TAM ĐIỆN CỬU TRÙNG, ĐƠN CÔI NGƯỜI ĐỨNG. HẲN PHẢI LÀ CÔ NGẠO, LÀ TỊCH MỊCH. MÀ SAO VẪN CÒN ÔM TÂM TƯ NHƯ MỘT CÔ GÁI NHỎ, NGÀY VUI ĐẾN, TUỔI DẦN TRÔI, LẠI NHỚ TRÔNG AI ĐÓ CÓ VỀ.
________________________________________________________________________________
Tương Thành là tòa thành trọng yếu ở biên giới, cũng là cửa ngõ dẫn vào trung tâm nước Ngụy. Tương Thành, cùng với kinh đô Lân Tiêu và cảng thuyền chính của dòng Lân Tiêu là La Độ, có vai trò ngang ngửa nhau và tạo thành “Tam Đô” tương truyền rằng không thể phá được. Năm xưa Trịnh Uyên từng bị cản lại ở Tương Thành, nếu không có Viên Duẫn Đàn hộ tống dọc đường, tuyệt nhiên cậu thể nào ra khỏi đất Ngụy.
Tương Thành không chỉ có tường thành sừng sững kiên cố. Không giống với các thành trấn khác, cửa thành ở đây được xây bằng bùn và gỗ trộn lẫn, vừa dày vừa nặng lại chịu lửa cực tốt. Hơn mười năm trước, từng có liên quân hai nước Trịnh - Lương vây hãm Tương Thành, chưa qua được mười tháng thì cạn nguồn lương thực, đành phải lui binh.
Ở phương diện khác, Tương Thành được canh giữ hết sức nghiêm ngặt. Điều này đã nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc với giới thương buôn giàu có của nước Ngụy. Thời Lục Quốc, phong trào buôn bán của người Ngụy phát triển rầm rộ, câu nói người Ngụy coi trọng lời lãi hơn tính mạng được biết đến rất rộng rãi. Dù đương lúc chiến loạn, chỉ cần hòa bình một chút thôi thì sẽ có thương buôn lớn gan lớn mật chớp thời cơ ra ngoài đánh hàng hóa. Mà Tương Thành chính là con đường duy nhất để giới thương buôn ra vào đất Ngụy. Do việc cấm buôn bán là bất khả thi, nên trừ những thời đểm nguy nan khi bị quân lính áp sát, bình thường Tương Thành rất ít khi đóng cửa hoàn toàn. Mà cũng do đó, các thương buôn ra vào Tương Thành đều bị kiểm soát nghiêm ngặt, phải mở tung các kiện hàng ra để kiểm tra, không được đi thành nhóm lớn, cũng không được mang binh khí hay vật bằng sắt thép.
Tương Thành không chỉ có lực lượng quân Ngụy tinh nhuệ, mà còn có kho binh khí rất lớn, dự trữ dành cho quân sự cực kỳ dồi dào. Các thành trấn biên cương khác ở phụ cận Tương Thành như Tư Thành, Tiết Thành, Mặc Thành... vân vân, tọa lạc theo hình bán nguyệt, đều lấy Tương Thành làm trung tâm. Nếu có ngày một trong những tòa thành này bị ồ ạt tấn công thì còn có Tương Thành thuyên chuyển quân đội sang cùng với các loại giáp, kiếm và quân nhu khác để phục vụ chiến tranh.
Bố cục quần tinh vây nguyệt này được hình thành vào thời Ngụy Thiên Kỳ đế, đến nay chưa được mười năm. Ý muốn của Thiên Kỳ đế là để đề phòng các tướng quân lấy danh nghĩa trấn thủ các thành trì biên giới mà tích trữ binh mã, nắm quân đội để xây dựng thế lực. Ông dùng Tương Thành kềm chế các thành trì khác, lại cắt cử người tâm phúc trấn thủ Tương Thanh, đơn giản như vậy mà khống chế được cục diện quân sự ngoài biên cảnh.
Sau khi đăng cơ, Ngụy Cẩn Hâm đã lo lắng khá nhiều về sự sắp xếp này của Thiên Kỳ đế. Khoan nói tới người trấn thủ Tương Thành ôm lòng dạ khác, cho dù viên Đô úy Tương Thành thật sự trung thành tận tụy thì cũng rất có khả năng phòng thủ bất lực, để quân địch phá thành. Với hoàn cảnh hiện nay, nếu Tương Thành thất thủ sẽ gây ra đả kích lớn, nhen lên mồi lửa diệt vong cho nước Ngụy.
Một khi cả nước trên dưới đều phản đối, dù kiêu căng kiệt ngạo như Ngụy Ly cũng không dám thay đổi chế pháp của tiên hoàng khi chỉ vừa mới kế vị. Hắn cũng từng lùi lại, nghĩ đến phương án thứ hai là tìm một người năng lực trác tuyệt lại không hề hai lòng đến trấn thủ Tương Thành. Nhưng trong triều đình nước Ngụy, người chân chính xứng đáng nhất với những điều này chỉ có Bình Loạn vương Viên Duẫn Đàn. Vậy là việc Viên Duẫn Đàn có nên rời khỏi Lân Tiêu đến gánh vác biên quan trở nên dai dẳng như ngàn lẻ một đêm. Ngụy Ly đành phải tạm gác việc này sang một bên.
Đối với liên quân Tề - Trịnh, Thương Thành là tòa thành đầu tiên mà họ phải trực tiếp đối mặt khi vừa vượt qua rặng núi. Đây cũng là uy hiếp lớn nhất của liên quân Tề - Trịnh ở vùng biên cảnh nước Ngụy. Chỉ khi đoạt được Tương Thành, con đường vận chuyển lương thảo mới đảm bảo an toàn, thông suốt, để lương thảo có thể từ nước Trịnh mà đi sâu vào đất Ngụy.
Liên quân Tề - Trịnh có binh lực bốn mươi vạn người, nhưng bấy giờ chỉ có mười lăm vạn quân khinh giáp hành động cấp tốc đã đến dưới chân Tương Thành. Sau khi nghe thấy tin Tương Thành bị vây hãm, Viên Duẫn Đàn cũng xuất phát rời khỏi Lân Tiêu, xuyên màn đêm chạy đến biên thùy. Lúc đó, Viên Duẫn Đàn chưa dẫn theo nhiều nhân mã, chỉ có không đến một vạn quân Báo Đằng khinh kị theo cùng. Điều mà Cẩn Hâm đế lo lắng, không phải là binh mã trong Tương Thành không đủ, mà kẻ đứng đầu toàn quân không có năng lực. Chỉ cần Viên Duẫn Đàn tiếp nhận vị trí Đô úy Tương Thành thì một người có thể đọ được trăm vạn hùng binh.
Cả Thiệu Dương và Trịnh Uyên đều thấy được điều này. Cái mà bọn họ cần làm là ngay trước khi Viên Duẫn Đàn tới nơi, có thể sử dụng mười lăm vạn quân khinh giáp hạ gục tòa Tương Thành kiên cố.
Mà hiện nay, Đô úy của Tương Thành chính là viên Vệ úy Tả doanh trung thành thận trọng của quân Báo Đằng, kẻ đã chặn đường Trịnh Uyên ở Tương Thành năm xưa ấy - Lý Hạo Kỳ.
-
Bên dưới Tương Thành, trong đại trướng quân Tề, Thiệu Dương ngước nhìn Trịnh Uyên, “Kế này rất hay, nhưng là đi một nước cờ hiểm. Nếu kế bất thành, mười vạn quân khinh giáp sẽ mất vào tay địch - bệ hạ có hiểu không?”
Trịnh Uyên thong thả cười, như đã định liệu kỹ càng từ trước: “Tướng quân yên tâm. Lý Hạo Kỳ là kẻ thận trọng có thừa mà tài trí không đủ - Muốn đoạt Tương Thành, chính là hôm nay!”
Thiệu Dương quay mặt đi nơi khác rồi đột ngột nhìn về Trịnh Uyên, trầm giọng hỏi: “Năm lần bảy lượt bệ hạ thuyết phục ta cùng bệ hạ khởi binh phạt Ngụy, đến cùng là vì sao?”
Trịnh Uyên điềm nhiên mỉm cười, nhận lấy cái nhìn của Thiệu Dương, “Trẫm và tướng quân từ hôm nay trở đi sẽ cùng hội cùng thuyền. Tướng quân còn không tin trẫm?”
Thiệu Dương mãi không trả lời, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn Trịnh Uyên, không hề có ý muốn hòa hoãn. Trịnh Uyên biết tính tình của Thiệu Dương, bình thường y ít khi chịu nói, nhưng nếu đã mở miệng thì nhất định phải có được câu trả lời. Cậu thong thả bước đến bên án, tiện tay chạm vào thanh bội kiếm mà Thiệu Dương đeo bên người lúc xuất chinh, có vẻ thích thú vuốt ve chuỗi tua rua trên thân kiếm, “Nếu trẫm nói muốn rửa sạch mối nhục năm xưa đã chịu ở Lân Tiêu, tướng quân có tin không?”
Thiệu Dương không đáp, chỉ lạnh lùng nói, “Bệ hạ, kiếm này là vật tùy thân của tôi, người khác không thể chạm vào.”
Trịnh Uyên thoáng giật mình. Suy cho cùng y còn là một đứa trẻ, dù ngữ điệu vẫm khống chế được nhưng dùng câu cú đã không còn giữ được sự chừng mực nữa, nghe đã thành nóng nảy tức giận. Lại nhìn thấy trên vỏ kiếm khảm cẩm thạch, chạm trổ hoa văn lưu vũ phượng vĩ, hiển nhiên là đặc thù của hoàng thất, cậu hiểu ngay rằng thanh kiếm này không thể chạm vào.
Nói đúng hơn, là người tặng kiếm không thể để ai chạm vào.
Cậu thu nụ cười lại, thả thanh kiếm trở lại trên án kỷ trong ánh mắt chăm chú của Thiệu Dương, rồi nhìn y khoan thai nói, “Lý do phạt Ngụy của trẫm và tướng quân giống nhau.”
“Thiệu Dương lĩnh mệnh mà xuất chinh, sao có thể giống bệ hạ được.”
Trịnh Uyên phóng tầm mắt ngóng trông về phía Tương Thành, “Chúng ta, đều vì một người đang ở nơi khác.”
Sau đó, khi Thiệu Dương còn thảng thốt chưa đáp lời, cậu dời ánh mắt hờ hững xa xăm của mình lên khuôn mặt của vị tướng quân trẻ tuổi, nhìn thẳng vào đối mắt sáng ngời không lấm chút vẩn đục của y, “Người ấy của tướng quân xa tận Dao Kinh, còn người ấy của trẫm, không phá Lân Tiêu không thể thấy.”
Ánh mắt của Thiệu Dương chợt lóe lên, y bước tới nhấc bội kiếm rồi hất tung cửa lều ra ngoài. Nước Ngụy vào đông, gió lạnh thấu xương mang theo cái nắng hanh khô buổi sáng, theo động tác của Thiệu Dương bỗng rin rít ùa vào trong.
Trịnh Uyên không bỏ lỡ ánh mắt của Thiệu Dương. Đôi mắt cứng rắn kiên nghị của Hộ quốc Tướng quân chứa đựng một sự dịu dàng đầy hoài nhớ không thể xua đi. Chỉ một cái chớp mắt đó mà như vỡ nát trong lòng.
-
Năm Tề Tuyên Minh thứ sáu, ngày hai mươi tháng Chạp, vào lúc lẽ ra người ta đang rộn rã chan hòa tiễn đưa năm cũ, liên quân Tề Trịnh đang bao vây dưới chân Tương Thành, dưới mệnh lệnh của Thiệu Dương, đột ngột triển khai thế tiến công mãnh liệt. Đô úy Tương Thành Lý Hạo Kỳ quan sát thấy trận tấn công này không hề có sách lược hay phòng bị, chỉ có binh lính Tề, Trịnh kẻ này ngã xuống thì kẻ khác tràn lên, mục đích duy nhất là dựng được thang vào tường thành. Tất cả giống như không ai trông thấy xác đồng đội của mình bị đẩy từ trên thành xuống chất cao như núi. Trận công kích này bắt đầu từ khi trời còn chưa sáng, càng lúc càng mãnh liệt hơn. Đến khi màn đêm buông xuống, phía dưới Tương Thành đã chất chồng hàng đống xác người. Máu phơi trong gió đông mau chóng đông cứng lại thành một màu đỏ bầm khiến người ta buồn nôn, máu bê bết trên những xác chết bất động, vô tình hắt lóa thứ ánh nắng thanh sạch của sáng sớm hôm sau. Quân Ngụy bảo vệ tòa thành phóng mắt nhìn từ đầu tường đến tận chân tường, ở đâu cũng chỉ thấy một bãi sền sệt, đen quánh và tuyệt đối im lặng. Xa xa vọng đến, còn nghe thấy tiếng gào hô “Giết”, và cảnh tượng kinh khiếp của cơn lũ người bạo liệt đang tràn tới.
Trong mấy ngày liên tục, liên quân Tề - Trịnh tấn công cả ngày lẫn đêm, không hề có tín hiệu nào báo sẽ dừng lại, dường như chỉ dựa vào cơn lũ người cuộn trào ấy đã đủ để nhấn chìm Tương Thành. Quân đội thủ thành dò xét tin tức, nghe thấy Thiệu Dương từ trước đó đã mở miệng nói, muốn cùng các tướng quân Tề - Trịnh lên lầu cao nhất trên tường thành để nâng chén mừng xuân.
Lý Hạo Kỳ vừa nghe phát ngôn hùng hồn đó chỉ khinh thường, coi là cuồng vọng của một đứa trẻ ranh nhãi nhép không biết trời cao đất rộng. Nếu chỉ bằng núi xác người càng ngày càng chất cao mà có thể làm lung lay Tương Thành, thì số phạm nhân bị xử trảm hằng năm ở nước Ngụy đã đủ để chiếm đoạt Dao Kinh! Gã bèn nhàn nhã ngồi yên trong sảnh, xem các quan binh dưới trướng bày cách điều động để diệt sạch nhuệ khí của quân Trịnh, Tề.
Nhưng sự nhàn nhã này của Lý Hạo Kỳ chỉ duy trì được đến ngày thứ ba. Trong vòng ba ngày, liên quân Tề - Trịnh tử thương hơn năm vạn, nhưng thế tiến công không hề suy yếu. Lý Hạo Kỳ vốn đã định liệu rằng liên quân Tề - Trịnh mặc dù có bốn mươi vạn, nhưng số quân có thể mau chóng vượt qua dãy núi để đánh úp bên sườn Tương Thành sẽ không thể vượt quá hai mươi vạn. Theo đấu pháp chệc choạc, không nguyên tắc nào như vậy, đợi được ngày mùa xuân theo như lời của Thiệu Dương thì quân đội Tề - Trịnh đã bị tiêu diệt sạch sẽ từ lâu, há còn nâng chén đón xuân?
Bọn họ có thể cả gan được ăn cả ngã về không thế này, khả năng duy nhất chính là từ lâu đã có nội ứng trà trộn vào bên trong Tương Thành. Đợi đến khi quân Ngụy cho rằng quân Tề - Trịnh tự chịu diệt vong mà lơi lỏng, họ sẽ ngay lập tức nội ứng ngoại hợp, thẳng tay chiếm thành.
Nghĩ đến đó, Lý Hạo Kỳ bắt đầu chột dạ. Tương Thành vốn rất ít khi phong tỏa hoàn toàn, thương buôn ra vào thành nối liền nhau không lúc nào ngơi nghỉ. Dù người muốn ra vào Tương Thành đều bị khám xét nghiêm ngặt nhưng cẩn thận đến đâu cũng phải có sơ sót, lưới chắc đến mấy cũng có cá lọt qua. Rất có khả năng rằng Trịnh Uyên đã sớm nghĩ cách mua chuộc bọn thị vệ canh phòng, đưa gian tế nước Trịnh vào trong thành. Nội ứng của nước Trịnh cứ như vậy mà ẩn nấp bên trong Tương Thành, e rằng số lượng không phải ít.
Tuy nhiên, nếu chỉ có nội ứng thôi cũng không quá hệ trọng. Tương Thành chính là địa điểm tập kết quân ngoài biên cảnh, chung quanh có hơn mười vạn quân tinh nhuệ, gần như đã chiếm một phần tư tổng binh lực của nước Ngụy. Với hơn mười vạn tinh binh này, dựa vào kho khí tài khiên giáp dồi dào bên trong Tương Thành, cũng như khả năng phòng thủ kiên cố của bản thân tòa thành đã đủ sức để đối phó với hơn hai mươi vạn quân địch từ phương xa tới.
Thế nhưng, đạo lý đơn sơ như vậy, Đô úy Tương Thành hiểu được, tất nhiên Trịnh Uyên và Thiệu Dương cũng hiểu được.
Do đó, Lý Hạo Kỳ chợt vỡ lẽ, số lượng quân của liên quân Tề Trịnh vượt quá đánh giá ban đầu của gã. Chỉ có như vậy, bọn họ mới có thể dựa vào nội ứng hạn hẹp bên trong thành mà giáp công từ xa hơn một dặm, triệt hạ sạch sẽ hơn mười vạn quân Ngụy bảo vệ thành.
Khả năng này dẫn đến một hậu quả khiến Lý Hạo Kỳ sợ hãi hơn cả việc để Tương Thành thất thủ. Hơn mười năm trên lưng ngựa, bốn năm trấn thủ biên cương, Lý Hạo Kỳ hiểu rất rõ quân đội trải qua huấn luyện tinh nhuệ mà thành ở Tương Thành chính là trụ cột duy nhất để bảo vệ biên cương nước Ngụy. Nếu chẳng may Tương Thàn thất thủ, dù thế nào đi nữa gã cũng phải cố gắng bảo toàn càng nhiều quân tinh nhuệ càng tốt, điều đến trấn thủ ở các thành trì lân cận.
Vào đêm của ngày công thành thứ năm của liên quân Tề - Trịnh, lo lắng của Lý Hạo Kỳ đã trở thành sự thực. Trong khi quân Ngụy đang dốc toàn lực ra thủ thành, bất ngờ Lý Hạo Kỳ nhận được tin kho dự trữ quân đội bị phóng hỏa. Song song đó, cũng hệt như gã đã sợ, có tin cấp báo rằng rất nhiều người dân đang cố sức phá vòng vây bảo vệ để mở cửa thành. Chỉ một lát sau, tiếng chiêng trống từ ngoài thành nhất tề rầm rầm vang dội, lửa bốc ngùn ngụt khắp bốn phương trời. Bên trong thành, dòng người đổ xô, dẫm đạp lên nhau đầy hoảng loạn. Tương Thành, một trong ba tòa thành xưng là “Tam Đô” không thể phá nổi, đã lâm vào cảnh khốn cùng cả trong lẫn ngoài mà xưa nay chưa hề có.
Lý Hạo Kỳ ngửa mặt trên trời cao, thở dài. Hai nước Tề - Trịnh đã đắc hết tiên cơ, lại chiếm được ưu thế tuyệt đối về mặt binh lực. Công phá Tương Thành, thế bất khả miễn. Gã thân là Đô úy Tương Thành, sống chết của gã đương nhiên gắn liền với tồn vong của tòa thành này. Nhưng gã không thể hành động theo cảm tính mà khiến cho hơn mười vạn binh lính trong thành phải chết oan uổng.
Gã cho gọi thống lĩnh của các đội tới để bàn bạc, lệnh cho bọn họ phải hỏa tốc dẫn đại bộ phận quân đội đang tử thủ Tương Thành đến Tư Thành ở kế cận. Tương Thành chắc chắn không giữ được nữa, cũng không kịp đốt hết kho dự trữ cho quân bên trong, đành hai tay dâng địch. Nhưng, hơn mười vạn tinh binh là điểm tựa của biên cảnh nước Ngụy, tuyệt đối không thể nào bị tiêu diệt lúc này.
Đợi đến khi các tướng lĩnh mệnh ra đi, giương cao cờ chuẩn bị sẵn sàng xuất phát, Lý Hạo Kỳ mới sực nhớ ra việc khẩn yếu nhất. Gã vội vàng truyền lệnh cho các đội nhân mã ra khỏi thành bằng cổng sau, chỉ được hướng về Tư Thành mà đi, còn hổ phù điều quân hay tín hiệu khói lửa đều không được để ý tới. Trừ khi nhìn thấy bản thân Đô úy, bằng không tuyệt đối không được thay đổi giữa đường mà trở lại Tương Thành.
Gã trời sinh thận trọng chặt chẽ, làm mọi việc đều phải đánh giá cẩn thận trước sau. Gã ngờ rằng sau khi liên quân Tề - Trịnh vào thành thì chắc chắn sẽ đoạt cả lệnh bài điều quân, tra hỏi được mật hệu liên lạc rồi sẽ dùng những thứ này để khiến cho quân chủ lực nước Ngụy đang kéo nhau ra đi phải ồ ạt quay về, hốt trọn một mẻ to. Gã an bài như vậy sẽ có thể đảm bảo cho đội quân chủ lực an toàn đột phá phòng vây.
Đúng như mong muốn của Lý Hạo Kỳ, quân đội phòng thủ Tương Thành mà gã muốn bảo toàn nhất nhân lúc bất ngờ đã mở rộng cửa ra khỏi thành trong một tình huống hầu như không hề có thương vong. Đoàn quân xông thẳng vào thế trận đối phương đang nhiễu loạn, nhằm thẳng về phía Tư Thành mà tiến tới. Lập tức sau đó, gót sắt của liên quân Tề - Trịnh đã rầm rập tiến vào Tương Thành. Cũng ngay khi gã chứng kiến phần lớn quân Ngụy đi đã khá xa, đang chuẩn bị tự vẫn tạ ơn thì chợt thấy viên phó tướng tùy thân đang hớt hải chạy vào, mặt mũi trắng nhợt, tay đang giơ cao bức mật hàm mà Bình Loạn vương Viên Duẫn Đàn sai người đi suốt ngày đêm đưa tới.
-
Giữa lúc mịt mù, Trịnh Uyên vẫn ung ung bước vào phủ Đô úy trong Tương Thành, thấy viên Đô úy Lý Hạo Kỳ một thời từng rất hăng máu nay ngã ngồi ngay giữa sảnh lớn. Xung quanh gã, binh khí rơi vãi đầy trên đất, còn miệng gã vẫn thì thào rằng đã phụ ơn vua.
Trịnh Uyên cúi người xuống, nghiềm ngẫm đôi mắt hằn màu máu của Lý Hạo Kỳ, dùng một giọng nói rất bình thản dễ nghe hỏi gã: “Lúc tướng quân cản đường Trịnh Uyên ngày đó, có bao giờ nghĩ sẽ đến hôm nay?”
Lý Hạo Kỳ hung hăng trừng mắt lên với cậu: “Vô liêm sỉ! Ngày xưa dù có liều mạng, lẽ ra ta cũng phải giết chết mi!”
Trịnh Uyên cả cười, đôi mắt tĩnh lặng của cậu bỗng gợn đôi ba làn sóng. Bất giác Lý Hạo Kỳ bị chấn kinh, “Chỉ trong vòng năm ngày mà đã chắp tay dâng Tương Thành. Lý Đô úy đối xử với trẫm thực lòng không tệ.”
Bất thình lình Lý Hạo Kỳ nhặt thanh đoản đao bên cạnh mình vung lên về phía Trịnh Uyên, nhưng đã bị quân Trịnh đang đứng phòng bị ở một bên đánh nát cổ tay. Trịnh Uyên nghe âm thanh loảng xoảng khi đoản đao rơi xuống đất lẫn với tiếng xương vỡ răng rắc, vẫn chỉ cả cười, trên đôi mày không hề nhìn thấy chút bực tức nào.
“Thật ra, Lý Đô úy cũng không cần buồn nản như vậy. Những gì Đô úy thấy không hoàn toàn là giả.” Trịnh Uyên đứng thẳng dậy, ý cười vẫn dạt dào như cũ. “Quân lực dồi dào, là có. Nhưng đường núi quanh co khúc khuỷu, đi thật lâu mà cũng chỉ có chưa đến năm phần đến được Tương Thành. Nội ứng, cũng có nốt. Có điều chỉ mười mấy người mà thôi. Trẫm đưa họ vào Tương Thành từ lúc còn đang xây công sự trên đường qua núi. Họ cũng chẳng làm gì nhiều, chỉ là châm mấy mồi lửa nghi binh. Chính dân chúng dễ dàng bị kích động khi nghe tin thành bị chiếm, cùng với việc Đô úy lớn gan mở cửa thành cho quân tinh nhuệ trong thành bỏ chạy, mới thực sự là công thần giúp đỡ cho đại quân của ta đắc thắng. A, trẫm còn quên mất chưa đa tạ Đô úy đại nhân đã bỏ đi hổ phù với pháo hiệu hộ trẫm. Nếu không như vậy, e rằng lúc này Tương Thành đã tràn ngập tiếng cung tên bắn tới. Quân của trẫm chỉ vừa mới đến nơi mà quân Ngụy đã quay về sát sườn như vậy, e là khó chống đỡ được.”
“Cho nên,“ Trịnh Uyên khẽ phất tay áo lên tựa hồ như đang lau đi cát bụi và vết máu dính dớp trên mặt, “Đô úy có thể viết thư dâng cho Cẩn Hâm bệ hạ, rằng liên quân Tề - Trịnh chưa đủ đáng sợ. Hôm nay Tương Thành bị phá, chính là do người Ngụy mà thôi.”
Mặt Lý Hạo Kỳ xám như tro tàn. Kế lồng trong kế, nhân ngoại hữu nhân. Ngay từ phút đầu, từng bước gã cho là cơ diệu đều đã nằm trong vòng toan tính của người khác. Ngay cả sự cẩn thận cần phải có khi giữ thành đều nằm trong diệu chiêu để kẻ địch phá trận thành công.
Rõ ràng tính toán chu đáo như vậy nhưng người khác lại nhìn rõ như từng đường vân trên lòng bàn tay, không sót một thứ gì. Tình uống này nên ví như cá trong chậu, chỉ có vô tận chua xót đớn đau nhưng phải câm lặng không thể nói năng.
Nhưng gã còn có lời phải thốt.
Chỉ thấy Lý Hạo Kỳ căm hận nhìn Trịnh Uyên, mắt trợn trừng lên cuồng nộ tận cùng mà chửi rủa: “Lý mỗ vô năng, nhưng không phải Ngụy quốc không có người tài! Mai kia Lý mỗ ở dưới hoàng tuyền nhìn mi bỏ mạng trong tay người Ngụy ta!”
Lời nói rất bạo gan, đúng là lấy hết can đảm ra mà nói. Bàn tay gã vẫn nắm chặt bên người cũng hơi thả lỏng.
Trịnh Uyên nghe đến đây, trên khóe môi khẽ nhếch lên một nụ cười trào phúng.
Lý Hạo Kỳ dĩ nhiên không biết, bốn năm về trước, khi chào từ biệt Viên Duẫn Đàn quay người cất bước vào Ly Hâm, Trịnh Uyên đã chết trong tay người Ngụy mất rồi.
Cậu cúi xuống nhìn lại, trong lòng bàn tay dính dớp mồ hôi và máu loãng của Lý Hạo Kỳ còn đang cầm lấy bức mật hàm do chính tay Viên Duẫn Đàn viết. Trên đó viết rất cẩn thận, chữ chữ thẳng hàng, bút bút cứng cáp, lặp đi lặp lại lời dặn dò, rằng Tề - Trịnh không có đủ quy mô để công thành, tất muốn dựa vào dấu hiệu giả rằng có binh lực sung túc, dọa để quân canh giữ Tương Thành phải bỏ thành mà đi. Y nhiều lần căn dặn, rằng nhất quyết phải tử thủ, trăm triệu lần không thể điều quân ra khỏi Tương Thành.
Ngày ấy tuổi trẻ ung dung, mà nay sự tình đã liên can sinh tử. Tuy Bình Loạn vương Viên Duẫn Đàn là anh tài do trời ban xuống, nhưng cuối cùng cũng đến chậm một bước.
Trịnh Uyên vẫn đạm nhạt cười. Ánh mắt cậu trong trẻo, không rõ giữa đôi hàng mi đang nghĩ điều gì. Bên ngoài phủ Đô úy, phía đông bầu trời ôm trọn Tương Thành đã dần ửng lên chút sắc trắng báo ngày sang. Những ngọn cờ xích diễm ngân phượng đỏ rực màu máu chậm rãi phất lên, và những lá cờ tương lam phục hổ phấp phới góc đằng tây, cùng nhau huy hoàng chiếu rọi.
-
Năm Tề Tuyên Minh thứ bảy, đầu xuân, Tĩnh Hoài đế Trịnh Uyên cùng tướng quân nhà Tề Thiệu Dương, như đã định từ trước, bày tiệc rượu ở tòa lầu cao nhất Tương Thành. Mấy ngày sau đó, toàn bộ liên quân Tề - Trịnh tiến vào chiếm thành, dựa vào kho quân bị dồi dào mà quân Ngụy để lại mà đại phá Tư Thành - nơi quân Ngụy đang đóng ở phía đông, rồi lại không tốn quá nhiều công sức để hạ gục được các tòa thành phòng thủ khác là Tiết Thành, Mặc Thành. Quân Ngụy dũng mãnh, tử chiến không hàng, bị liên quân Tề - Trịnh tiêu diệt toàn bộ. Có người còn nói, mười dặm bên ngoài Tư Thành đất đai ướt đẫm máu người, ba năm sau một ngọn cỏ cũng không mọc nổi.
Đến tận đây, liên quân Tề Trịnh đã thành công phá nát toàn bộ các thành trì phòng thủ ngoài biên giới nước Ngụy. Họ nghỉ ngơi để phục hồi một thời gian ngắn, rồi sau đó hướng thẳng về vùng trung tâm nước Ngụy mà tiến tới, thế như chẻ tre, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.
Sau khi Viên Duẫn Đàn nghe tin Tương Thành thất thủ, bèn dẫn kị binh quay về Lân Tiêu, giữa đêm khuya cầu kiến Cẩn Hâm đế Ngụy Ly. Ngoài dự liệu của y, trong Ngụy Cung hoàn toàn bình tĩnh, không hề có dấu hiệu của phẫn nộ hay hỗn loạn. Y đi xuyên qua hành lang không một bóng người của Ngụy Cung, nghe bên tai những mảng tuyết tan thành nước, tí tách từng giọt, từng giọt từ mái cong rơi xuống. Bên ngoài điện Thanh Hoa, y nhìn thấy Cẩn Hâm Đế đang đứng một mình, khăn vấn đầu trắng như tuyết phất phơ theo gió, nhưng vẫn không giấu được khí chất cao quý trang nghiêm vốn dĩ.
Dường như trong giây phút đó, làn điệu mà ả ca cơ từng hát rất nhiều lần khi được Ngụy Ly truyền vào Trung Thu năm ngoái, nay tự dưng nghe văng vẳng từ đâu chẳng rõ. “Bạch y thường bằng chu lan lập. Lãnh nguyệt hành tây. Điểm tấn sương vi. Tuế án tri quân quy bất quy...”
Tóc mai sương lấm. Tuổi muộn năm trầm.Biết người có về không...
Tam điện cửu trùng, đơn côi người đứng. Hẳn phải là cô ngạo, là tịch mịch. Mà sao vẫn còn ôm tâm tư như một cô gái nhỏ, ngày vui đến, tuổi dần trôi, lại nhớ trông ai đó có về.
-
Viên Duẫn Đàn đang định lui ra, bỗng Ngụy Ly quay sang nhìn y, trong đôi mắt hắn chứa một sự tĩnh tại ung dung mà y không quen biết, tựa hồ như hắn đã giải quyết được tất thảy. Hắn vẫy tay gọi y lại gần, tiếng ca mịt mờ, đứt đoạn rồi tắt hẳn. Thay vào đó, chính là một Ngụy Đế bình tĩnh quyết đoán như xưa nay vẫn thế.
“Duẫn Đàn, ngày mai ngươi theo trẫm, đến trấn thủ La Độ.”