phải. Khiến Vô Thần đạo nhân cười rồi.”
Vô Thần đạo nhân ban nãy vừa nhận quà
của tôi nên ấn tượng về tôi khá tốt, vuốt chòm râu dài, cười nói: “Bần
đạo cũng không phải người ngoài, vả lại Thanh Tỏa cô nương với Tư Không
đại nhân phu thê tình thâm, thực sự khiến người ta ngưỡng mộ. Có điều cô nương có một đôi mắt đào hoa. Tuy rằng dung mạo không phải khuynh quốc
khuynh thành, nhưng chắc chắn sau này sẽ gặp bậc chí quý chi nhân đa
tình.”
… Cái gì? Mắt đào hoa? Tôi nghe mà giật mình, ngất mất
thôi, má tôi giần giật, càng đỏ thêm. Tôi vội vã nói: “Sao bây giờ mọi
người lại chuyển sang chế nhạo con? Vả lại con chỉ là một tì thiếp thôi
mà, đâu xứng làm phu thê với chàng?”
“Ha ha, mùi vị chua quá!”[8]
[8] Tại Trung Quốc, người ta thường ví mùi chua hay mùi dấm như là sự ghen tuông.
Vũ Văn Dung phản ứng rất kịp thời, thân mật gắp một miếng dưa chua bỏ vào
miệng tôi, một tay thì khoác vai tôi, nói đầy thương yêu, “Sau này ta sẽ thương nàng nhiều hơn, không làm loạn nữa.”
Tôi bị chàng ôm
chặt, cả người như mất cảm giác, miệng như nhai rơm, đối mặt với ánh mắt nhìn tôi đầy sắc lạnh của chàng đành mỉm cười quyến rũ.
“Vậy thì phải xem biểu hiện của chàng thế nào.”
Tể tướng Vũ Văn Hộ thấy tôi và Vũ Văn Dung thân mật với nhau thì hơi ngẩn
ngơ, ngay sau đó nở một nụ cười hài lòng. Bầu không khí căng thẳng ban
nãy đã trôi qua. Thực ra chắc chắn ông ta vẫn thận trọng đề phòng Vũ Văn Dung? Chỉ có điều là nhiều hay ít mà thôi. Tôi gây sóng gió rồi lại
giúp Vũ Văn Dung giải quyết sóng gió là vì muốn để chàng ta biết, Nguyên Thanh Tỏa tôi đã nắm bắt được đôi chút về tương lai của chàng.
Đúng lúc này thì đột nhiên có một kẻ hầu ngoài cửa vào báo, nói là Nhan cô
nương đã quay về, muốn gặp lão gia và lão thái thái[9] gấp.
[9] Thái thái ý chỉ phu nhân.
Nhan Uyển về rồi? Tôi bỗng dưng thấy hoài nghi. Hôm đó cả phủ Tể tướng từ
trên xuống dưới đều bị bệnh, theo lời Vô Thần đạo nhân thì là “tà linh
xâm nhập”, nhưng ai mà biết trên thực tế là chuyện gì xảy ra? Sao lại
tình cờ như vậy, đúng vào lúc đó thì nàng ta lại đi thăm họ hàng thân
thích ở ngoại thành, tới khi sóng yên bể lặng rồi mới quay về?
Cha của Nhan Uyển là Kinh lược tiết độ sứ, cũng được coi là một quan viên
quan trọng trấn thủ biên phòng, Vũ Văn Hộ luôn đối xử rất tốt với Nhan
Uyển, ra hiệu bảo cho nàng ta vào.
“Tể tướng đại nhân… phu
nhân!” Nhan Uyển sắc mặt tiều tụy bước vào, ánh mắt lướt qua một vòng,
nhìn Vũ Văn Dung một cái rồi quay sang Vũ Văn Hộ đang ngồi ở vị trí chủ
tọa, nói: “Uyển nhi vừa về nhà di nương[10] đã nghe nói phủ Tể tướng xảy ra chuyện nên vội vã về đây.” Nói xong nàng ta đưa tay lên giữ ngực,
thở hắt ra một hơi, nói tiếp: “Cũng may là trong phủ từ trên xuống dưới
vẫn bình an vô sự.” Nàng giơ tay lên chỉ vào hai cái rương gỗ lớn mà một kẻ hầu vừa khiêng vào.
[10] Nhà dì.
“Đây là nhân sâm và nhung hươu mà con mang về để đại nhân và phu nhân bồi bổ cơ thể, mong
hai người sớm bình phục. Coi như là tấm lòng của Uyển nhi.”
Vũ
Văn Hộ lạnh nhạt nói: “Ừ, cảm ơn con. Uyển nhi, mau bái kiến Vô Thần đạo trưởng. Lần này cũng nhờ có ông ấy mà phủ Tể tướng chúng ta mới thoát
được kiếp nạn này.”
Ánh mắt Nhan Uyển dừng lại nơi Vô Thần đạo
nhân, với biểu cảm hiền lành, nhu mì như trước, tỏ vẻ vô cùng cảm kích,
cúi người hành lễ rồi thành khẩn nói: “Uyển nhi đa tạ đạo trưởng. Ơn cứu mạng, sau này Uyển nhi sẽ hết lòng tương báo.”
Vô Thần đạo nhân hơi ngẩng đầu lên, coi như là nhận lễ.
Thật hay cho câu “cảm ơn cứu mạng, hết lòng tương báo.” Tôi cười thầm một
tiếng, giờ thì đã gặp một kẻ còn biết ăn nói hơn tôi rồi. Việc này vốn
dĩ nàng ta chẳng chịu chút tổn hại nào mà lại nói là “ơn cứu mạng”, ý
nàng ta là phủ Tể tướng cũng như nhà mình, coi tính mạng của Vũ Văn Hộ
và những người khác quan trọng như tính mạng của mình.
Vũ Văn Hộ nghe nàng ta nói thế, quả nhiên long nhan vui vẻ, nheo mắt nói: “Lại đây ngồi đi!”
Lời nói vừa dứt đã có một người hầu nhanh nhẹn mang thêm một chiếc ghế cho
nàng ta, ở ngay bên cạnh Vũ Văn Dung. Nhan Uyển lộ vẻ e thẹn, hai người
đưa mắt nhìn nhau cười rồi mới thẹn thùng ngồi xuống.
Tôi giả bộ như không nhìn thấy, trong lòng cười lạnh một tiếng, Vũ Văn Dung, không phải là chàng thực sự thích nàng ta rồi chứ? Hừ, vậy thì ta cứ gây rối
để hai người không được ở bên nhau đấy. Nghĩ tới đây, cổ tay tôi thoáng
run một cái, bát canh trong tay đổ xuống cánh tay Vũ Văn Dung. Tôi giả
bộ kinh hãi, vội vã vén tay áo đã bị ướt của chàng lên. Bát canh không
nóng lắm, nhưng vẫn để lại một vệt đỏ trên cánh tay vạm vỡ của chàng,
tôi làm ra vẻ thương xót: “Đều tại thiếp… Xin Tư Không đại nhân theo
thiếp về phòng để bôi thuốc, Thanh Tỏa tay chân vụng về nên trong tư
phòng lúc nào cũng chuẩn bị sẵn thuốc men bên người.” Nói rồi tôi mỉm
cười.
Mọi người nghe câu nói cuối cùng của tôi thì cũng bật
cười. Nguyên Thị lắc đầu cười nói: “Coi như con cũng tự biết thân biết
phận. Mau đi đi, đừng để Dung nhi bị đau.”
Tôi cúi đầu cười
cười, ánh mắt liếc qua gương mặt thất vọng của Nhan Uyển, trong lòng
thấy hả hê đắc thắng. Vừa mới ngồi xuống cạnh Vũ Văn Dung đã bị một nữ
nhân khác kéo đi. Nhan Uyển chung tình với chàng đã lâu, chắc là thất
vọng lắm.
Nàng ta thoáng có vẻ ngượng ngùng, quay đầu nhìn sang
phía khác, đúng hướng Vô Thần đạo nhân đang ngồi, mắt hai người chạm
nhau giây lát rồi lại nhanh chóng lảng ra.
Tôi đỡ tay áo cho Vũ
Văn Dung, cùng sánh vai nhau đi ra khỏi phòng. Khoái cảm vì trò đùa ác ý ban nãy đã dần dần biến mất, một cảm giác khó nói thành lời dấy lên
trong tim, dường như trong lòng mình vừa lướt qua một việc gì đó rất
quan trọng, nhưng lại mơ hồ không nghĩ ra.