Khi lão Phó kể đến
đây, anh ta đã phải cầm chiếc gạt tàn cỡ nhỏ đem ra ngoài đổ đi mấy lần, bao thuốc đã sắp hết. Lão Phó lại châm điếu nữa, rồi nói: “Thực ra,
những chuyện này đều do cha tôi kể cho mẹ tôi biết; khi cha tôi đi thì
tôi vẫn còn bé chưa hiểu gì, ông dặn mẹ tôi sau này phải cho tôi biết
chuyện. Các chuyện phía trên, tôi cho rằng cũng bình thường thôi, nhưng
những chuyện sau đây, một phần là do mẹ tôi kể lại, ngoài ra là từ bức
thư mà cha tôi để lại. Tất nhiên tôi phải thanh minh trước rằng tôi
không biết những nội dung trong đó là thật hay không. Riêng tôi thì tôi
không tin.”
Ông già Phó (tức cụ nội của lão Phó) buôn bán dược
liệu ở thị trấn được hai năm, vào ngày tết Đoan Ngọ[1] của năm thứ ba,
ông ở nhà trông coi cửa hàng, đến tối chuẩn bị đóng cửa, thì ông thầy
thuốc nói rằng ông đưa một người họ hàng xa của ông già Phó đến chơi.
Ông già Phó nhìn người ấy, và nói mình không nhận ra là ai. Người ấy lập tức ngắt lời và bảo ông thầy thuốc cứ về đi. Sau đó người ấy ngồi xuống và đưa ra một tờ đơn thuốc cho ông già Phó, nói là mình muốn mua thuốc. Ông già Phó cầm đơn thuốc lên xem, không hiểu là gì. Tuy đã kinh doanh
dược liệu hai năm nhưng ông mù chữ vẫn là mù chữ. Ông chỉ có thể nghe
tên các vị thuốc và đưa ra đúng vị thuốc ấy; khi có khách hàng cầm đơn
thuốc đến, ông đều phải nhờ một nhân viên vốn làm nghề dạy học đọc hộ,
sau đó ông bốc thuốc, hoặc phải mời ông thầy thuốc đã kê đơn đến cửa
hàng mà lấy thuốc.
[1] Mồng 5 tháng 5 âm lịch.
Và đang
định đóng cửa hàng, nên ông già Phó nói rằng lúc này bốc thuốc không
kịp, người nhân viên biết chữ thì đã ra về. Vị khách này bèn nói mình
cần gấp, và còn cười ông già Phó chê tiền không thiết bán hàng hay sao?
Nhìn nét cười này, ông già Phó sửng sốt, rồi ông nhận ra: người này là
anh chàng khoác túi bị mình đâm chết cuối cùng trong vụ cướp năm xưa.
Khuôn mặt anh ta dường như không thay đổi, lẽ ra, sau mấy năm trời thì
phải khác đi mới đúng. Ngày ấy chính ông đâm chết anh ta, nên ông nhớ
rất rõ.
Ông già Phó nghệt ra như người chết rồi, mồ hôi toát ra
ướt hết lưng, nghĩ bụng “thế là hết, chắc là hắn biến ra ma trở về báo
thù”, ông bèn co cẳng chạy ra ngoài. Người ấy liền đuổi theo và ra sức
gọi, nhưng ông già Phó đã không nghe thấy gì hết. Cho đến lúc đã rất
tối, ông nghĩ bụng cả nhà vẫn còn đó, nếu mình bỏ đi thì chẳng ra sao,
trở về thì cũng rất sợ, ông bèn rủ một người quen ở thị trấn về cùng,
người này vốn làm nghề lên đồng trừ tà trừ ma; nhưng ông không nói rõ lý do, sợ ông ta biết mình từng can tội giết người. Về đến nhà thì người
kia đã đi nhưng để lại cái đơn thuốc và cả tiền nữa, dặn lại rằng ngày
mai sẽ đến để lấy thuốc.
Ông già Phó ngồi phịch xuống ghế, bắt
đầu suy nghĩ xem nên xử trí ra sao. Ông lại nghĩ, hay là mình nhớ nhầm?
Trên đời này thiếu gì người trông hao hao nhau, gã kia thì đã chết rồi,
người khách này đến cửa hàng vào lúc trời chưa tối, nếu là ma thật thì
đâu có thể xuất hiện giữa ban ngày? Ông cầm tờ đơn thuốc lên nhìn, rồi
đưa cho “ông bạn trừ tà ma” xem xem có nhận ra những chữ viết trong đó
không. Ông thầy trừ tà ma nhìn mãi hồi lâu cũng không sao đọc nổi, nhưng ông ta lại bị thu hút bởi những thứ in phía sau tờ đơn thuốc. Ông ta
nói rằng phía sau vẽ những bùa chú. Ông già Phó hỏi là bùa gì, ông ta
đáp đó là bùa trừ ma quỷ, chắc chắn là thế, vì ngày trước đi giang hồ
cùng với sư phụ, ông đã nhìn thấy sách của sư phụ vẽ rất nhiều bùa chú
tương tự. Ông thầy trừ tà ma này chỉ là hạng mù mờ dở ông dở thằng không thạo cái gì, chỉ chuyên lòe bịp thiên hạ, tuy nhiên, về bùa chú thì ông ta có nhớ. Bùa chú in trên sách khác với bùa chú mà ông hay vẽ cho
khách hàng, hoặc ngược chiều với các thứ bùa chú thường thấy.
Ông già Phó càng nghĩ càng thấy không ổn, ngay đêm hôm đó ông gọi cả nhà
thu xếp chuẩn bị để đi. Nào ngờ bà già Phó quyết không chịu đi, nói rằng cả đời di chuyển thế này thì bao giờ mới yên? Lần này bà nhất định ở
lại. Ông già bí quá, đành thấp thỏm ở lại qua đêm. Sáng hôm sau người
nhân viên đến, ông bảo người ấy đọc xem tờ đơn thuốc viết những gì; nếu
người khách kia không phải là ma, thì nhận thuốc rồi sẽ đi. Người nhân
viên bèn đọc và cho biết đó là tên bốn vị thuốc bắc: khổ đậu thảo, tử
náo sa, dương trịch trục và hồng nương trùng.
Kể đến đây, lão Phó nói: “Cậu đã biết tại sao tôi đuổi theo đến đây rồi chứ? Nhưng đó mới
chỉ là một nguyên nhân trong đó. Cụ nội tôi không thấy người khách đáng
ngờ kia quay lại lấy thuốc, nên cụ sợ sau này sẽ có chuyện gì đó, bèn
cất giữ tờ đơn thuốc thật kỹ. Nhưng các cậu cũng biết rồi: là tờ giấy
thì bền làm sao được, cho nên cụ nội tôi nhờ người vẽ lại các thứ trông
tựa bùa chú, cứ sau vài năm lại vẽ lại để tiếp tục bảo quản, cứ thế nó
tồn tại cho đến ngày nay.
Khi ông nội tôi lên mười tuổi thì cụ
nội tôi bỗng bỏ nhà ra đi, đi đâu không rõ. Chỉ biết, trước khi đi, cụ
nói rằng đi tìm người nào đó, và dặn dò ông nội tôi hãy giữ gìn cuốn
sách chu đáo, nguyên vẹn; nếu ông nội tôi về già sắp chết mà vẫn chưa
thấy tin tức về cụ, thì ông nội tôi phải giao cuốn sách cho thế hệ sau
bảo quản. Thực tế là, khi cha tôi lên mười tuổi thì ông nội tôi cũng để
lại những lời như thế, sau đó bỏ nhà ra đi. Những năm gần đây, cha tôi
cũng bỏ đi, đi đâu thì không rõ...”
Kể đến đây, lão Phó nhìn tôi
và Mông Nhân, rồi lắc đầu nói: “Tôi thật sự không biết cuốn sách ấy viết những gì, nhiều năm qua tôi đã photo một số đoạn rồi nhờ người cầm đi
hỏi các vị học giả nhưng họ đều không thể kết luận điều gì, nó gần như
vô nghĩa. Vì chữ viết trong đó rất hỗn loạn, chữ thuộc về mấy thời đại.
Chỉ có các vị sưu tầm đồ cổ nói rằng cuốn sách đó rất đáng giá, ít ra
đáng vài trăm ngàn hoặc một triệu nhân dân tệ, nhưng cha tôi đã dặn lại
rằng đáng cả chục triệu cũng phải giữ lại, cấm không được bán. Cha tôi
đã đi ngần ấy năm trời không có tin tức gì, còn tôi thì quá ư mệt mỏi,
tôi rất muốn bán quách đi cho xong, chứ để lại thì cũng vô ích, cha tôi
sẽ không bao giờ trở về.”
Lão Phó nói xong, tôi bật đèn pin để
soi cho rõ, rồi cùng Mông Nhân lật giở cuốn sách thử nhìn một lượt. Mông Nhân giỏi hơn tôi chút ít, anh ta đọc hiểu đại khái chương một, nói về
những cơ quan chức năng của cơ thể người; các chỗ khác viết về gì thì
chịu, nhưng có thể sơ bộ nhận ra rằng chương một cũng viết rất chắp vá
lộn xộn.
Trước khi đi ngủ, lão Phó nói: “Tôi đoán rằng hình như
hiện nay Dương Sạn cũng liên quan gì đó đến chuyện này, hoặc ông già kia phải biết một số chuyện gì đó; hai cậu cũng thấy rồi đấy, ông già ấy
hoặc là dở hơi hoặc là một tên lừa đảo, ông ta có quá nhiều sơ hở lộ
liễu. Còn về Dương Sạn, tôi cứ cảm thấy... cái đầu anh ta đúng là có vấn đề, trông rất thật chứ không phải là giả vờ. Lúc tôi và anh ta cùng lên núi, khi nhìn thấy ông già thì anh ta xúc động rất mạnh rồi bước ra.
Tôi định hỏi anh ta, nhưng thấy cả hai đều nói năng linh tinh, nên không thể khái thác được điều gì, tôi đành giả vờ rồ dại như họ vậy. Tôi thấy mình không ứng phó nổi bọn họ, và cũng không có ai đáng tin cậy, nên
tôi mới gọi hai cậu đến đây.”
Ba chúng tôi bàn bạc một lúc, nhất
trí rằng để ngày mai xem xem Dương Sạn và ông già kia làm trò khỉ gì đã, rồi tính sau; nếu có thể, sẽ trói gô Dương Sạn lại để hỏi, nếu ông già
kia không phải nhà tu hành tôn giáo gì thì sẽ báo cảnh sát.
Sáng
tinh mơ hôm sau, Dương Sạn đã chạy đến đánh thức chúng tôi, nói là buổi
tu tập sáng sớm sắp bắt đầu, chúng tôi đành mắt nhắm mắt mở đi theo anh
ta đến bên ngoài miếu. Dương Sạn chỉ những giọt sương bám trên bãi cỏ,
nói đó là tiên lộ, bảo chúng tôi uống, coi như ăn sáng. Sau đó anh ta
bắt đầu liếm láp rất say sưa, sương trên những ngọn cỏ xung quanh chúng
tôi nhanh chóng bị anh ta liếm sạch... Trông bộ dạng Dương Sạn, tôi thầm nghĩ: chết thật, thằng cha này thật sự hết thuốc chữa rồi!
Ba
chúng tôi cũng sà xuống bãi cỏ giả vờ liếm láp, sau đó giả bộ rất thỏa
mãn, mỉm cười rất tươi nhìn Dương Sạn. Anh ta dường như cũng rất vui
mừng, hỏi rằng: “Chắc các cậu không còn cảm giác đói nữa, và tinh thần
cũng phấn chấn hơn hôm qua, phải không?”
Ba chúng tôi đều gật đầu nói: đã thấy rất dễ chịu, tinh thần sảng khoái không gì sánh bằng. Thực ra chúng tôi nghĩ bụng: đồ khốn nhà ngươi, nếu có cơ hội, sẽ tẩn cho
ngươi một trận nên thân, sẽ ném ngươi xuống núi, để ngươi được đằng
vân[2]!
[2] Cưỡi mây
Tiếp đó, Dương Sạn bắt đầu hướng dẫn
chúng tôi đọc kinh thư. Điều này khiến tôi nhớ lại hồi học tiểu học và
cấp II tập học thuộc lòng lúc sáng sớm. Nhưng trông vẻ mặt Dương Sạn
“thành tâm” một cách rất ngô nghê, chúng tôi dẫu muốn nổi nóng cũng
không làm nổi. Mình chẳng nên chấp kẻ ngớ ngẩn, và cũng vì lão Phó nữa,
nên chúng tôi phải nén lại.
Khi Dương Sạn bắt đầu đọc câu thứ
nhất thì ba chúng tôi thật sự đờ ra: quái dị thật, chỉ là Tam Tự Kinh[3] mà gọi là kinh thư ư? Sau một lát, Mông Nhân cũng sắp hóa rồ, và bắt
đầu nhẩm “3,1415926...” Cứ thế, chúng tôi à ơi một hồi lâu. Tiếp theo,
Dương Sạn bảo chúng tôi tọa tu. Tọa tu tức là tu tâm. Tu thân và tu tâm
đều quan trọng như nhau. Lúc tu tâm thì phải để cho đầu óc mình bước vào cảnh giới minh tưởng gì đó... tu đến một giai đoạn nhất định thì có thể nhìn thấy thiên môn, nhưng chưa tiến vào.
[3] Một tác phẩm văn
học cổ điển Trung Quốc, hình thức: văn vần, mỗi câu chỉ có “ba chữ”, rất nổi tiếng. Học trò tiểu học Trung Quốc đều được học trong chương trình
ngữ văn, coi như nhập môn về cổ văn. (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính
tương cận, tập tương viễn...)
Minh tưởng à? Lát nữa ta sẽ ném ngươi xuống núi để ngươi đến thẳng minh giới[4] cho gọn!
[4] Minh tưởng: gạt bỏ mọi ý nghĩ, tựa như vô thức; Minh giới: chỉ âm phủ.
Thế rồi ba chúng tôi ngồi ở phía sau Dương Sạn, bắt đầu minh tưởng... Lão
Phó cúi xem di động, Mông Nhân thì nghe MP3, còn tôi thì nhìn lên mái
ngói đếm xem có bao nhiêu cái mạng nhện. Lúc này tôi chợt nhớ đến bài
hát “Thằng khờ”, nó rất hợp để cho ba chúng tôi hát.
Minh tưởng
được một hồi, thì nhân vật tối qua xách đèn bão (đệ tử của đường môn
Thục Nam mà bậc tiền bối là Bộ Kinh Vân!) lò dò đến (để cho tiện, từ đây tôi gọi người này là Đèn Bão). Đèn Bão bước đến, nói: “A di đà Phật!
Đại tiên mời các vị! Các vị hãy đi theo tôi.”
Hừ! Ngươi tu đạo,
mà lại niệm A di đà Phật[5]? Lúc này Mông Nhân lại tha hồ phát huy, anh
ta nói với Đèn Bão: “Tôi muốn hỏi điều này: tôi vốn là môn đồ của
Giê-su, nếu tôi gia nhập môn phái của các vị e rằng bề trên sẽ không tha thứ cho tôi; ít ra ông ấy sẽ đến xử lý môn phái chúng ta. Mong đại tiên sẽ cứu giúp.”
[5] Người tu đạo, khác với tu hành Phật giáo; không thể tùy tiện pha trộn.
Đèn Bão lắc đầu nói: “Phái Giê-su, không đáng ngại. Pháp lực của ông ta chỉ bằng một nửa của đại tiên. Các vị theo tôi!” Tôi nhận ra hai mép Dương
Sạn cứ giật giật, hình như định cười nhưng cố nén lại và chửi thầm gã
khốn kiếp này đầu óc có vấn đề.