Trương Nguyên nói:
- Văn Hiếu Liêm đại tài, tạm thời thi cử khó khăn, sớm muộn gì cũng đến lúc danh chấn thiên hạ.
Phạm Văn Nhược liền nói:
- Hôm nay tụ hội, không thể không có luận văn chất vấn. Văn huynh và Trương công tử đều chuyên trị “Xuân Thu”. Hôm nay hạnh ngộ, cứ ở đình Hà Phong Tứ Diện này sướng ngôn “Xuân Thu”, thế nào?
Văn Chấn Mạnh có chút thiện cảm với Trương Nguyên, có cương trực đến đâu thì cũng muốn nghe người khác khen ngợi, y nói:
- Vậy phải thỉnh giáo Trương công tử rồi.
Trương Nguyên nói với Phùng Mộng Long:
- Tử Do huynh cũng trị “Xuân Thu”, cùng biện luận luôn đi.
Đình Hà Phong Tứ Diện đơn hiên sáu góc, bốn mặt thông thoáng. Đình nằm giữa mặt nước, đứng trên đình ngắm lá sen trong hồ cao ngút, hoa sen nở rộ, cành liễu lất phất bên bờ, có câu đối rằng: “Tứ bích hà hoa tam diện liễu, bán đàm thu thủy nhất phòng sơn”. (Bốn vách hoa sen ba mặt liễu, nửa đầm thu thủy một vách tường)
Trương Nguyên ngồi trên ghế trong đình cùng Văn Chấn Mạnh và Phùng Mộng Long, gần trăm chư sinh vây quanh thính giảng “Xuân Thu”. Vào thời Minh, “Xuân Thu” có địa vị cực cao, Chu Nguyên Chương lấy “Xuân Thu” đứng đầu các bộ kinh, cho rằng Khổng Tử làm “Xuân Thu”, rõ tam cương (quan hệ đạo đức quân thần, phụ tử, phu phụ), ghi cửu pháp (các cách trị thiên hạ), vì quy phạm bách vương, tu thân lập chính nằm ở trong đó. Khi thi đình lấy chức Trạng nguyên, các tiến sĩ thường lấy “Xuân Thu” làm kinh gốc, kinh gốc của Văn Chấn Mạnh toàn là “Xuân Thu”. Dù vậy, do “Xuân Thu” phức tạp nên chư sinh vẫn muốn trị tứ kinh (*) còn lại, chung quy Trạng nguyên ba năm chỉ có một, họ không dám vọng tưởng.
(*) Ngũ kinh gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu.
Phùng Mộng Long am hiểu “Lân kinh chỉ nguyệt”, Văn Chấn Mạnh là cử nhân nhược quán (chỉ người 20 tuổi), những sách điển tịch liên quan đến “Xuân Thu” không có cuốn nào hai người chưa đọc. Mà Trương Nguyên thông minh hơn người, theo học hai vị đại nho là Hoàng Nhữ Hanh và Tiêu Nhuận Sinh, lại có sáng kiến độc đáo của riêng mình. Ba người chất vấn từ sơ đến sâu, từ Xuân Thu nghĩa lý đến tam truyện (*) nói không ngừng, khiến người nghe phải nín thở.
(*) Tam truyện: ba bộ sách giải thích Xuân Thu, gồm “Tả truyện”, “Công Dương truyện, “Cốc Lương truyện”.
Học vấn của hai người Phùng, Văn không thua Trương Nguyên, luận về đọc nhiều sách, hắn không thể bì với hai người họ, nhưng hắn thắng ở mạch trật tự rõ ràng. Với “Xuân Thu”, hắn học sự phát triển liền mạch từ Tần – Hán đến Nguyên – Minh. “Xuân Thu” vừa là kinh vừa là sử, đến Ngụy Tấn Nam Bắc triều thì kinh sử phân riêng. Thời Minh, Lưu Tri Kỷ định rõ “Tả truyện” là điển hình của sử văn, mà “Văn tâm điêu long” của Lưu Hiệp thì là tông kinh. Từ cuối đời Tống đến nay, kinh sử lại hợp lưu, đây chính là văn học hóa của “Xuân Thu” học, đến cuối đời Minh thì càng rõ rệt hơn, đến văn bát cổ cũng bị văn học hóa, tiểu phẩm đã hóa, “Xuân Thu” sao có thể tránh khỏi…
Không chỉ có Phùng Mộng Long và Văn Chấn Mạnh bị ảnh hưởng mạnh, chư sinh dự thính giảng tại đình cũng vỡ lẽ. Cách giảng của Trương Nguyên về “Xuân Thu” học đi từ khởi nguyên đến khi phát triển phân lưu, mạch lạc rõ ràng, điều lý rành rẽ, khiến người khác có cảm giác mở rộng tàm mắt, vừa nhìn đã hiểu. Phùng Mộng Long và Văn Chấn Mạnh đọc sách tuy nhiều, nhưng thiếu đi sự lĩnh ngộ về hệ thống này của Trương Nguyên, đó là ưu thế của hắn, trong đó bao hàm cả lý luận học tập tiên tiến của hậu thế.
Tà dương ngả tây, bóng người tản loạn. Nhã tiệc ở Chuyết Chính viên chỉ trong một ngày ngắn ngủi, song để lại ấn tượng sâu sắc cho sĩ tử Tô Châu, chư sinh dự hội đều yêu cầu gia nhập Hàn Xã. Vì không thể lưu lại lâu ở Tô Châu, Trương Nguyên đã thỉnh Phạm Văn Nhược, Văn Chấn Mạnh và Phùng Mộng Long phụ trách việc dự trù phân xã của Hàn Xã phủ Tô Châu. Phạm Văn Nhược là xã đầu của phân xã Hàn Xã Tô Châu, Văn Chấn Mạnh và Phùng Mộng Long là xã phó, ba quy điều đầu tiên của Hàn Xã được chỉnh sửa đôi chút, không giới hạn tuổi tác. Bởi vì Văn Chấn Mạnh và Phùng Mộng Long đều hơn ba mươi lăm tuổi, quy điều hiện giờ có thể linh hoạt hơn. Suy cho cùng chỉ là tạm tiến hành, quy điều chính thức sẽ được thương nghị quyết định khi tụ hội lần đầu tiên của Hàn Xã được cử hành tại Sơn Âm vào tháng ba sang năm.
Ở Tô Châu ba ngày, Trương Nguyên tự thấy thu hoạch không ít. Hàn Xã đã mở rộng cục diện tại Tô Châu, hắn kết hảo hữu cùng Phùng Mộng Long và Văn Chấn Mạnh. Tuổi tác hai người Phùng, Văn đều lớn gấp đôi hắn, song họ chỉ dám luận giao ngang hàng với hắn. Trương Nguyên đối nhân xử thế điềm đạm, học thức tu dưỡng lại uyên thâm, không ai dám xem thường hắn nhỏ tuổi.
Mùng bảy tháng bảy sau Ngọ, Trương Nguyên xuất hành rời Tô Châu, trước hết ngồi thuyền qua sông Đại Vận đến Đan Dương. Vì sông Đại Vận ngoặt ở Thường Châu rẽ bắc chảy tới Trấn Giang, đám người Trương Nguyên ngồi thuyền đến sông Cú Dung ở phía tây. Mấy năm trước Nam Kinh bộ Công Đinh Thượng thư đốc thúc dân đào mở rộng đường sông Cú Dung, sông Cú Dung được liên thông với sông Tần Hoài giúp giao thông đường thủy trở nên thuận tiện.
Phùng Mộng Long theo thuyền tiễn ba huynh đệ Trương Nguyên đến Thường Châu. Ở trên thuyền hai ngày, Phùng Mộng Long và Trương Nguyên đàm luận thoại bản, sơn ca, hí khúc cực kỳ ăn ý. Phùng Mộng Long đáp ứng trước cuối năm sẽ viết thành mười quyển mô phỏng thoại bản tiểu thuyết giao cho Hàn Xã thư cục ấn hành, mỗi quyển khoảng mười ngàn chữ, dự tính viết bốn mươi quyển, lấy tên “Cảnh thế thông ngôn”. Bốn mươi quyển “Cổ kim tiểu thuyết” tuy đã được Lục Thiên quán thư cục ấn hành, nhưng triều Minh không có luật bản quyền. Lục Thiên quán có thể in, thư cục khác cũng có thể in, Trương Nguyên đổi tên “Cổ kim tiểu thuyết” thành “Dụ thế minh ngôn” phát hành lần nữa.
“Dụ thế minh ngôn” và “Cảnh thế thông ngôn” có rồi, “Tỉnh thế hằng ngôn” cũng sắp sửa ra mắt. Ba bộ mô phỏng thoại bản tiểu thuyết “tam ngôn” nổi tiếng nhất triều Minh được xuất bản, Phùng Mộng Long nhất thời không suy nghĩ, không có kinh nghiệm thực tế cũng không sao, Trương Nguyên sẽ viết thư nhắc nhở y. Trương Nguyên đã thuộc “tam ngôn”, tuy không thể ngâm nga, nhưng có thể hiểu đại khái câu chuyện. Nào là “Kẻ bán dầu độc chiếm hoa khôi”, “Đỗ Thập Nương nổi giận gieo mình cùng rương báu”, Phùng Mộng Long chỉ cần căn cứ theo đại cương này suy diễn là được, không cần ngại chuyện tưới nước.
Thế nào là tưới nước? Những đoạn thơ từ miêu tả dung mạo nhân vật hoặc là mây mưa Vu Sơn (làm chuyện ấy) chính là tưới nước.
Đầu giờ Thìn mùng mười tháng sáu, thuyền đến cửa kênh đào Thường Châu, Trương Nguyên và Phùng Mộng Long bịn rịn từ biệt, Phùng Mộng Long mướn thuyền khác quay về Trường Châu. Trương Nguyên tiếp tục lên đường, ngồi thuyền đến Đan Dương, lại chuyển qua sông Cú Dung. Sau buổi trưa ngày mười lăm tháng sáu, thuyền đã đến Đông Thủy quan ở ngoại thành Nam Kinh, qua quan thì đến Thập Lý Tần Hoài.
Lãng thuyền xuôi sông, hai bên bờ nhà cửa sát rạt. Nữ lang Vương Vi nghiễm nhiên trở thành mỹ nhân dẫn đường, đầu đội nón trúc rộng vành che đi nắng cháy trưa chiều. Nàng đứng ở đầu thuyền chỉ phong cảnh hai bên sông, nói:
- Tên cổ của Kim Lăng là Giai Lệ Địa, áo mũ văn vật thịnh ở Giang Nam, văn chương phong lưu thịnh khắp nước, suối trong Bạch Hạ (tên gọi khác của Nam Kinh), quạt tròn lá đào, tông thất vương tôn, con cháu thế gia, mỹ nữ nhiều vô kể. Ba vị tướng công nếu nhàn rỗi, có thể tìm hiểu cố đô lục triều ngàn năm văn hiến này…
Trương Nguyên đứng cạnh Vương Vi, lời hướng dẫn này ứng với ký ức bốn trăm năm sau, phảng phất như mộng cũ chập chờn, vết tích khó tìm. Hắn lại nghĩ: “Ba mươi năm sau, cảnh tượng này sẽ hóa thành cây cỏ, diệu vũ khinh ca không thể nghe, danh hoa ngọc thảo không thể ngắm, lầu quán hóa bụi, mĩ nhân về đất, quả thực khiến người ta đau lòng. Để giữ lại những điều tốt đẹp đó, mình phải dốc sức ứng phó.”
Vương Vi có thể đoán ý qua vè mặt, thấy Trương Nguyên nghe nàng giới thiệu phong cảnh Tần Hoài, tài sĩ giai nhân, phong lưu vận sự một cách nghiêm túc, trong mắt mắt lại lộ vẻ bi thương. Nàng không khỏi cảm thấy kì lạ, hỏi:
- Giới Tử tướng công, sao lại lộ tướng Phật tử?
Trương Nguyên vừa nghe liền cười, đầu óc trở về nhân gian, hắn nói:
- Nghe giọng nói êm tai của nàng, bất giác trầm mê, mong rằng khi ta đầu bạc có thể quay lại Tần Hoài, phong cảnh như trước.
Vương Vi mỉm cười, sóng mắt lưu chuyển:
- Đến khi ấy, thiết nghĩ Giới Tử tướng công đã phong hầu bái tướng, kiều thê mỹ thiếp, con cháu đầy đàn. Còn tiểu nữ không biết lưu lạc đến phương nào, có lẽ đã thành nấm mồ hoang. Nếu Giới Tử tướng công ngẫu nhiên nhớ về ngày đầu năm đến Kim Lăng, liệu có lưu lại một mảnh ký ức?
Khi nói lời này, mới đầu nàng còn tươi cười, lúc sau lại cảm thấy thương tâm, khóe mắt ngấn lệ.
Phút chốc Trương Nguyên không biết an ủi ra sao, nghĩ ngợi một hồi rồi vẫn giữ im lặng.
Vương Vi lại mỉm cười, nói:
- Giới Tử tướng công không nói lời suông lấy lệ, chỉ giữ im lặng. Thật tốt quá, có dư vị.
Trương Nguyên nghe thấy tiếng cười trộm phía sau, quay lại bắt gặp Trương Ngạc đang đứng trong bóng râm cửa khoang nháy mắt với hắn, còn vẫy tay gọi hắn đến. Mục Chân Chân cũng đứng ở một bên, răng cắn chặt môi nhìn theo hắn, mặt thoáng ngượng ngùng.
Trương Nguyên không biết tam huynh nháy mắt làm gì, liền đi xuống đầu thuyền, vừa định mở miệng hỏi thì Trương Ngạc khoát tay, chỉ về phía Vương Vi vẫn đứng ở đầu thuyền, tỏ ý bảo Trương Nguyên quay đầu nhìn, biểu cảm trên mặt lại cợt nhả.
Trương Nguyên bị quay mòng mòng, liếc qua Vương Vi không thấy có gì bất thường, quả thực không hiểu y đang giở trò quỷ gì.
Trương Ngạc kề tai nói:
- Khi nãy có bóng cây che rồi, đợi nắng chiều rọi đến là ổn, mau nhìn kìa!
Khi Trương Nguyên quay lại nhìn, lãng thuyền lướt nhanh về tây, nắng chiều vừa hay chiếu tới, Vương Vi càng trở nên xinh đẹp dưới ánh nắng. Khoan đã, còn nữa, thì ra là vậy!
Trương Nguyên xem như đã hiểu bộ dạng quỷ dị của tam huynh khi cứ muốn hắn nhìn Vương Vi. Trời hè oi bức, Vương Vi chỉ bận áo vải mỏng manh, y đứng trong bóng cửa khoang có thể thấy hình dáng eo mông và đôi chân ẩn hiện dưới váy, nếu không phải bên trong còn có váy lót thì nhìn rõ hơn rồi. Tuy nhìn con gái người ta như thế thì hơi đáng khinh, nhưng thành thực mà nói, nàng ấy quả rất quyến rũ. Đường cong thắt lưng thấp thoáng hoàn toàn có thể phổ thành nhạc khúc lưu loát.
Vương Vi thấy Trương thị huynh đệ kề tai thì thầm, ánh mắt lóe lên, người thông minh như nàng vừa quan sát thì đã hiểu nguyên do. Phút chốc mặt đẹp phủ mây, cánh mũi chun lại, nàng bước vài bước xuống hiên nói:
- Hai vị tướng công, phi lễ chớ nhìn.
Trong lòng lại thầm cười: “Vị Trương công tử này, ngày thường có vẻ chín chắn điềm đạm, lúc này lại để lộ bản tính thiếu niên háo sắc không thua gì Trương Yến Khách.”
Trương Ngạc cười hì hì nói:
- Người không biết vẻ đẹp của Vương Vi cô thì xem như không có mắt. Ta không bị mù, cô đứng đó nên ta thấy thôi, nếu vờ đàng hoàng mà quay đầu không nhìn, thiên nhân trong lòng giao chiến thì khó chịu lắm. Vì vậy ta phải tận tình nhìn cho rõ, chuyện này cô phải oán chính mình chứ, là cô mê hoặc huynh đệ chúng tôi.
Vương Vi nói:
- Yến Khánh tướng công lời lẽ thật hùng hồn, đây là luận về hồng nhan họa thủy sao?
Trương Đại tay cầm một chén trà bước tới, cất giọng hỏi:
- Nói gì vậy, cái gì mà hồng nhan họa thủy?
Trương Ngạc cười nói:
- Đại huynh bỏ lỡ cảnh đẹp rồi, đáng tiếc đáng tiếc.
Trương Đại không hiểu cho lắm, còn tưởng thật đã bỏ qua phong cảnh bên bờ, vội vàng phóng tầm nhìn từ cửa mui ra đến sau thuyền, luôn miệng hỏi:
- Đâu, đâu nào?
Trương Ngạc cười đến nghiêng ngả.
Vương Vi nói tránh đi:
- Phía trước là Vũ Định Kiều, tiểu nữ lên bờ tại đó. Dọc đường đa tạ ba vị tướng công chiếu cố, tiểu nữ vô cùng cảm kích.
Nói rồi nàng thi lễ với ba người họ.
Trương Nguyên, Trương Đại, Trương Ngạc đều chắp tay đáp lễ. Trương Đại nói:
- Mi Công đã phó thác, nào dám chậm trễ. Tu Vi cô nương thông tuệ đa tài, dọc đường ta cũng học hỏi được nhiều, như được tắm gió xuân vậy.
Trương Đại rất thành thực, có Vương Vi đồng hành, hành trình sông nước dài đằng đẵng mới không tịch mịch. Vương Vi luôn giữ khoảng cảnh đúng mực trong quan hệ với ba huynh đệ Trương thị, tạo thành một loại quan hệ nửa như tình bạn nửa lại không. Trương Đại huynh đệ cảm thấy ở bên nàng rất vui, có phần ấm áp, song không đến mức sinh lòng thấp hèn.
Trương Ngạc đĩnh đạc nói:
- Tu Vi cô nương, đã đến Kim Lăng, cô không mời ba huynh đệ tôi uống rượu sao?
Vương Vi mỉm cười nói:
- Ba vị tướng công nể mặt, tiểu nữ cầu còn không được, vậy mời ba vị cùng lên bờ tại Vũ Định Kiều.
Trương Nguyên và Trương Đại đều cảm thấy không ổn. Hôm này là mười lăm tháng sáu, ngày mười bảy phải đến Lễ Bộ báo danh, ngày mười tám là khảo thí nhập học Quốc Tử Giám. Vừa đến Nam Kinh đã chạy đi Khúc Trung cựu viện uống rượu hoa, nếu để giáo quan của Quốc Tử Giám biết được thì sẽ chuốc lấy phiền phức. Trương Đại nói:
- Đợi đến khi ta an định ở Quốc Tử Giám sẽ lại đến thăm Tu Vi cô nương, ta còn phải thỉnh cô nương dẫn ta đến thăm hỏi Mẫn lão tử.
Trương Nguyên sực nhớ một chuyện, liền nói:
- Nghe đâu quy củ Quốc Tử Giám cực nghiêm, không cho phép giám sinh ra ngoài, chẳng hay có thật như vậy?
Trương Nguyên từng hỏi chuyện Quốc Tử Giám với huynh trưởng Vương Bích Lân của Vương Anh Tư. Vương Bích Lân nói mỗi lớp có bốn mươi người, họ giao tấm “xuất cung nhập kính bài” cho sinh đồ trực nhật mỗi lớp giữ. Phàm là ai muốn ra ngoài đều phải có tấm bài này, một lớp bốn mươi người mỗi ngày chỉ có một người được ra, hơn nữa trước khi trời tối phải trở về, không được qua đêm ngoài Quốc Tử Giám.
Vương Vi cười nói:
- Quy củ Quốc Tử Giám nghiêm hay không tiểu nữ biết. Nhưng mỗi khi đêm lạnh yên tĩnh, trăng thanh gió mát, từ Vũ Định Kiều đến Trường Bản Kiều, trong cảnh tượng trâm hoa hẹn ước, nắm tay sánh đôi, bộ hành thổi tiêu, diệu khúc lanh lảnh đại khái đều là người trong Quốc Tử Giám.
Trương Ngạc bật cười ha hả:
- Vậy ta yên tâm rồi, bằng không chẳng khác gì ngồi tù, thật quá vô vị.
Trương Nguyên cũng cười, thầm nghĩ: “Ngày đó khi Vương Bích Lân nói chuyện này, Vương Anh Tư cũng ở kế bên, vì vậy Vương Bích Lân nâng mức nghiêm khắc của quy củ Quốc Tử Giám lên một chút, có thể thấy y rất dụng công ở Quốc Tử Giám.
Thuyền đến Vũ Định Kiều, Vương Vi lên bờ trước, tiểu tỳ Huệ Tương ôm hộp trúc, Tiết Đồng xách lồng chim, Diêu thúc gánh hành lý theo sau. Họ đứng trên bờ hành lễ với ba người Trương Nguyên, đa tạ dọc đường chiếu cố.
Vương Vi nói:
- Ba vị tướng công đi tiếp năm, sáu dặm về hướng tây, lên bờ tại bến thuyền Chính Mã Doanh, nơi đó cách nha môn lục bộ không xa.
Trương Nguyên chắp tay nói:
- Đa tạ nhắc nhở.
Vương Vi mỉm cười, chỉnh lại nón trúc rộng vành trên đầu, xoay người đi về hướng U Lan quán ở Trường Bản Kiều. Lãng thuyền cũng rời Vũ Định Kiều tiếp tục hướng tây, Trương Ngạc nhìn theo bóng lưng yêu kiều của Vương Vi, cảm thán:
- Người đẹp đến thế, đồng thuyền nửa tháng với ba huynh đệ ta, vậy mà không hề tạp nhiễm. Là cô nương này cao khiết, hay do chúng ta vô năng?
Trương Đại cùng Trương Ngạc đều bật cười.
Trương Ngạc tiếp lời:
- Không biết cô gái này thích ai trong ba chúng ta hơn?
Y tự nói tự đáp:
- Thiết nghĩ không thể phân cao thấp, ba chúng ta đều anh tuấn hơn người, nữ lang đâm hoa mắt, không biết yêu người nào mới tốt.
Trương Đại nói:
- Theo ta thấy thì cô gái này thích Giới Tử nhiều hơn.
Trương Ngạc cũng tán thành, song y lại nói:
- Nếu Giới Tử ân cần một chút, cô gái này chắc hẳn đã sà vào lòng rồi, Giới Tử lại giả vờ đàng hoàng.
Trương Nguyên vội nói:
- Hai vị huynh trưởng, chúng ta đến đây để học, chuyện khác cũng có thể làm, nhưng đừng lấy khách át chủ nhé.
Cười đùa một hồi, thuyền đã sớm cập bến Chính Mã Doanh. Ba huynh đệ lên bờ dưới trời chiều, không định tìm khách điếm tá túc. Dù sao ở trên thuyền đã quen, đợi an định ở Quốc Tử Giám rồi tính tiếp, xem thuê phòng ở tạm. Tông Dực Thiện từng ở Nam Kinh mấy tháng, y nói từ Chính Mã Doanh đi hướng đông bắc chừng hai, ba dặm là đến nha môn lục bộ Nam Kinh, đi tiếp nữa thì đến Tử Cấm Thành. Sau khi Vĩnh Lạc đế dời đô tới Bắc Kinh, Tử Cấm Thành tại Nam Kinh vắng bóng Hoàng đế, chỉ còn vài vị thái giám ở lại, trong hai trăm năm chỉ có Chính Đức Hoàng đế quá vãng Nam Kinh.
Trương Nguyên đến quán rượu gần bến tàu ăn hoành thánh và bánh bột, không dám uống rượu, bởi vì chốc nữa phải bái kiến Tiêu Thái sử. Tông Dực Thiện nói Đạm viên của Tiêu Thái sử nằm gần nha môn lục bộ, cự ly không quá hai dặm.
Bánh bột và hoành thánh Nam Kinh rất nổi tiếng, là hai trong ẩm thực “bát tuyệt” ở Kim Lăng. Cái gọi là canh hoành thánh có thể nói là nhỏ mịn (hình dung sự tươi ngon), mì kéo có thể làm đai lưng (hình dung độ dai gân thịt), khẩu vị không tồi. Đám người Trương Nguyên chén no nê, khi tính tiền ra ngoài thì thấy trăng tròn đã treo trên đỉnh Tử Kim Sơn, thanh lãnh sáng ngời, đây chính là trăng tròn mười lăm.
Trương Đại, Trương Ngạc, Trương Nguyên, Tông Dực Thiện, còn có Vũ Lăng, Năng Trụ cũng đi theo, Mục Chân Chân không cần nói cũng hối hả chạy theo thiếu gia. Trương Nguyên sai Lai Phúc mua ít hoa quả tươi biếu Tiêu Thái sử. Mọi người đến Đạm viên xuất trình bái thiếp, một âm thanh sang sảng rất nhanh cất lên:
- Giới Tử, mọi người mới đến à, ta đợi mấy ngày rồi đó.
Trương Nguyên cừa nghe liền nhận ra giọng nói của Tiêu Nhuận Sinh. Tháng trước Tiêu Nhuận Sinh còn ở Hàng Châu, không ngờ cũng về Nam Kinh, hắn vui vẻ nói:
- Nhuận Sinh huynh cũng đến rồi sao? Huynh xem, ta dẫn ai tới nè.
Tiêu Nhuận Sinh bước nhanh ra ngoài, lướt mắt qua mọi người, chắp tay thi lễ. Trông thấy Tông Dực Thiện, y liền mừng rỡ, cầm tay Tông Dực Thiện nói:
- Tông huynh cuối cùng đã thoát khỏi ràng buộc rồi à, từ khi huynh về Hoa Đình, gia phụ nhiều lần nhắc huynh, ông quả thật rất nhớ, thường hay than vãn.
Tông Dực Thiện cảm kích, hôm nay so với cuộc tao ngộ tại Hoa Đình Đổng phủ quả là một trời một vực.
Học Đạm viên chỉ rộng chừng bốn, năm mẫu; bố cục nhà, ao đình, hoa và cây cảnh tinh tế và hợp lý, tiến vào là bức tường, sau đó là phòng khách lớn, hai bên có phòng trà, phòng đánh đàn, có một Tàng thư lầu (lầu chứa sách) hai tầng là bắt mắt nhất. Phía sau Tàng thư lầu là nội viện, bên phải nội viện có một phật đường, đèn sáng, ánh vàng, Tiêu Hồng rất sùng Phật, chủ trương tam giáo hợp lại, có nhiều nghiên cứu về kiệt tác kinh điển Phật giáo.
Tiêu Hồng bảy mươi lăm tuổi hàng ngày tay đều không rời quyển sách, không ngừng viết lách, lúc này đang ở Tàng thư lầu chỉnh sửa lại bút ký < Tiêu Nhược hầu vấn đáp> mà mấy năm gần dây ông dạy học ở Kim Lăng, Tân An, thấy Trương Nguyên và Tông Dực Thiện, Tiêu Hồng thậm chí rất vui mừng, nhưng lại nói:
- Trương Nguyên, lần này việc trò gây ra ở Hoa đình quá lớn, Nam Kinh lục bộ đều truyền đi rất huyên náo, rất nhiều quan lại truy cứu căn nguyên, biết trò là học trò của ta, liền tới đây hỏi lão phu đó.
Trương Nguyên cung kính nói:
- Học trò không dám nhiều chuyện, chỉ là may mắn gặp dịp, Đổng thị hoành hành ở hương lý, dân chúng phẫn nộ đến cực điểm, ắt có ngày tức nước vỡ bờ thôi ạ.
Ngay lập tức Trương Nguyên kể lại chuyện hôm đó cho thầy Tiêu nghe.