Tiếng cười của thái giám có chút ghê rợn, nhất là trong đêm khuya tĩnh mịch, nó giống như tiếng kêu của con chim cú vậy. Trương Nguyên nghe thấy rợn tóc gáy, may mà Chung thái giám nhanh chóng không cười nữa, nói:
- Trương công tử, việc xây dựng viện tế bần cần nhiều tiền lắm nhỉ, ta tuy có chút tích lũy nhưng cũng không thể rót hết vào đó được, sang năm hồi kinh còn phải lo lót khắp nơi nữa.
Trương Nguyên cười nói:
- Công công chịu bỏ ra bao nhiêu bạc để mua danh tiếng?
Chung thái giám suy nghĩ một lát, cắn răng nói:
- Nếu như không quá một vạn lượng, thì ta vẫn có thể xoay xở được.
Trương Nguyên nói:
- Vậy thì công công chi ra chín ngàn lượng, công công, tại hạ có chút chuyện riêng tư, muốn nhờ công công giúp đỡ…
- Việc riêng tư?...
Chung thái giám cười ha hả, nói:
- Ngươi nói đi, ta giúp được sẽ tận lực giúp ngươi.
Người có chuyện riêng tư thì kết giao mới hay.
Trương Nguyên nói:
- Dưới núi Bảo Thạch có viện tế bần, nếu công công muốn tự mình lo kinh phí xây dựng đồng thời thu dung cứu tế các con bệnh thì e là một vạn lượng cũng không đủ, hơn nữa một mình công công chi phí quá nhiều sẽ bị một số kẻ tiểu nhân đàm tiếu nói rằng công công tham ô, tại hạ cho rằng công công bỏ ra khoảng 8-9 ngàn lượng bạc là đủ rồi, số tiền còn lại công công quyên góp từ những quan thân phú hộ ở Hàng Châu, có công công đề xướng thì việc thu gom hơn vạn lượng không phải là khó, sau này công công hồi kinh, viện tế bần này còn phải giao cho quan phủ quản lý, nhưng chỉ cần còn bia ký Tiêu trạng nguyên viết thì danh tiếng nhân nghĩa xây dựng viện tế bần vĩnh viễn là của công công.
- Trương công tử mưu tính sâu xa, suy nghĩ chu đáo, suy nghĩ chu đáo.
Chung công công gật đầu liên tục, một chút băn khoăn còn lại đã tiêu tán hoàn toàn.
Trương Nguyên lại nói:
- Ngày hôm trước tại hạ đã nói qua với công công rồi, tộc thúc tổ của tại hạ đã xây dựng một kho lương ở Sơn Âm, do tại hạ đảm đương chức xã chính, nhưng tại hạ tuổi nhỏ vị trí thấp kém, đến nay mới quyên góp được vài ngàn thạch lương thực.
Không đợi Trương Nguyên nói hết, Chung thái giám đã hiểu ngay ‘chuyện riêng tư’ của hắn, lão cười nói:
- Ta hiểu ý ngươi rồi, ngươi khuyên ta chi ra 9 ngàn lượng bạc, 8 ngàn lượng để xây viện tế bần, còn lại một ngàn lượng thì đưa cho ngươi về xây dựng kho lương chứ gì, thì ra đây là chuyện riêng tư của ngươi, ha ha.
Trương Nguyên chắp tay thi lễ nói:
- Mong Chung công công giúp cho!
Chung thái giám cảm khái nói:
- Trương công tử, ta tuy là nội quan, nhưng cũng là người hiểu biết, bao năm nay từ triều đình tới địa phương, đã từng gặp nhiều người, nhưng thực sự chưa hề gặp người không có tư tâm như ngươi. Một vạn lượng trở xuống thì ta lo được, ta chi một vạn lượng, tám ngàn lượng để xây viện tế bần núi Bảo Thạch, còn hai ngàn lượng giúp kho lương Sơn Âm của ngươi.
Trương Nguyên đương nhiên rất vui mừng, Chung thái giám nói rằng hắn không có tư tâm là tuyệt đối nhìn lầm hắn. Con người ai mà không có tư tâm cơ chứ, chẳng qua là hắn nhìn xa trông rộng hơn một chút, hắn lập tức gập người thi lễ, nói:
- Công công thật cao thượng, Trương Nguyên xin thay mặt bà con gặp nạn thiên tai bái tạ công công.
Chung thái giám kéo Trương Nguyên ngồi xuống, nói:
- Ta quyên góp hai ngàn lượng bạc, là phải lưu danh đấy. Tới lúc viết về kho lương Sơn Âm, ngươi nhớ nhắc tới nghĩa cử của ta.
Trương Nguyên cười nói:
- Tất nhiên rồi, nhưng hai ngàn lượng bạc này của công công hay là cứ quy ra gạo thì hơn. Hiện giờ giá gạo ở Thiệu Hưng, Hàng Châu tăng chóng mặt, trước đây một lượng bạc có thể mua được hai thạch gạo, giờ chỉ có thể mua được một thạch, nhưng vùng Tùng Giang lại chưa gặp hạn hán úng lụt, giá gạo vẫn ổn định, liệu công công có thể phái hai chiếc thuyền quan đi Tùng Giang mua bốn ngàn thạch lương thực chuyển về Sơn Âm được không? Như vậy dân chúng Sơn Âm sẽ chịu ơn công công càng nhiều hơn.
Giá gạo ở Tùng Giang tuy rẻ hơn gần một nửa so với Sơn Âm nhưng nếu là thuyền dân, thuyền thương lái đi mua gạo, từ Hàng Châu tới Gia Hưng còn có 5 trạm thu thuế, đem gạo từ Tùng Giang vận chuyển về Sơn Âm thì tiền thuế, tiền thuyền, tiền nhân công v.v… cũng gần như tương đương với khoản tiền chênh lệch giá gạo giữa hai vùng. Chung thái giám lắc đầu cười nói:
- Trương công tử ơi Trương công tử, khôn lỏi như ngươi không ai bằng, nhưng ta lại thích sự khôn lỏi đó của ngươi, ngươi chỉ việc lo chuyên tâm học hành ở Nam Bình thảo đường, ngoại trừ việc xin Tiêu trạng nguyên ghi bia ký, những việc khác ngươi không cần quan tâm, đợi tháng sau ngươi về Sơn Âm, tất sẽ có bốn ngàn thạch gạo về cùng ngươi.
Trương Nguyên tối nay đi du ngoạn nói chuyện với Chung thái giám, thuyết phục được Chung thái giám chi ra một vạn lượng bạc, nếu tính ra số nhân dân tệ ở 400 năm sau, hai ngàn lượng bạc trắng tương đương với hơn bảy triệu nhân dân tệ, Hàng Châu Chức Tạo thự tuy là vùng giàu có nhưng một vạn lượng bạc trắng đối với Chung thái giám mà nói không phải là con số nhỏ. Nhưng Chung thái giám quyên góp số tiền lớn như vậy mà lại không thấy xót, ngược lại tâm trạng lại rất vui vẻ, đó chính là bản lĩnh của Trương Nguyên.
Đã nhận lời với Chung thái giám là sẽ xin Tiêu trạng nguyên viết văn bia cho viện tế bần, Trương Nguyên không dám chậm trễ, trong lòng thầm nghĩ nên mở miệng với Tiêu trạng nguyên thế nào đây, việc này nhất định phải làm cho xong. Vào ngày mùng chín, Trương Nguyên tham gia lễ đón tượng sinh từ Chung thái giám ở núi Bảo Thạch và nghi thức dâng hương. Ba viên quan to của tỉnh Chiết Giang đều tới chúc mừng, Tần Dân Bình mang theo tám gã thổ binh tới chùa Linh Ẩn rước tượng điêu khắc bằng gỗ của Chung thái giám lên núi Bảo Thạch. Từ xưa tới nay sinh từ đều là tạo phúc một phương, sau khi rời đi, dân chúng cảm động ơn đức của ngài nên mới xây đền tưởng niệm, Chung thái giám vẫn ở Hàng Châu thì sinh từ đã xây xong, còn đích thân tham gia lễ rước tượng dâng hương, thật là tin lạ, thợ mộc điêu khắc gỗ ở Đông Dương tay nghề rất giỏi, dựa vào hình dáng của Chung thái giám tạo ra bức tượng giống đến 5-6 phần, phục sức trang điểm đều dựa theo hình dáng của tam bảo thái giám Trịnh Hòa, dân chúng ven đường vây xem rất náo nhiệt, không thấy ai quỳ bái thi lễ, nhưng cười trộm phỉ báng thì lại rất nhiều, bởi vậy nói rằng khả năng Chung thái giám vừa rời khỏi Hàng Châu thì bức tượng liền bị lôi đi làm củi thiêu là rất lớn. Dân chúng Hàng Châu gọi Chung thái giám là Tây Hồ công đức chủ thực ra là do Trương Nguyên ngày đó bịa đặt ra, nhưng nếu xây dựng được viện tế bần được xây thì Chung thái giám thực sự là Tây Hồ công đức chủ, dân chúng sẽ cảm tạ ơn đức này, sinh từ núi Bảo Thạch có thể tồn tại lâu dài.
Tiêu Pháp tuổi đã cao, không thể giống như Hoàng Nhữ Hanh sáng nào cũng đến Cư Nhiên thảo đường để giảng bài, ba ngày tới một lần, giải đáp các câu hỏi khó của học trò. Sáng ngày mùng 10 tháng 9, Tiêu trạng nguyên râu tóc bạc trắng như tuyết tới Cư Nhiên thảo đường, các học trò ngồi đó hỏi bài để Tiêu trạng nguyên giải đáp. Tiêu Pháp suy nghĩ vẫn rất minh mẫn, những câu hỏi dịch, thư, thi, lễ, xuân thu… lão đều trả lời trôi chảy, những khúc mắc hàng ngày của các học trò được giải thích hết lượt, vui mừng khỏi nói. Bổn kinh của Trương Nguyên là “ Xuân Thu “ , câu hỏi của hắn là biện thể của “ Xuân Thu “ , Tiêu Pháp chỉ ra rằng:
- Người trong “ Xuân Thu “ tuy là vì khen chê thế sự mà làm nhưng có người không hẳn như vậy, có người đoạn tuyệt hẳn với sự đời, có người ham triết lý, có người hay nghi hoặc, có người công thế, có người phát minh, có người trọng giáo, có người trọng giới, có người trưng nghiệm, có người cảm thán, có người kỳ vọng, không ai giống ai, khó nhìn ra quy luật. Nhìn không ra cái đó thì viết văn không hay được.
Lập tức Tiêu Pháp giảng giải về tất cả các thể, các học trò ngồi đó nghe về “ Xuân Thu “ đều cảm thấy được mở rộng tầm hiểu biết, có minh sư về ngũ kinh chỉ bảo, một canh giờ bằng mình tự học mấy tháng.
Chạng vạng tối ngày hôm đó, Trương Nguyên và Tông Dực Thiện đi Bao Thị Nam Viên ở dưới tháp Lôi Phong bái kiến Tiêu Pháp. Hai người coi như đã là đệ tử của Tiêu Pháp, có thể đến thỉnh giáo học tập bất cứ lúc nào, khi viết văn gặp khó khăn cũng có thể đến hỏi. Nhưng hôm nay Trương Nguyên lại đến xin Tiêu lão sư viết bia ký cho viện tế bần của Chung thái giám. Trên đường đi Trương Nguyên suy nghĩ nên nói năng thế nào, rồi lại bàn bạc với Tông Dực Thiện, hắn biết rằng thuyết phục Tiêu lão sư viết văn xã giao không phải là việc dễ dàng. Trương Nguyên và Tông Dực Thiện đi qua non bộ Thạch Lâm, thấy Tiêu Pháp đang đang xem nước chảy trên cầu đá với con trai lão là Tiêu Nhuận Sinh, tháp Lôi Phong cách đó không xa sáng lóe lên dưới nắng chiều, thấy hai người bọn Trương Nguyên, Tiêu Pháp mỉm cười nói:
- Hai người các ngươi là có nhiều bài khó nhất đấy, trên giảng đường vẫn chưa hỏi hết ư?
Trương Nguyên nói:
- Thưa thầy, hai năm trước học trò học ít, nghi hoặc cũng ít, giờ đọc sách càng nhiều thì nghi hoặc cũng càng nhiều, là cớ gì ạ?
Tiêu Pháp nói:
- Biết là chủ ý của đi, đi là công phu của biết: biết là khởi nguồn của đi, đi là thành quả của biết, ngươi không thể hoàn toàn tìm kiếm giải thích ở trong sách được, cứ phải lấy đi để nghiệm chứng.
Có được cơ hội này, Trương Nguyên bèn đi thẳng vào chủ đề, nói:
- Chức Tạo thự Chung thái giám trước đây vì chuyện giúp đỡ Thạch Trụ Tuyên khiến Mã Thiên rửa được oan khuất nên có chút giao tình với học trò, Mã tướng quân cảm kích ơn huệ của Chung thái giám, lại bị Chung thái giám châm biếm nên lập sinh từ cho Chung thái giám ở núi Bảo Thạch, học trò cảm thấy đây là hành động hao người tốn của nhưng lại không tiện khuyên nhủ…
Tiêu Pháp lắc đầu cười nói:
- Người như vậy không thể nói lý. Chung thái giám đó hôm trước
còn nhờ phó sứ đến cầu ta viết bia cho sinh từ, lão cho rằng người trong thiên hạ đều vô liêm sỉ giống lão ư, đã bị ta từ chối ngay từ đầu rồi!
Lão nhìn Trương Nguyên, Tông Dực Thiện rồi nói tiếp:
- Hai ngươi sống ở Chức Tạo thự, chớ có gần mực thì đen đấy.
Trương Nguyên nói:
- Học trò cho rằng đọc sách thông tuệ cũng là ở chỗ cảm hóa
người khác, tuy gần mực thì đen nhưng quân tử chân chính há lại không
thể lấy sự cao thượng của bản thân để giáo hóa người khác ư?
Tiêu Pháp mỉm cười, cảm thấy Trương Nguyên ngay thẳng đến mức
đáng yêu, thiếu niên không biết thế sự gian nan rồi, đạo lý là không sai nhưng Phu Tử chu du Liệt quốc, Mạnh Tử du thuyết chư hầu, lấy hiền đức
của hai vị thánh này còn không thể bán được ý chí của họ, một thiếu niên 16 tuổi như ngươi lại muốn cảm hóa một thái giám tham lam mù quáng,
ngươi muốn cảm hóa bằng cách nào?
Trương Nguyên nói:
- Phàm mọi việc đều tùy ở sự chỉ dẫn, Chung thái giám háo danh,
học trò sẽ lấy danh tiếng hiếu nghĩa lương thiện để chỉ dẫn cho lão.
Chung thái giám đó nghe lời học trò, bằng lòng đem số tiền tám ngàn
lượng bạc chuẩn bị để mở rộng xây dựng sinh từ dùng vào xây dựng một
viện tế bần, để cứu tế những người dân nghèo gặp thiên tai.
Tiêu Pháp vui vẻ nói:
- Có việc này sao, thế thì tốt quá, đây là việc thiện lớn lao.
Trương Nguyên nói:
- Chung thái giám ngưỡng mộ thanh danh của lão sư, vẫn muốn nhờ lão sư viết cho một tấm bia ký.
Tiêu Pháp lắc đầu nói:
- Ta không thể làm bia ký sinh từ, lão phu sẽ bị người đời chê cười.
Trương Nguyên nói:
- Thầy chưa nhận chút lợi lộc nào từ Chung thái giám, lòng dạ
lại trong sáng vô tư, sao phải sợ người khác nói. Huống hồ Chung thái
giám lại không phải xin thầy viết bia ký sinh từ mà là viết bia ký cho
viện tế bần. Chung thái giám thích hư danh, làm việc thiện cũng muốn để
người khác biết tới, thầy sao không cố làm để thúc đẩy việc thiện này?
Tiêu Pháp trầm ngâm nói:
- Lão phu trước đến nay đều giữ mình trong sạch, vốn không muốn
có bất kỳ liên quan nào với nội quan, nhưng Chung thái giám lần này là
hành thiện, ta sẽ phá lệ một lần. Chỉ có điều là lão phu gần đây tinh
thần không minh mẫn, lại không hứng thú viết văn tự xã giao, Trương
Nguyên ngươi viết thay lão, viết xong đưa trước để lão phu xem.
Muốn mượn là mượn danh tiếng của Tiêu Pháp trạng nguyên, ông tổ
văn học ấy chứ, văn tự xã giao để học trò viết thay cũng là chuyện rất
bình thường thôi. Trạng Nguyên trở lại chỗ ở tại Chức Tạo thự, ngay
trong đêm viết “ “ Bảo Thạch Sơn Chung thị Dưỡng tế Viện ký “ “ dài hơn
700 chữ, ngày hôm sau đem trình lên Tiêu Pháp xem, Tiêu Pháp thay đổi
chút xíu, viết trên một tờ giấy Tuyên Thành khổ lớn, đồng thời đóng linh ấn, Tiêu Pháp tuy không nổi danh về thư pháp nhưng Khải thư lão viết
rất đẹp, Tiêu Pháp nói:
- Bia ký này sau khi xây dựng xong viện tế bần mới được khắc
lập, ngươi phải đốc thúc lão thái giám kia khởi công càng sớm càng tốt.
Trương Nguyên cầm “ “ Bảo Thạch Sơn Chung thị Dưỡng tế viện ký “ “ đi gặp Chung thái giám, Chung thái giám vô cùng vui sướng, lập tức
quyên ra tám ngàn lượng bạc trắng, chọn địa điểm dưới núi Bảo Thạch để
xây viện tế bần, lại đi Hàng Châu quyên góp tiền, các quan liêu và phú
thương tơ lụa bây giờ còn phải nịnh bợ Chung thái giám, chỉ trong nửa
tháng, tiền quyên góp thu được một vạn tám ngàn lượng bạc, do Chức tạo
thự và phủ Hàng Châu cùng xây dựng viện tế bần, phái người chuyên quản
lý viện, hết thảy đâu vào đấy tiến hành xây dựng một khu nhà to đẹp hùng vĩ ở phía tây chùa Long Môn huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang, cửa vũ hồng
to rộng, cột trụ trạm khắc, lan can uốn khúc, vô cùng đẹp đẽ. Đây chính
là phủ đệ của đại danh sĩ Đổng Kỳ Hưng Đổng Hàn Lâm. Dinh thự của Đổng
thị không chỉ có chỗ này, bên cầu Trường Sinh ở Thành Tây, trước chùa Mã Kỳ ở góc tây bắc, còn có đầm Bạch Long ở ngoại ô. Dinh thự Đổng thị,
Lâm Viên hơn mười chỗ, lầu gác đình đài đẹp ngang với cung điện.
Sau giờ ngọ ngày 15 tháng 9, Đổng Kỳ Hưng tuổi gần 60, áo bào
rộng buộc nhẹ, dung mạo nho nhã đang vẽ tranh ở ‘Họa thiền thất’ (phòng
vẽ tranh), họa thiền thất là một tòa lầu bằng gỗ hai tầng, cấu trúc tinh xảo đẹp đẽ, là nơi vẽ tranh của Đổng Kỳ Hưng, có hai tỳ nữ xinh đẹp
trải giấy mài mực hầu hạ. Đổng Kỳ Hưng cầm bút chấm mực, vẽ một bức
tranh về đỉnh Hoành Vân trong sương khói mùa thu. Đang tập trung để vẽ
thì lại bị tiếng bước chân gấp gáp trên lầu quấy rầy. Đổng Kỳ Hưng vô
cùng tức giận, khi đang vẽ lão không cho phép ai đến làm phiền, sẽ phá
hỏng không khí trang nhã mà lão phải ấp ủ từ rất lâu. Vẽ tranh không
phải cứ nhấc bút lên là vẽ được, phải có hứng thú vẽ tranh mới được.
Không đợi tỳ nữ vừa hấp tấp chạy lên kịp mở miệng, lão quát:
- Vả vào miệng hai mươi cái đã rồi nói.
Ả tỳ nữ sắc mặt trắng bệch, đành phải tự vả vào miệng hai mươi
cái hết bên trái lại bên phải, đánh đến nỗi mặt đỏ ửng cả lên, lúc này
mới ấm ức bẩm báo:
- Lão gia, nhị công tử về rồi, nói là ở Hàng Châu bị người ta đánh.
Tay lão cầm bút vẽ hơi rung, ngòi bút khẽ chấm nhẹ một nốt trên
bức tranh vẫn chưa hoàn thành. Đổng Kỳ Hưng cau mày, chán ghét nhìn chỗ
bẩn trên bức họa. Bức họa vẽ núi Hoành Vân, núi Hoành Vân là danh thắng
của Tùng Giang. Bức họa này chính là chuẩn bị để đem tặng Chu Kính Thao, chỗ bẩn lại ngay dưới ngôi nhà tranh, giống như một bãi phân trâu.
Bức họa đã sắp hoàn thành, lại bị phá hỏng thật đáng tiếc. Đổng
Kỳ Hưng không vội truy hỏi vụ con trai Đổng Tổ Thường bị đánh ở Hàng
Châu, mà kiên trì chấm phá thêm vào bãi cứt trâu, vẽ đống phân thành một con chó đang nằm, lại thêm vào một hàng rào trúc, giống như chó sủa
cổng tre, lúc này mới hạ bút xuống, hỏi ả tỳ nữ vừa tự vả miệng mình đến nỗi hai má đỏ rực kia:
- Nhị công tử bị thương nặng không? Người đang ở đâu?
Ả tỳ nữ dè dặt đáp:
- Bẩm lão gia, nhị công tử được khênh về, giờ đang nghỉ ở Song Hạc đường.
- A, là được khiêng về!
Đổng Kỳ Hưng vừa sợ vừa giận. Lão có năm con trai, con thứ Đổng
Tổ Thường tuy không học vấn không nghề nghiệp nhưng lại được lão sủng ái nhất, bởi vậy mới tìm trăm phương ngàn kế để mua công danh sinh đồ cho
Đổng Tổ Thường. Lần này cử y đi Hàng Châu học, cũng là để cho y nuôi
dưỡng danh vọng, chuẩn bị cho kỳ thi hương năm tới ở Nam Kinh. Thi hương tuy khó khăn nghiêm ngặt nhưng cũng không phải là không có lỗ hổng để
chui, nào ngờ hôm nay lại bị thương nặng được khiêng về, khiến Đổng Kỳ
Hưng hết mực thương con làm sao không giận!
Vội vã tới Song Hạc đường, Đổng Kỳ Hưng thở hổn hển, liên tiếp gọi thất thanh:
- Thường nhi, con sao rồi?
Đổng Tổ Thường nửa nằm nửa ngồi trên một chiếc ghế cao sĩ, vài
tỳ thiếp vây xung quanh, thấy cha bước vào, Đổng Tổ Thường cúi thấp
người nói:
- Con bất hiếu, không thể dập đầu thi lễ với thân phụ đại nhân được, lần này thiếu chút nữa thì bỏ xác xứ người rồi!
Nói rồi nước mắt chảy ròng ròng, đầu tháng y bị Trương Nguyên đá cho một cước rồi tát cho hai cái ở chùa Tịnh Từ, Nam Bình Hàng Châu.
Vết thương tuy không nặng nhưng ấm ức không chịu nổi, trên thuyền khách
về Tùng Giang liền phát bệnh, phải để người hầu khiêng về tuy hơi có
chút khoa trương, chủ yếu là để tranh thủ sự thông cảm của cha y, để cha y quyết tâm rửa mối nhục này cho y.
Đổng Kỳ Hưng thấy đứa con quả nhiên gầy đi rất nhiều, sắc mặt
xám ngoét, lão vừa đau lòng vừa phẫn nộ, ra lệnh cho người làm lập tức
đi tìm danh y Hoa Đình là Liễu Bát Lang đến thăm khám cho Đổng Tổ
Thường, một mặt ngồi xuống cái đỉnh ba chân ở bên cạnh ghế cao sĩ mà
Đổng Tổ Thường đang ngồi, kéo tay con trai, cố bình tĩnh, hỏi:
- Rốt cục đã xảy ra chuyện gì, sao lại ra nông nỗi này, là ai đã đánh con?
Đổng Tổ Thường lửa giận lại lập tức bùng lên, quên mất mình bị khiêng về lẽ ra nên tỏ ra vẻ sắp hấp hối mới phải, lớn tiếng nói:
- Chính là Trương Nguyên ở Sơn Âm, cháu nội của Trương Nhữ
Sương, chính hắn đã dẫn một đám người hầu đánh con, cha phải làm chủ cho con, nếu không con chết không nhắm mắt.
Đổng Tổ Thường diễn đạt không lưu loát, giống như y sắp chết rồi, đây là lời trăng trối lúc lâm chung của y vậy.
Đầu năm Đổng Tổ Thường từ Sơn Âm xem hội đèn trở về, nói là bị
cháu nội của Trương Túc Chi đá cho một cước, thắt lưng bầm tím, Đổng Kỳ
Hưng nhìn thấy đau lòng vô cùng, nhưng hỏi rõ ngọn nguồn thì là con mình vô lễ trước. Đương nhiên, Đổng Kỳ Hưng cho rằng tên tiểu tử Trương
Nguyên đánh người còn đáng ghét hơn. Với lão, con trai lão có lỗi đi
chăng nữa thì cũng là lỗi nhỏ, hoàn toàn có thể tha thứ được, hơn nữa
Đổng Kỳ Hưng lão không biết dạy con sao, há phải để cho người ngoài dạy, tuy nhiên nể mặt Trương Túc Chi, lão đành phải nín nhịn, còn viết một
bức thư tạ lỗi, vốn nghĩ rằng việc này coi như xong, cũng không nghĩ
rằng sẽ cố ý đi trả thù. Không ngờ hôm nay con trai lão lại bị tên
Trương Nguyên đó đánh, mà đánh đến mức bị trọng thương. Sự tức giận của
Đổng Kỳ Hưng có thể tưởng tượng ra được, lão ân hận ngày đó mềm yếu, sao lại có thể tạ lỗi với Trương Nhữ Sương, lúc đó đáng ra phải truy cứu
tội đánh người của Trương Nguyên. Giờ đây Đổng thị của lão mà nhường một bước thì Trương thị ngược lại sẽ được đằng chân lân đằng đầu, lại còn
đánh con lão ra nông nỗi này.