Trước khi tôi rời đỉnh Olympus, tôi đã quyết định sẽ thực hiện một vài cuộc gọi. Điều đó thật không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm cho mình một vòi phun nước yên tĩnh ở một góc vườn và gửi tin nhắn cầu vông cho Tyson, em trai tôi, người vẫn đang ở dưới đại dương. Tôi kể với cậu ấy về cuộc phiêu lưu của tôi và Bessie – cậu ấy muốn nghe tôi kể mọi chi tiết về con bò rắn mới sinh đáng yêu ấy. Tôi cũng đảm bảo với cậu ấy là Annabeth vẫn được an toàn. Cuối cùng, sau một hồi loanh quanh, tôi cũng tìm ra cách để giải thích về việc chiếc khiên cậu ấy làm cho tôi đã bị hỏng trong cuộc tấn công của con Manticore như thế nào.
“Chúc mừng!” Tyson nói. “Điều đó có nghĩa là chiếc khiên đó thật tốt! Nó đã bảo vệ được tính mạng của anh!”
“Chắc chắn là như vậy rồi nhưng đáng tiếc là nó không thể sử dụng được nữa.”
“Nó sẽ ổn thôi,” Tyson nói. “Em sẽ đến thăm anh và sửa lại nó vào mùa hè tới.”
Ý tưởng đó đã làm tinh thần tôi hồi phục lại.Tôi đoán mình đã không nhận ra tôi nhớ cậu ấy nhiều như thế nào.
“Em nghiêm túc chứ?” Tôi nói. “Họ sẽ để cho em nghỉ sao?”
“Đúng vậy! Em đã rèn được tới hai ngàn bảy trăm bốn mươi mốt cây kiếm ma thuật mà.” Tyson nói đầy tự hào và cho tôi thấy lưỡi kiếm mới nhất của cậu ấy. “Ông chủ đã nói với em là: ‘Làm tốt lắm!’ Ông ấy cho phép em nghỉ ngơi trong suốt cả mùa hè. Em sẽ tới cắm trại.”
Chúng tôi nói với nhau về việc chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới và cuộc chiến giữa cha và các linh hồn cổ xưa của biển cả. Chúng tôi còn bàn về những việc mà chúng tôi dự định sẽ làm cùng nhau vào hè năm sau. Nhưng sau đó ông chủ của Tyson đã bắt đầu phàn nàn và cậu ấy lại phải quay trở về công việc của mình.
Tôi lôi ra đồng drachma cuối cùng và gửi thêm một thông điệp cầu vồng nữa.
“Sally Jackson,” tôi nói. “Upper East Side, Manhattan.”
Màn sương lấp lánh và hình ảnh của mẹ tôi đang ngồi ở chiếc bàn ăn trong nhà bếp, cười và tay trong tay với ông “Cá Nóc Gai”, bạn của bà hiện lên.
Tôi cảm thấy thật ngượng và tôi sắp vẫy tay qua màn sương và ngắt đi sự kết nối, nhưng trước khi tôi có thể làm điều đó thì mẹ đã trông thấy tôi.
Mắt mẹ mở to. Bà nhanh chóng buôn tay mình ra khỏi tay ông “Cá Nóc Gai”. “Ồ, Paul! Anh biết gì không? Em để quên tập san viết văn ngoài phòng khách rồi, anh lấy nó giùm em được không?”
“Chắc chắn rồi, Sally.”
Ông ấy rời phòng, mẹ nhanh chóng nhoài người về phía thông điệp cầu vồng. “Percy! Con vẫn ổn chứ?”
“Con, ừm, vẫn ổn ạ. Chuyên đề viết của mẹ thế nào rồi?”
Bà bĩu môi. “Nó vẫn ổn. Nhưng điều đó không quan trọng. Kể cho mẹ chuyện đã xảy ra!”
Tôi cố gắng trả lời bà nhanh nhất có thể. Bà tỏ ra nhẹ nhõm khi biết Annabeth vẫn được an toàn.
“Mẹ biết là con sẽ làm được mà. Mẹ rất tự hào về con.”
“Vâng, tốt hơn hết là con nên để mẹ quay lại với bài tập của mình.”
“Percy, mẹ… Paul và mẹ…”
“Mẹ, mẹ hạnh phúc chứ?:
Câu hỏi của tôi đã làm bà ngạc nhiên. Trong một khoảnh khắc bà im lặng. “Ừm. Mẹ đang hạnh phúc, Percy ạ. Ở bên cạnh ông ấy khiến mẹ hạnh phúc.”
“Vậy thì tốt rồi. Con nói chân thành đấy. Mẹ đừng lo lắng gì cho con cả.”
Điều buồn cười là tôi có ý như thế. Suy nghĩ về cuộc tìm kiếm mà tôi vừa thực hiện, lẽ ra tôi nên lo lắng cho mẹ nhiều hơn. Tôi đã chứng kiến cách đối xử tàn tệ của mọi người với nhau, như Hercules và Zõe Nightshade hay như Luke với Thalia. Tôi đã từng có cuộc trò chuyện riêng với nữ thần Aphrodite, vị thần tình yêu và quyền lực của bà đã làm tôi phải e sợ hơn nhiều so với thần Ares. Nhưng chứng kiến cảnh mẹ tôi cười sau bao nhiêu năm bà từng chịu đựng gã bố dượng bẩn thỉu trước đây của tôi, Gabe Ugllano, tôi cũng thấy hạnh phúc thay cho bà.
“Con hãy hứa với mẹ là sẽ không gọi ông ấy là “Cá Nóc Gai, được chứ?” Bà hỏi tôi.
Tôi nhún vai. “Vâng, sẽ không nói trước mặt ông ấy.”
“Sally?” Giọng ông Blofish gọi ra từ trong phòng khách. “Em cần cuốn xanh lục hay đỏ?”
“Mẹ phải đi rồi,” Bà nói với tôi. “Hẹn gặp lại con vào dịp Giáng sinh.”
“Mẹ có định bỏ kẹo vào trong bít tất của con không?”
Bà mỉm cười. “Nếu con không quá lớn để nhận quà theo cách đó.”
“Con không bao giờ quá lớn để nhận kẹo cả.”
“Gặp lại con sau.”
Bà vẫy tay qua màn sương. Hình ảnh của bà biến mất, và tự nhủ với mình là Thalia đã nói đúng khi cách đây cũng đã nhiều ngày ở Westover Hall – mẹ tôi thật tuyệt.
So với đỉnh Olympus, Manhattan có vẻ yên tĩnh hơn. Ngày thứ sáu trước lễ Giáng sinh, nhưng vào lúc trời còn rất sớm, và hiếm có ai có mặt ở Fifth Avenue. Anh Argus, đội trưởng đội bảo vệ nhiều nhiều mắt đã đến đón Annabeth, Grover và tôi ở tòa nhà Empire State và đưa chúng tôi trở về trại xuyên qua một cơn bão tuyết nhẹ. Đường cao tốc Long Island giờ không còn một bóng người.
Trong khi bước chậm rãi ngược lên Đồi Con Lai tới cây thông nơi Bộ Lông Cừu Vàng sáng lấp lánh, tôi nửa mong chờ được nhìn thấy Thalia ở đó, đang đợi chúng tôi. Nhưng cô ấy đã không có ở đó. Cô ấy đã ra đi cùng với nữ thần Artemis và những thành viên còn lại của đội Thợ Săn trong chuyến phiêu lưu sắp tới của họ.
Bác Chiron đón chúng tôi ở Nhà Lớn với socola nóng và món sandwich nướng nhân pho mát. Grover đi cùng với những người bạn thần rừng để kể cho họ cuộc gặp mặt đầy kỳ lạ của chúng tôi với phép thuật của thần Pan. Trong một giờ đồng hồ, các thần rừng chạy vòng quanh đầy kích động, luôn miệng hỏi về quán café espresso gần nhất nằm ở đâu.
Annabeth và tôi ngồi với bác Chiron và một vài trại viên đứng đầu các nhà – Beckendorf, Silena Beauregard và anh em nhà Stoll. Thậm chí có cả Clarisse ở nhà thần Ares, người vừa trở về từ nhiệm vụ tìm kiếm bí mật. Tôi biết ắt hẳn cô ấy phải có một cuộc tìm kiếm đầy gian khổ, vì cô ấy thậm chí còn không cố đánh bại tôi… Cô ấy có một vết sẹo mới ở cằm và mái tóc vàng cáu bẩn đã được cắt ngắn và lởm chởm, như thể ai đó đã tấn công nó bằng cái kéo an toàn.
“Tôi có tin mới đây,” cô ta lầm bầm với sự bực bội, “Tin xấu.”
“Bác sẽ nghe cháu sau,” bác Chiron nói với vẻ hào hứng miễn cưỡng. “Điều quan trọng là cháu đã chiếm được ưu thế. Và cháu đã cứu được Annabeth!”
Annabeth cười với tôi đầy hàm ơn khiến tôi phải quay đi nơi khác.
Vì một vài lý do rất lạ nào đó, tôi nhận thấy mình đang nghĩ về đập thủy điện Hoover và cô gái kì quặc mà tôi đã vô tình đâm phải khi đó, Rachel Elizabeth Dare. Tôi cũng không hiểu tại sao nhưng những lời chỉ trích đầy khó chịu của cô ta lại đang dần ùa về trong đầu tôi. Chẳng lẽ cậu luôn giết người khi họ hỉ mũi sao. Tôi còn sống đến bây giờ là nhờ có sự giúp đỡ của rất nhiều người, thậm chí cả cô gái lắm chuyện như vậy. Thậm chí tôi còn chưa bao giờ giải thích với cô ấy tôi là ai.
“Luke vẫn còn sống,” tôi nói. “Annabeth đã nói đúng.”
Annabeth đứng bật dậy. “Sao cậu biết?”
Tôi cố gắng không để bận tâm vì sự quan tâm của cô ấy. Tôi kể cho cô ấy nghe về điều mà cha tôi đã nói về con tàu Công chúa Andromeda.
“Cũng tốt,” cô ấy quay người không thoải mái trên ghế. “Nếu như trận chiến cuối cùng xảy ra khi Percy mười sáu tuổi thì ít nhất chúng ta còn hai năm nữa để làm rõ một số chuyện.”
Tôi có cảm giác cô ấy nói ‘làm rõ một số chuyện’, thì ý của cô ấy là ‘làm Luke thay đổi’, và điều đó đã khiến tôi còn khó chịu hơn.
Khuôn mặt bác Chiron đầy ưu sầu. Ngồi cạnh bên lò sưởi bên chiếc xe lăn của bác ấy, trông bác ấy thật già. Ý tôi là… bác ấy thực sự đã rất lớn tuổi, nhưng thường thì bác Chiron nhìn không đến nỗi lắm.
“Hai năm tưởng chừng là một quãng thời gian dài,” bác Chiron nói. “Nhưng nó chỉ là một cái chớp mắt. Bác vẫn hy vọng cháu không phải là đứa trẻ trong Lời Sấm Truyền ấy, Percy ạ. Nhưng nếu cháu chính là đứa trẻ đó, thì cuộc chiến với các thần khổng lồ Titan lần thứ hai sẽ nhanh chóng diễn ra. Mục tiêu đầu tiên của Kronos sẽ là chính nơi này.”
“Sao bác biết điều đó?” tôi hỏi. “Tại sao hắn lại quan tâm đến trại nhiều như vậy?”
“Bởi vì các vị thần sẽ sử dụng những anh hùng như vũ khí của họ,” bác Chiron trả lời một cách đơn giản. “Tiêu diệt vũ khỉ, và các vị thần sẽ bị tổn hại nặng nề. Đội quân của Luke sẽ đến đây. Người thường, á thần, các gã khổng lồ… Chúng ta phải chuẩn bị. Thông tin của Clarisse có thể sẽ giúp chúng ta tìm ra manh mối về cách tấn công của chúng, nhưng…”
Có tiếng gõ cửa và Nico di Angelo thở hổn hể chạy vào phòng khách, hai má cậu bé đang đỏ dựng lên vì lạnh.
Cậu ta đang mỉm cười, nhưng lại nhìn quanh quất với vẻ mặt đầy lo lắng. “Chào! Chị em ở đâu… ở đâu vậy?”
Một sự im lặng đến ghê sợ bao trùm cả căn phòng. Tôi liếc nhìn bác Chiron. Tôi không thể tin được là chẳng ai nói cho cậu ta biết điều đó. Và rồi tôi chợt nhận ra lý do của việc đó. Họ chờ đợi sự xuất hiện của chúng tôi, và chúng sẽ là người nói trực tiếp việc đó với Nico.
Đó thật là điều cuối cùng tôi muốn làm. Nhưng tôi nợ điều đó với Bianca.
“Chào Nico,” Tôi đứng dậy khỏi chiếc ghế đang rất thoải mái của mình. “Chúng ta hãy đi dạo một chút và nói chuyện được không? Chúng ta cần nói chuyện.”
***
Cậu ta im lặng nghe tôi nói, và điều đó có phần làm cho mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn. Tôi tiếp tục nói, cố gắng giải thích cho cậu ta hiểu chuyện gì đã xảy ra và Bianca đã hy sinh như thế nào để cứu lấy cuộc tìm kiếm. Nhưng tôi cảm thấy tôi chỉ đang khiến mọi việc trở nên xấu hơn.
“Chị em muốn em có vật này.” Tôi đưa lại cho cậu ta một bức tượng thần nhỏ mà Bianca đã tìm thấy trong bãi rác của các vị thần. Nico giữ chặt nó trong lòng bàn tay và nhìn nó chăm chăm.
Chúng tôi đang đứng ở phòng ăn, cũng chính nơi đây chúng tôi đã nói chuyện lần cuối trước khi tôi thực hiện cuộc tìm kiếm. Gió bắt đầu trở nên lạnh hơn, mặc dù khu trại đã được bảo vệ bởi phép thuật chống lại những thay đổ thời tiết. Tuyết nhẹ nhàng rơi bên các bậc thềm đá hoa cương. Tôi đoán bên ngoài ranh giới bảo vệ trại, chắc hẳn bão tuyết đang diễn ra.
“Anh đã hứa là sẽ bảo vệ chị ấy cơ mà,” Nico nói.
Cậu ta có thể đâm tôi bằng một con dao găm han rỉ. Nhưng nó sẽ không khiến tôi cảm thấy đau đớn bằng việc cậu ta buộc tôi phải nhớ lại lời hứa của mình.
“Nico à,” tôi nói. “Anh đã cố. Nhưng Bianca đã chọn lấy sự hy sinh để cứu bọn anh. Anh đã khuyên cô ấy đừng làm như vậy. Nhưng cô ấy…”
“Nhưng anh đã từng hứa!”
Cậu ta nhìn trừng trừng vào tôi, mặt cậu ta đỏ ửng. Cậu ta nắm chặt bàn tay nhỏ của mình quanh bức tượng thần.
“Tôi không nên tin anh,” Giọng cậu ta đã vượt ngoài sức kiềm chế. “Anh đã lừa tôi. Cơn ác mộng của tôi hoàn toàn chính xác!”
“Đợi đã, em đang nói đến cơn ác mộng nào vậy?”
Cậu ta quăng bức tượng xuống đất. Nó kêu lách cách trên nền đã hoa cương phủ đầy băng. “Tôi ghét anh!”
“Có thể cô ấy vẫn còn sống,” tôi nói trong tuyệt vọng. “Anh không chắc nhưng…”
“Chị ấy đã chết.” Cậu ta nhắm chặt mắt. Cả cơ thể run lên vì giận dữ. “Lẽ ra tôi nên biết điều đó sớm hơn. Chị ấy đang ở Cánh đồng Asphodel, hiện đang đứng trước mặt các phán quan, chờ được định tội. Tôi có thể cảm nhận được điều đó.”
“Ý em là gì, em cảm nhận được điều đó ư?”
Trước khi tôi kịp nghe câu trả lời thì nghe được một âm thanh lạ từ phía sau lưng tôi. m thanh lách cách, xuyt xuyt va chạm vào nhau mà tôi có thể nhận ra chúng khá rõ.
Tôi lấy kiếm ra và Nico há hốc miệng đầy kinh ngạc. Tôi quay người lại và nhận ra là mình đang phài đối mặt với bốn tên chiến binh xương. Chúng cười nhăn nhở với nụ cười chẳng có chút da thịt nào và tiến lên phía trước cùng với những thanh gươm sắt nhọn. Tôi không hiểu bằng cách nào mà chúng có thể đột nhập vào trong khuôn viên của trại, nhưng bây giờ điều đó đã không còn quan trọng. Tôi chưa bao giờ có được sự trợ giúp đúng lúc.
“Anh đang cố để giết tôi!” Nico thét lên. “Chính anh đã đưa chúng vào đây đúng không?”
“Không! Ý anh là, ừm, chúng đi theo anh, nhưng không phải thế. Nico, chạy đi. Chúng không thể bị tiêu diệt.”
“Tôi không tin anh.”
Tên chiến binh xương đầu tiên lao vào tấn công. Tôi hất mạnh lưỡi gươm của hắn ra nhưng ba tên nữa lại xông tới. Tôi chặt một tên ra làm đôi nhưng ngay lập tức, cơ thể nó lại gắn kết với nhau. Tôi chém bay đầu một tên khác nhưng nó vẫn tiếp tục chiến đấu mà không cần đến đầu.
“Chạy đi, Nico!” Tôi hét lên. “Hãy gọi người đến giúp!”
“Không!” Cậu ta đang ép chặt hai tay vào tai.
Tôi không thể chiến đấu với bốn tên liền một lúc, chúng không thể bị tiêu diệt. Tôi đâm, chém, chặt, cắt nhưng chúng vẫn không ngừng xông lên. Chỉ còn vấn đề thời gian trước khi những con ma này chế ngự được tôi.
“Không!” Nico hét lớn hơn. “CÚT ĐI!”
Mặt đất gầm lên dữ dội dưới chân tôi. Những bộ xương như bị đông cứng. Tôi lùi lại kịp lúc đất dưới chân chúng nứt toác ra thành một khe rãnh khổng lồ. Mặt đất tách ra làm đôi như một cái miệng đang mở lớn. Lửa phun ra từ khe nứt, và trái đất nuốt chửng lấy chúng chỉ sau một tiếng kêu răng rắc lớn.
Im lặng.
Chính tại nơi mà bọ chúng đã đứng hiện lên một vết nức dài hơn sáu mét trên nền đá hoa cương của phòng ăn. Mặt khác, không còn một vết nứt nào chứng tỏ rằng chúng đã ở đây.
Đầy khiếp sợ, tôi quay sang nhìn Nico. “Làm thế nào mà em…?”
“Anh biếnđi!” cậu ta hét lên. “Tôi ghét anh! Tôi ước gì anh chết đi!”
Mặt đất không nuốt chửng lấy tôi, nhưng Nico lại bỏ chạy, cậu ta chạy xuống các bậc thềm và chạy về phía khu rừng. Tôi định chạy đuổi theo nhưng chân đã dẫm phải vật nào gì đó khiến tôi ngã nhào xuống các bậc thềm phủ đầy băng. Khi đứng dậy, tôi đã nhận ra vật đã cản đường tôi.
Tôi nhặt lên bức tượng thần mà Bianca đã nhặt được từ sân rác cho Nico . Bức tượng duy nhất mà thằng bé chưa có, cô ấy từng nói như vậy. Món quà cuối cùng từ người chị gái của cậu ta.
Tôi khiếp sợ nhìn nó, vì giờ tôi đã hiểu tại sao tôi thấy khuôn mặt của bức tượng trông rất quen. Trước đó tôi đã nhìn thấy nó.
Nó là bức tượng của thần Hades, Thần của Cái chết.
Annabeth và Grover đã cùng tôi tìm kiếm trong rừng hàng giờ đồng hồ nhưng không có một dấu hiệu nào của Nico.
“Chúng ta phải bác với bác Chiron,” Annabeth nói không kịp thờ.
“Không,” tôi nói.
Cả cô ấy và Grover đều nhìn tôi chằm chằm.
“Ừm…” Grover nói vẻ rất lo lắng. “Tại sao lại không chứ?”
Tôi vẫn đang cố gắng để hiểu vì sao tôi lại nói như vậy nhưng chúng đã tự động nhảy ra khỏi miệng tôi. “Chúng ta không thể để bất kì ai biết. Tớ không nghĩ ai cũng biết Nico là…”
“Con trai của thần Hades,” Annabeth nói. “Percy à, cậu có hiểu được mức độ quan trọng của việc này không? Ngay cả thần Hades cũng đã phá vỡ lời thề! Đó quả là một điều kinh khủng!”
“Tớ không nghĩ vậy. Tớ không nghĩ ông ta phá vỡ lời thề.”
“Cái gì cơ?”
“Ông ta là cha của Bianca và Nico,” tôi nói. “Nhưng họ đã được sinh ra từ trước đó rất lâu, thậm chí trước cả Thế Chiến thứ Hai.”
“Sòng bài Hoa Sen!” Grover nói và cậu ta kể với Annabeth về cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với Bianca trước đây.”Cô ấy và Nico đã từng mắc kẹt hàng thế kỉ. Họ được sinh ra trước khi lời thề giữa ba vị thần được lập ra.”
Tôi gật đầu.
“Nhưng bằng cách nào mà họ đã thoát ra?” Annabeth hỏi.
“Tớ không biết,” tôi thừa nhận. “Bianca nói một luật sư đã tới và đón họ rồi đưa về Westover Hall. Tớ cũng không chắc người đó có thể là ai và vì sao mà họ làm như vậy. Có thể họ là một phần của vụ này. Tớ không nghĩ là Nico hiểu về thân phận của cậu ta. Nhưng chúng ta không thể nói điều đó với bất kì ai được. Thậm chí là với bác Chiron. Nếu những vị thần trên đỉnh Olympus biết được…”
“Nó có thể sẽ dẫn đến cuộc chiến giữa họ một lần nữa,” Annabeth nói. “Và đó sẽ là điều cuối cùng mà chúng ta cần.”
Grover nhìn khá lo lắng. “Nhưng chúng ta không thể giấu bất cứ điều gì với các vị thần. Chúng ta không thể giữ kín nó mãi mãi.”
“Không phải là mãi mãi,” tôi nói. “Chỉ là hai năm thôi, cho đến khi tớ mười sáu tuổi.”
Annabeth biến sắc. “Nhưng Percy, thế có nghĩa là Lời Sấm Truyền không phải dành cho cậu, nó có thể dành cho Nico. Chúng ta phải…”
“Không đúng,” tôi nói. “Tớ đã chọn nó. Nó phải dành cho tớ.”
“Tại sao cậu lại nói như vậy?” Cô ấy bật khóc. “Cậu muốn nhận lấy trách nhiệm cho cả thế giới này ư?”
Đó là điều cuối cùng tôi muốn làm nhưng tôi đã không nói. Tôi biết là tôi sẽ phải bước tiếp và giữ vững điều đó.
“Tớ không thể để Nico gặp nguy hiểm được,” tôi nói. “Tớ đã mắc nợ chị cậu ta rất nhiều. Và tớ đã để cả hai người họ phải thất vọng. Tớ không muốn đứa trẻ tội nghiệp kia chịu bất kì điều gì nữa.”
“Đứa trẻ tội nghiệp ghét cậu và muốn cậu phải chết,” Grover nhắc nhở tôi.
“Có thể chúng ta sẽ tìm thấy cậu bé.” Tôi nói. “Chúng ta sẽ thuyết phục cậu ấy rằng mọi chuyện sẽ ổn và giấu cậu ấy ở một nơi nào đó an toàn.”
Annabeth rùng mình. “Sẽ thế nào nếu như Luke tóm được cậu ta?”
“Luke sẽ không làm vậy đâu,” tôi nói. “Tớ chắc rằng hắn có nhiều thứ để mắt tới hơn, ví dụ như là tớ chẳng hạn.”
Tôi không chắc bác Chiron sẽ tin điều mà tôi và Annabeth nói với bác ấy. Tôi nghĩ bác ấy sẽ nói tôi đang giấu giếm điều gì đó về sự biến mất của Nico nhưng rốt cuộc bác ấy đã chấp nhận điều đó. Không may là, Nico không phải con lai đầu tiên biến mất.
“Quá trẻ,” bác Chiron thở dài, hai tay bác ấy đặt trên lan can của mái hiên trước. “Than ôi, bác hy vọng cậu ta đã bị lũ quái vật ăn thịt. Điều đó tốt hơn nhiều so với việc cậu ta gia nhập hàng ngũ của quân thù.”
Ý kiến đó không làm tôi thấy dễ chịu chút nào. Tôi gần như đã định nói cho bác ấy biết nhưng tôi đã không làm như vậy.
“Bác thực sự nghĩ trại sẽ là nơi tấn công đầu tiên của chúng ư?” Tôi hỏi.
Bác Chiron dán mắt vào những bông tuyết đang rơi trên đồi. Tôi có thể thấy hơi thở của con rồng canh giữ cây thông và ánh sáng lấp lánh của Bộ Lông Cừu Vàng ở phía xa xa.
“Ít nhất là nó sẽ không diễn ra cho đến tận mùa hè,” bác Chiron nói. “Mùa đông này sẽ là mùa đông khắc nghiệt… không, sẽ rất khắc nghiệt trong nhiều thế kỷ qua. Percy, tốt nhất là cháu nên trở về nhà ở thành phố, tập trung vào việc học và dành nhiều thời gian nghỉ ngơi. Cháu cần phải nghỉ ngơi.”
Tôi nhìn sang phía Annabeth. “Còn cậu thì sao?”
Má cô ấy đỏ ửng. “Tớ sẽ cố quay lại San Francisco. Có thể tớ sẽ để mắt tới Núi Tam và để chắc chắn các thần khổng lồ Titan sẽ không làm thêm bất cứ điều gì khác.”
“Cậu sẽ gửi tin nhắn cầu vồng cho tớ nếu như có bất kì điều gì đó xảy ra chứ?”
Cô ấy gật đầu. “Nhưng phán đoán của bác Chiron có vẻ đúng đấy. Chúng sẽ không manh động điều gì cho đến tận mùa hè. Luke cần có thời gian để củng cố lại sức mạnh.”
Tôi không thích phải chờ đợi. Thêm nữa, tháng Tám tới tôi sẽ bước sang tuổi mười lăm. Rất gần tới tuổi mười sáu và tôi không muốn nghĩ tới điều đó nữa.
“Ổn rồi,” tôi nói. “Hãy tự chăm sóc bản thân. Và không có làm những trò nguy hiểm với Sopwith Camel đâu đấy.”
Annabeth cười lưỡng lự. “Đồng ý. Percy này…”
Bất kì điều gì cô muốn nói với tôi thì đều đã bị Grover ngắt lời, người vừa nhảy bổ ra từ Căn Nhà Lớn, vấp chân vào các lon rỗng bằng thiếc. Mặt cậu ấy đờ đẫn và xanh lét như thể cậu ấy vừa trông thấy ma vậy.
“Ông ấy đã nói!” Cậu ấy kêu thét lên.
“Bình tĩnh nào, anh bạn thần rừng trẻ tuổi của tôi,” bác Chiron nói với vẻ khó chịu. “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Tôi… tôi đang ngồi chơi nhạc trong phòng khách,” cậu ta lắp bắp. “và uống café. Rất nhiều, rất nhiều café. Và ông ấy nói trong tâm tưởng của tôi!”
“Người đó là ai?” Annabeth gặng hỏi.
“Thần Pan.” Grover gào lên. “Ông ấy là Thần của Thiên nhiên. Tớ đã nghe thấy tiếng của ông ấy! Tớ phải... tớ phải tìm ngay một cái vali thôi.”
“Whoa, whoa, whoa,” tôi nói. “Ông ấy đã nói gì?”
Grover nhìn chằm chằm vào tôi. “Chỉ ba từ thôi. Ông ấy nói: Ta đợi ngươi!”