Nhị lão đạo nói trong Lão Câu có mộ cổ của một cô gái người Khiết
Đan, dân đào trộm mộ ở Quan Nội, Quan Ngoại đều không biết bí mật này,
chỉ có môn đồ của Chính nhất đạo biết mà thôi. Khoảng bảy tám trăm năm
trước, nước Liêu chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai triều đại Đường Tống,
nên người Khiết Đan cũng rất chú trọng tới phong thủy long mạch khi chọn nơi xây lăng mộ. Tương truyền, công chúa Mang Cổ con gái Liêu Thế Tông
là nữ thần Saman, sau khi chết nàng được chôn tại Lão Câu. Trong hầm mộ
và đường hầm dẫn vào mộ treo đầy bích họa, đó đều là những tuyệt tác,
nghe nói còn tùy táng cả người sống. Lúc đó, đầm cỏ đi lại không khó
khăn như bây giờ, nó vốn là một thảo nguyên bao la. Lăng mộ hoàng đế
thường chọn thế núi hai bên cao, ở giữa thấp để xây lăng tẩm. Ngôi mộ cổ trong Lão Câu chính là ngôi mộ do đích thân sư tổ Nhị lão đạo xem phong thủy, sau đó suýt chút nữa bị Bắc đại vương giết người diệt khẩu. Bí
mật về ngôi mộ được truyền từ đời này sang đời khác cho tới ngày nay,
chính vì vậy Nhị lão đạo mới nắm rõ về ngôi mộ trong Lão Câu.
Mấy năm gần đây, nghề kiếm cơm của Nhị lão đạo gần như không thể trụ
được nữa, nhớ lại lời sư tổ truyền lại về một số vị trí long mạch, không kìm được lòng tham, lão đào được vài ngôi mộ cũ, kiếm được chút tiền
nhưng không nhiều. Lần này nhắm vào ngôi mộ cổ của công chúa Khiết Đan,
lão biết rằng trong đó có nhiều báu vật, nếu thành công thì từ giờ tới
cuối đời không cần phải lo lắng gì nữa.
Chuyện trong Lão Câu có mộ cổ hiếm người biết đến, nhưng từ cuối đời
Thanh tới nay, mọi người đồn nhau trong đó có mỏ vàng nên rất nhiều
người tham tiền tới đây tìm vàng, kết quả vàng đâu chẳng thấy, nhưng
người mất mạng ở đây quả không ít. Có người cao số không chết trong đầm
cỏ thì cũng chết trong khe núi. Nghe đồn trong đó có những bức bích họa
nhiều năm tuổi chứa yêu quái ăn thịt người, nếu vào tới bên trong thì
kiểu gì cũng bị yêu quái trong bích họa ăn thịt. Cũng có lời đồn trong
đó có ma đất hoành hành, nói chung là đủ loại lời đồn.
Nhị lão đạo cũng không rõ những lời đồn đại đáng sợ này có liên quan
gì tới ngôi mộ cổ Khiết Đan hay không, nhưng thời buổi này đói kém sinh
làm liều, nhát gan chỉ có chết, đã dám làm nghề quật táng thì đừng tin
tà ma, những người quá tin vào ma quỷ thì không thể kiếm cơm bằng nghề
đổ đấu được.
Đây là lần đầu tiên tôi và Sách Ni Nhi nghe tới chuyện bích họa ăn
thịt người. Năm xưa, số người đi qua được đầm cỏ vào tới trong khe núi
không nhiều, phần đa đều chết dọc đường, không rơi vào hố sình lầy thì
cũng bị chìm trong đầm trạch, hoặc làm mồi cho đám ruồi trâu. Chúng tôi
không thể lý giải nổi, cũng rất hiếu kỳ, bích họa chẳng qua là những bức tranh được vẽ trên tường, sao có thể ăn thịt người được?
Nhị lão đạo cũng không hiểu: "Cũng có thể người ta nhìn thấy những
bức tranh đó có niên đại đã lâu, hiếm thành ra thấy lạ, cũng có thể
những bức tranh đó hình thù kỳ quái đáng sợ, mọi người đồn tới đồn lui
thành yêu quái ăn thịt người cũng nên, làm sao mà tin được. Mọi người mà muốn nghe kể chuyện ma thì để lão đạo ta kể cho một chuyện. Thời Tống,
bên dòng sông Hoàng Hà có một con hồ ly tu luyện nhiều năm đã thành
tinh, thường biến thành hình dạng cô gái và đi vào thành. Có một họa sỹ
trông thấy cô gái dung mạo đẹp tuyệt trần thì vẽ lại, bức tranh được vẽ
sinh động như người thật. Sau đó, con hồ ly tinh này đã trà trộn vào
cung cấm để mê hoặc quân vương, không ngờ sau khi uống rượu đã hiện
nguyên hình, lộ ra chiếc đuôi hồ ly, bị ngự lâm quân nhìn thấy bắt lấy
chém đầu tại Ngũ Triều môn. Con hồ ly chết nhưng hồn chưa siêu thoát
được, nó đã chốn trong bức tranh mỹ nhân. Về sau, bức tranh đó lưu lạc
trong dân gian, người dân nhầm tưởng rằng đó là bức tranh tiên nữ, chỉ
cần nửa đêm thắp hương cầu khấn thì tiên nữ trong tranh sẽ bước ra. Có
một lão nhà giàu trong vùng đã bỏ khoản tiền lớn để mua bức tranh về thờ trong nhà chờ thời cơ gặp tiên nữ trong tranh. Kể từ đó gia đình ông ta bị yêu tinh trong tranh hại chết từng người từng người một. Đúng lúc
này sư tổ của ta đi qua, thấy yêu khí từ trong nhà bốc ra mù mịt khiến
người không mở mắt nổi, sư tổ liền đeo kiếm bước vào nhà, dùng tam vị
chân hỏa đốt bức tranh, giải cứu cho dân chúng trong vùng."
Tôi thấy câu chuyện của Nhị lão đạo chỉ là chuyện bịa, nhưng vùng
Đông Bắc lại lưu truyền rất nhiều những câu chuyện ma mãnh như vậy, vì
nơi đây nhiều rừng rậm, thường xuyên bắt gặp cáo và hồ ly, nên không tin không được. Sách Ni Nhi và Trương Cự Oa tròn mắt lắng nghe, vừa sợ vừa
muốn nghe tiếp, nghe xong còn thỏa sức tưởng tượng.
Đêm đó ngủ lại trên đầm cỏ, tôi cứ có cảm giác như bên cạnh mình có
thêm một người nữa khiến toàn thân gai lạnh, chẳng biết có phải do nghĩ
ngợi nhiều quá hay không mà suốt đêm mộng mị liên miên, mơ màng thấy có
người đi đi lại lại suốt đêm, làm tôi không thể ngủ yên. Tôi cứ tưởng đó chỉ là ảo giác, nhưng khi trời sáng thức dậy thấy bên cạnh đúng là thừa ra một người, có điều không phải là người còn sống.
2
Trước giải phóng có lời đồn đại rằng, không ít người mạo hiểm đi vào
Lão Câu tìm vàng, nhưng rất nhiều người không nắm rõ tình hình, mới đi
được nửa đường đã làm mồi cho lũ ruồi trâu, bị hút cạn máu thành những
xác chết khô đét, khắp người chi chít chấm đen, bộ dạng hết sức kinh
khủng. Những xác chết này nằm rải rác trong các bụi cỏ, năm này qua năm
khác chịu gió dập mưa vùi. Có những xác chết đến bây giờ vẫn còn nằm đó
và trở thành ký hiệu dẫn đường tới Lão Câu. Tối qua, chúng tôi dừng chân dựng trại, vì quá mệt nên sau khi nghe Nhị lão đạo huyên thuyên xong,
tôi vào lều lăn ra ngủ ngay, đến khi trời sáng mới biết có một xác chết
đang nằm cạnh mình, kinh sợ đến nỗi cả ngày hôm đó không muốn ăn bất cứ
thứ gì.
Ngày thứ hai rồi ngày thứ ba, thời tiết vẫn lúc đẹp lúc xấu, lúc nắng cháy khi mưa rào, luôn khiến người ta cảm thấy khó chịu, có những chỗ
không thể đi vòng đành phải lội nước, những lúc như vậy cần quấn xà cạp
tránh bị đỉa cắn. Cứ như vậy, chúng tôi lần mò đi trong đầm cỏ, đi qua
những vũng lầy. Trên trời mây trắng, dưới đất là cỏ vàng, ngút ngàn tầm
mắt như không có điểm tận cùng. Đi đến ngày thứ tư, mây đen đầy trời,
gió dữ nổi lên, phía chân trời phía nam xuất hiện hai vệt màu đen, tựa
như hai con cá quả khổng lồ chui lên từ trong những bụi cỏ.
Sách Ni Nhi nói: "Đó là núi Kháng Diên Tử, phía dưới có một khe núi gọi là Lão Câu, cũng không đến nỗi sâu lắm."
Nhị lão đạo xem xét một lúc, mừng rỡ nói: "Núi Kháng Diên Tử hai bên
cao chính giữa thấp, hình dạng giống như hai con quỷ đang đứng gác cổng, y như lời Sư tổ tôi truyền lại. Đúng là chỗ này rồi! Trông thì gần vậy, nhưng đi tới nơi cũng còn xa lắm, ít nhất thì chiều mới tới, giờ vẫn
còn sớm, chúng ta nghỉ chân ăn trưa đã rồi đi tiếp."
Chúng tôi tìm một chỗ đất bằng để nghỉ chân, gặm tạm miếng bánh mì
khô cùng rau vuốt mèo[1]. Đi vào đầm trạch không mang được nhiều lương
khô, dọc đường đều phải ăn tạm rau dại cho đỡ đói. Nhị lão đạo đã hứa,
chỉ cần tới nơi là đưa trước nửa tiền, lúc ra sẽ trả nốt phần còn lại.
Ông ta y lời lấy tiền đưa cho Sách Ni Nhi, còn nói: "Tôi và đồ đệ xuống
Lão Câu đào mộ, e hơi ít người, nếu hai cô cậu đồng ý ở lại giúp một tay thì hai người có thể chọn bất cứ thứ gì trong cỗ quan tài cổ đó, mỗi
người chọn lấy một món tùy thích."
[1] Là một loại rau dại có hình dạng giống vuốt mèo.
Sách Ni Nhi lắc đầu nói: "Tôi cứ nghĩ trong Lão Câu chẳng có gì, mới
đồng ý dẫn đường cho ông, nhưng dọc đường nghe đạo sỹ kể chuyện, hóa ra
có mộ cổ thật, giờ tôi hối hận lắm rồi, trở về thể nào cũng bị ông nội
tôi mắng chết."
Nhị lão đạo nói: "Chỉ cần chúng ta không nói ra thì làm sao có người
biết được. Cô xem, giờ đã tới đây rồi, sao còn hối hận nữa?". Ông ta lại hỏi tôi: "Lão huynh đệ, thế còn cậu? Tiền đến tận tay rồi mà không có
gan lấy à?"
Tôi cũng không kìm nén được nỗi tò mò, muốn theo Nhị lão đạo vào bên
trong xem chuyện bích họa trong ngôi mộ cổ thực hư thế nào, vả lại nghe
lão đạo kể thì ngôi mộ này quy mô không nhỏ, cơ hội tốt như vậy thật
hiếm có. Mặc dù trước đây nghe lão Nghĩa mù nói không thể kiếm cơm bằng
nghề đổ đấu, trò đào mộ trộm báu vật không tránh khỏi chữ "tham", khi
lòng tham đã nổi lên thì không có nghĩa khí gì nữa, gan ăn trộm cũng
ngày một to hơn, lấy mạng để đổi tiền khác gì xẻo thịt ở chân để lấp đầy bụng đói, sớm muộn gì thì mình cũng chết dưới tay mình. Nhưng sợ hãi
không dám đi chẳng phải để Nhị lão đạo và đồ đệ của ông ta chê cười tôi
nhát gan sao? Người ta đã nói tới nước này rồi tôi cũng không thể để mất mặt được. Kéo Sách Ni Nhi sang một góc bàn bạc, cuối cùng chúng tôi
cũng nhận lời Nhị lão đạo.
Nhị lão đạo nói: "Lão huynh đệ không hổ là người tới từ thành phố
lớn, biết nhiều hiểu rộng, cái khác thì tôi không dám chắc, còn hôm nay
cậu cứ đợi sẽ được mở mang tầm mắt. Mấy ngày nay chúng ta lăn lộn trên
đồng cỏ, hít gió trời ăn cỏ dại, đợi sự việc thành công, tôi sẽ mời mọi
người ăn một bữa no nê, tay gấu hầm hạt thông, nấm thông nhung kho mũi
chó rừng, môi cá tầm hầm gân hươu, cứ món ngon mà gọi, được không?"
Trương Cự Oa nghe vậy, nước miếng đã chảy ròng ròng: "Đạo trưởng, thế thì còn nói gì được nữa, thầy bảo sao con làm vậy."
Nhị lão đạo nói: "Tốt! Lần này thì lão đạo ta điều hành đại cục, mọi
người phải nghe theo lời tôi, lát nữa nghỉ chân xong thì chúng ta tới
chỗ khe núi xem tình hình ra sao rồi tính kế sách."
Lúc này mây đen che kín bầu trời, một con chim nhạn cô đơn vỗ cánh
bay ngang qua, đầm cỏ lại nổi gió, những cơn gió lạnh buốt kèm theo mưa, thời tiết lại đột ngột chuyển xấu. Chúng tôi ăn vội mấy miếng lương khô rồi thẳng tiến về phía Lão Câu, tới chân núi Kháng Diên chúng tôi nhìn
thấy ngọn núi thấp, mà thực ra cũng không thể gọi là núi, cùng lắm là
một quả đồi, trên núi có khe nứt chạy theo hướng đông tây, trên hẹp dưới rộng, sâu khoảng mười mấy mét, hơi lạnh bốc lên gai cả người, nước mưa
chạy dọc theo sườn núi xuống tận đáy. Nhị lão đạo bật đèn pin lên, dẫn
đầu nhóm, đi dọc xuống khe núi theo sườn đất. Trên đường đi, tôi phát
hiện, trên vách núi có nhiều hoa văn giống hình cá tầm bốn chân, đầu to
đuôi nhỏ. Lời đồn bích họa ăn thịt người có khi chỉ là những dấu tích
này, niên đại của nó còn lâu đời hơn mộ cổ Khiết Đan.
Trương Cự Oa cố mở to mắt hết cỡ nhìn những hoa văn trên vách núi:
"Trông thế nào cũng không giống quái vật ăn thịt người". Nói rồi cậu ta
định sờ vào những họa tiết đó.
Tôi giữ lấy tay Trương Cự Oa: "Nếu là tôi, thì tôi sẽ không động vào
nó, tục ngữ có câu "Không có lửa làm sao có khói", lời đồn bích họa
trong Lão Câu ăn thịt người không phải tự mọc ra đâu."
3
Nhị lão đạo nói với Trương Cự Oa: "Lão huynh đệ nói không sai, kiếm cơm bằng nghề này chúng ta phải hết sức cẩn thận."
Trương Cự Oa trả lời: "Vâng, em xin nghe anh và đạo trưởng."
Sách Ni Nhi cũng hiếu kỳ hỏi tôi: "Anh nghĩ dưới khe núi đó vẽ những hình gì?"
Tôi nói: "Có thể là rắn hoặc rồng gì đó, cũng có thể là hóa thạch. Niên đại lâu quá rồi tôi cũng không nhìn rõ."
Ở Nội Mông có tục thờ rắn, rồng, vùng thảo nguyên thờ sói, vùng rừng
rậm thờ gấu, có hang động thì thờ rắn v.v... nhưng những dấu tích ở Lão
Câu này đơn thuần là dấu tích tự nhiên, có thể không phải do con người
tạo ra.
Vết tích trên vách núi có niên đại lâu đời hơn bích họa trong mộ
Khiết Đan. Năm xưa, những người đi đào vàng mạo hiểm vào đây, rồi đồn
nhau bích họa trong này ăn thịt người có thể là do nhìn thấy những hình
thù trên vách núi, không liên quan tới ngôi mộ cổ chúng tôi đang tìm.
Chúng tôi thận trọng di chuyển cẩn thận trong khe núi, không có dấu vết
của con người cũng không có dấu vết của động vật, dưới khe núi vừa ẩm
vừa lạnh, toát ra một mùi hôi tanh ẩm thấp.
Nhị lão đạo lôi la bàn ra tìm phương hướng, đi phía trước dẫn đường,
lúc rẽ hướng đông lúc rẽ hướng tây. Núi Khang Diên có địa thế hai bên
cao ở giữa thấp, phía bắc cao hơn phía nam. Vị trí hầm mộ nằm tại phần
trũng xuống, đường hầm thông vào mộ chính là chỗ khe núi. Phía dưới khe
núi toàn nhũ đá bị gãy, cho dù có tìm thấy đường hầm thì dựa vào mấy
người chúng tôi thì chưa chắc đã đào nổi. Mấy trò phép thuật của Nhị lão đạo tuy chẳng ra sao, nhưng bản lĩnh tìm huyệt mộ thì không phải vừa.
Nhận thấy lớp đá rất cứng, khó có thể di chuyển được, lão liền ra khỏi
khe leo hẳn lên trên núi Khang Diên, trên tay vẫn cầm la bàn đi tới đi
lui, qua trái phải, sang đông sang tây, tìm một lúc thì đi xuống sườn
núi. Lão chỉ vào một đám bùn lầy mọc đầy cỏ dại phía bên ngoài khe núi:
"Ngắm chuẩn rồi! Đào chỗ này chắc chắn sẽ thông tới đường hầm."
Trương Cự Oa nhận được lệnh liền lôi xẻng cán ngắn ra phát cho tôi và Sách Ni Nhi mỗi người một chiếc. Dưới sự hướng dẫn của Nhị lão đạo,
chúng tôi bắt đầu đào từ đám bùn lầy đó. Mặc dù đất bùn lầy dễ đào nhưng vì khe núi hẹp tay chân không thể cử động thoải mái được, nên tới nửa
đêm, chúng tôi mới đào tới đáy, bên dưới lộ ra những viên gạch dài màu
đỏ đun, dùng đất sét đỏ khớp rãnh, ba người chúng tôi cạy vài viên gạch
lên thì đã mệt bở hơi tai, bên dưới là một đường hầm chỉ vừa một người
đi.
Tôi nhìn thấy Nhị lão đạo tránh đi vào cửa chính của ngôi mộ mà đào
từ phía trên đỉnh đường hầm xuống. Vì bị ngâm trong nước nhiều năm, nên
kết cấu giữa những viên gạch đã có phần lỏng lẻo, chúng tôi không khỏi
khâm phục đôi mắt gian xảo của Nhị lão đạo, trông thế mà chuẩn.
Nhị lão đạo cố nén lòng tham, lão giải thích vì hầm mộ bị bịt kín
nhiều năm, bên trong có nhiều âm khí, không thể vào bên trong ngay được, hơn nữa bây giờ trời cũng tối rồi, mọi người ai nấy đều mệt, nghỉ ngơi
chút đã, cuối đường hầm còn một lần cửa nữa, ngày mai vẫn còn việc để
làm.
Đêm hôm đó trời mưa không ngớt, Trương Cự Oa hỏi chúng tôi: "Mọi
người có tin lúc đào trộm mộ mà gặp trời mưa nghĩa là ma đang khóc
không?"
Sách Ni Nhi nhát gan, hay tin vào mấy câu chuyện mê tín dị đoan kiểu này, nghe Trương Cự Oa hỏi vậy mặt cô đã tái mét.
Tôi nói với Sách Ni Nhi: "Không có chuyện đó đâu, người chết bị chôn
trong mộ giữa chốn hoang vu không có ai làm bạn, lạnh lẽo bao nhiêu năm
như vậy, giờ khó khăn lắm mới có người đến thăm, vui mừng còn không hết, sao mà phải khóc."
Nhị lão đạo nói: "Đúng là lão huynh đệ không tin tà ma, lão đạo tôi
sớm nhận ra cậu không phải người tầm thường, hơn hẳn thằng đồ đệ của tôi chỉ biết mỗi việc khiêng đồ. Tôi thấy cô hồn dã quỷ có đáng sợ đến mấy
cũng không đáng sợ bằng nghèo đói, tôi bị cái nghèo hành cho phát sợ
rồi. Đợi mẻ này thành công đủ cho nửa đời còn lại ăn chơi phè phỡn, các
cậu chỉ cần nghĩ như vậy thôi là cứng gan lại ngay."
Chúng tôi uống nước lạnh, ăn lương khô, nghe Nhị lão đạo nói đến đó
thì hai mắt díp lại không thể chống lên được nữa, đêm hôm nay đúng là
quá mệt. Bốn người thay nhau gác cửa đường hầm tránh không cho nước chảy vào, chịu đói chịu khát tới khi trời sáng.
Sáng hôm sau, Nhị lão đạo thắp một ngọn đèn bão giao cho tôi và
Trương Cự Oa vào trong thám thính, ông ta còn dặn dò: "Lão huynh đệ phải nhớ kỹ, đèn tắt thì người chết."
4
Nhị lão đạo nói với tôi, ngôi mộ Khiết Đan này nằm phía dưới một đồi
đất to, bên trên mọc đầy cỏ dại, hầm mộ ở ngay dưới đồi đất, lần cửa thứ nhất nằm dưới khe núi Lão Câu, để đảm bảo không ảnh hưởng tới phong
thủy nên người xưa đã dùng gạch xây nối giữa hầm mộ và cửa mộ, phía sau
cửa mộ còn một lần cửa đá nữa, tường hầm mộ xây bằng đá rất kiên cố, khó mà đào vào trong được. Để vào ngôi mộ cổ này, cách đơn giản nhất chính
là đào từ phía trên đường hầm dẫn vào mộ. Nhưng ngôi mộ bị bịt kín nhiều năm, không lưu thông khí, đi vào sâu bên trong sẽ thấy khó thở, nếu
ngọn đèn bị tắt chứng tỏ âm khí trong mộ vẫn còn nhiều, phải quay ra
ngay, đêm dài lắm mộng, ở trong đó lâu ắt có biến cố, thăm dò rõ tình
hình trong mộ, mở cửa mộ lấy đồ xong, phải nhanh chóng quay trở ra ngay.
Chúng tôi quấn xà cạp, rồi thòng dây thừng để xuống đường hầm, bên
dưới lạnh lẽo vô cùng, nếu hai người đi song song nhau thì hơi chật, đất rất xốp, chạm tay vào tường là từng mảng đất rơi xuống, đường hầm có
thể sập bất cứ lúc nào, và chúng tôi sẽ bị chôn sống dưới này bất cứ lúc nào. Đường hầm được xây bằng gạch nung dài, bên trên phủ một lớp bụi
dày, trên tường đều khắc bích họa tuy nhiên đoạn hầm này bị sụt lở
nghiêm trọng, lại ngâm trong nước lâu năm nên chỉ vài họa tiết còn nhìn
thấy được, trong đường hầm vương vãi ít xương cốt, có thể là xương người bị tùy táng, cũng có thể là xương súc vật, chúng đã gãy vụn không thể
nhận biết được.
Trương Cự Oa tuy to xác nhưng nhát gan, cậu ta theo sát phía sau lưng tôi và hỏi: "Anh à, anh đã đào mộ cổ bao giờ chưa?"
Tôi nói: "Hồi ở quê vẫn hay chơi dưới mấy cái huyệt không, còn cá
cược với lũ bạn ngủ qua đêm ở bãi tha ma nhưng chỉ là huyệt trống, ngoài mấy con nhện ra thì chẳng có gì dưới đó cả. Mộ cổ như mộ thời Liêu này
thì lần đầu tiên đấy, cậu là đồ đệ của Nhị lão đạo mà chưa vào mộ cổ lần nào à?"
Trương Cự Oa nói: "Nửa năm nay em theo đạo trưởng cũng đào được mấy
cái mộ, nhưng chưa bao giờ đào cái mộ nào to như thế này, chỉ riêng
đường hầm thôi mà đã sâu thế vậy rồi, bên trong không biết có gì?"
Tôi nghĩ bụng: "Biết rồi còn hỏi, trong mộ cổ ngoài 'bánh chưng[2]'
ra còn có gì được nữa? Trước đây nghe Nhị lão đạo nói ngôi mộ này chôn
một người con gái Khiết Đan, lúc còn sống nàng không những là người
hoàng tộc, xinh đẹp tuyệt trần, mà còn là một nữ thần Saman, thân phận
rất đặc biệt."
[2] Bánh chưng: là tiếng lóng của dân trộm mộ, ám chỉ xác chết trong quan tài.
Trương Cự Oa kêu lên: "Chà! Không biết nàng đẹp đến mức nào?"
Tôi hỏi cậu ta: "Cậu nghĩ xem, trong số những cô gái cậu đã từng gặp thì ai là xinh nhất?"
Trương Cự Oa nói: "Sách Ni Nhi! Tóc dài thướt tha, trông là đã thấy
thích rồi. Cả đời em chưa bao giờ thấy cô gái nào xinh như vậy cả."
Tôi nói: "Sách Ni Nhi đúng là rất xinh, nếu sinh vào thời Thanh thì
cô ấy cũng có thể là Cách Cách đấy, nhưng so với cô gái Khiết Đan này
thì khí chất có khi không bằng vì Sách Ni Nhi lớn lên trong gia đình săn bắn, tính khí nhiều lúc còn cương hơn cả đám đàn ông."
Trương Cự Oa nói: "Dù sao cô gái Khiết Đan kia cũng chết rồi, người chết thì không sánh được với người còn sống."
Tôi nói: "Biết đâu chết nhưng không bị phân hủy, mở nắp quan tài ra thấy vẫn như còn sống..."
Trương Cự Oa nói: "Thế thì thành cương thi rồi còn đâu. Anh đừng nói nữa, em yếu bóng vía lắm."
Tôi nói: "Mà bọn mình nói đến đâu rồi nhỉ! Cậu đừng nói chuyện này với Sách Ni Nhi nhé, nếu không cô ấy không tha cho tôi đâu."
Trương Cự Oa nói: "Đánh yêu mắng yêu thôi. Cô ấy để ý đến anh mới làm vậy, con gái ở vùng bọn em toàn thế thôi."
Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện cho bớt sợ, đi tới tận cùng của đường hầm, theo ánh sáng ngọn đèn chúng tôi nhìn thấy một lần cửa bằng gỗ,
mỗi bên cánh cửa có dãy đinh tán bằng đồng mạ vàng. Ở giữa có một chiếc
khóa lớn đã hoen rỉ. Lớp cửa mộ đầu tiên dưới lòng núi Khang Diên là một cánh cửa đá, trong đường hầm có một khối đá to đùng để chặn kẻ xâm
phạm, không có lừa ngựa kéo thì đừng mơ tưởng đến chuyện mở ra, nhưng
lớp cửa thứ hai chỉ làm bằng gỗ nẹp đồng, lại bị hoen rỉ mục nát, nên về cơ bản là không chặn được ai.
Trương Cự Oa rút từng cái đinh trên tấm cửa, rồi đục xuyên qua, bên
trong toàn cát, đào hết lớp cát lại là than cốc. Đây là lớp chống ẩm
trong mộ cổ, may mà không dày lắm, phía sau lớp đất cát đó lại là một
lần cửa nữa.
Tôi và Trương Cự Oa toàn thân nhễ nhại mồ hôi và lấm lem đất cát,
nghĩ tới chuyện phía trước chính là địa cung, tự nhiên tôi lại thấy căng thẳng. Khi chúng tôi chuẩn bị cạy lớp cửa thứ ba, thì thấy Sách Ni Nhi
đi vào, tôi hỏi: "Sao em lại vào đây? Không sợ xác chết Khiết Đan à?"
Sách Ni Nhi nói: "Hai người vào lâu quá mà không thấy động tĩnh gì, em lo xảy ra chuyện, sao vẫn chưa xong?"
Tôi nói: "Sắp xong rồi, còn một lần cửa nữa, cạy xong lớp cửa này, bên trong chính là địa cung..."
Nói xong thì Trương Cự Oa cũng đã đẩy bật được cánh cửa, địa cung
chẳng qua cũng là huyệt đạo trong lòng đất, đúng lúc Trương Cự Oa đẩy
bật cánh cửa, một luồng gió đen từ bên trong phụt ra khiến mọi người
nghẹt thở. Tôi và Trương Cự Oa mới nhắc đến chuyện hình dạng cô gái
người Khiết Đan nên rất hiếu kỳ, mọi người bất giác cầm đèn lên, đi vào
bên trong xem xét tình hình. Bất thình lình, từ bên trong hầm mộ tối đen xông ra một con quái vật hình thù kỳ dị, toàn thân mọc đầy lông trắng
toát, hai mắt sáng rực, răng nanh nhọn hoắt.
5
Ngọn đèn bão lung lay trước cơn gió âm từ trong hầm mộ thổi ra lúc tỏ lúc mờ, cùng lúc đó một con quái vật chưa ai nhìn thấy bao giờ, lông
trắng mắt vàng, há to cái miệng đỏ au như máu xông ra. Ba người chúng
tôi hồn bay phách lạc, tóc trên đầu dựng ngược hết cả lên, chôn chân
trong đường hầm chật hẹp không biết chạy trốn đi đâu, chỉ biết giương
mắt nhìn con quái vật đang lao tới. Tôi kinh hoàng vơ vội chiếc cuốc
chim ném về phía con quái vật, chỉ thấy như ném vào không khí, chiếc
cuốc va vào lớp tường gạch phát ra tiếng kêu chát chúa, vì ném mạnh quá
nên lưỡi cuốc đã bị nứt, còn con quái vật lao về phía chúng tôi như một
cơn lốc khiến mọi người không thể thở được, khi nhìn lại thì trước mắt
bỗng không thấy gì hết.
Chúng tôi thất kinh hồn vía, thở không ra hơi, vội vã quay ra theo
đường cũ. Trương Cự Oa kể lại hình ảnh kinh hãi vừa rồi cho Nhị lão đạo
nghe. Cả ba người đều nhìn thấy, không thể nhìn nhầm được, nếu tiếp tục
đi vào bên trong chắc chắn sẽ bị con quái vật canh mộ đó ăn tươi nuốt
sống.
Nhị lão đạo kiếm cơm bằng nghề đổ đấu, kinh nghiệm cũng rất phong
phú, nghe Trương Cự Oa tả lại như vậy thì biết ngay đó không phải ác
thú. Ngôi mộ cổ này đã hàng nghìn năm không lưu thông không khí, những
bức tranh vẽ trên tường màu sắc vẫn sặc sỡ giống như vừa được vẽ xong,
đúng thời khắc mở cửa mộ, âm khí trong mộ sẽ tràn ra ngoài, màu sắc trên những bức tranh cũng theo cơn gió đó mà bị bay ra bên ngoài một phần
nào. Mắt thường nhìn thấy hình ảnh quái thú chẳng qua là màu sắc của
những bức bích họa bị thổi ra ngoài. Thời xưa mê tín, cứ nghĩ rằng đó là hồn ma bóng quỷ. Nếu gặp phải những trận gió như vậy, nhẹ thì sợ tới
hồn bay phách lạc, nặng thì chết ngay tại chỗ. Thực ra điều này cho thấy ngôi mộ đã được bảo tồn nguyên vẹn.
Tôi nhớ lão Nghĩa mù cũng từng nói với tôi chuyện này, Nhị lão đạo
không nói dối, nhưng Trương Cự Oa thì nói thế nào cũng không chịu vào mộ lần nữa.
Nhị lão đạo quát: "Đồ vô dụng! Suốt ngày không biết làm gì, chỉ muốn
ngồi không ăn sẵn, cũng không nghĩ lại xem trên mộ tổ nhà mày có mọc
ngọn cỏ dại nào không? Nhát gan không làm được tướng quân, sợ chết không phải là đại trượng phu, mày có muốn kiếm tiền xây nhà, cưới vợ không
hà?". Nhị lão đạo biết tỏng gan ruột của Trương Cự Oa, nói một hồi như
vậy, cậu ta lại bị thuyết phục.
Trương Cự Oa ôm mộng làm giàu, nghe Nhị lão đạo nói vậy, cậu ta lại liều ôm cuốc cầm đèn quyết tâm vào mộ cổ tìm báu vật.
Nhị lão đạo quay lại nói với tôi: "Lão huynh đệ, thằng đồ đệ của tôi
chẳng được tích sự gì, đành phải nhờ cả vào cậu. Cậu cũng biết từ cổ tới nay có ba giáo phái: Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo. Nho giáo thì bình
thường, Phật giáo thanh đạm khổ cực, duy có Đạo giáo là trường sinh bất
lão, biến hóa vô cùng và lanh lợi nhất. Đi tới đâu cũng khiến mọi người
phải ngước mắt nhìn. Thuật trường sinh bất lão tuy khó luyện thành nhưng sư phụ tôi cùng các đạo nhân đều dựa vào xem bói xem tướng, xem phong
thủy để kiếm sống. Tuy chưa đến mức giàu có nhưng không tới nỗi chết
đói. Có điều tới đời chúng tôi gặp lúc đất nước giải phóng, nhà nước chủ trương đẩy lùi tệ nạn mê tín dị đoan. Bát cơm từ nhiều đời tổ tiên để
lại, đến đời tôi thì không bị đạp đổ, tôi chẳng biết làm gì khác, không
đi đào trộm mộ thì biết làm gì? Ngày trước tôi hút thuốc phiện, giờ thì
thành đồ bỏ đi rồi, không thể chịu được cái lạnh dưới hầm mộ, nên đành
nhờ vào cậu hướng dẫn đồ đệ tôi vào mộ, nhờ cậu trong nom nó với."
Tôi nghĩ trong bụng: "Lão cáo già này khéo sai bảo người khác, tự
thân mình không vào mộ cổ, mấy việc nặng nhọc khó khăn này đều đùn hết
cho mình và Trương Cự Oa". Nhưng tôi là người ưa nhẹ chứ không ưa nặng,
thời buổi đó lại đang tuổi thanh niên hiếu thắng, biết là việc khó cũng
không muốn kiếm cớ thoái thác. Tôi nghe theo sự sắp xếp của Nhị lão đạo, bảo Trương Cự Oa mang túi da rắn, đeo găng tay, dây thừng, đèn pin, đèn bão và rìu.
Lúc này đã quá ngọ, chắc dưới hầm mộ đã có chút không khí tràn vào,
tôi và Trương Cự Oa đeo khẩu trang chuẩn bị đi xuống, Sách Ni Nhi vác
theo khẩu súng săn đòi đi theo vào hầm mộ, một phần cô lo tôi xảy ra
chuyện, một phần cũng do hiếu kỳ, càng sợ càng muốn đi, nói cho cùng cô
vẫn là kẻ to gan, vác theo súng săn tuy không dọa được người chết, nhưng cũng đủ để người sống thêm phần vững dạ.
Tôi không muốn để Sách Ni Nhi xuống mộ, tuy tôi không tin âm hồn
người chết vẫn còn trong mộ, nhưng những hiểm họa như cát rơi đá đổ thì
luôn rình rập, thời gian lưu thông không khí cũng chưa lâu, chưa biết
chừng xuống đó lại chết ngạt, đường hầm thì có thể sập xuống bất cứ lúc
nào. Nhưng Sách Ni Nhi một mực đòi theo, tôi đành phải để cô đi theo và
bắt phải đi sát phía sau tôi, không được đi lên phía trước.
Lần này trước khi xuống đường hầm, Nhị lão đạo đưa cho tôi một cây
hương, dặn kỹ chúng tôi phải hành động nhanh chóng, trước khi que hương
cháy hết phải trở lại mặt đất. Tôi hỏi lại tại sao phải vậy, thì lão ta
chỉ ậm ừ trả lời rằng ở dưới lâu sợ xảy ra biến cố.
Trương Cự Oa cầm rìu và đèn bão đi trước, tôi cùng Sách Ni Nhi cầm
đèn pin đi sau, ba người thả dây thừng xuống đường hầm, lần mò vào tới
cửa mộ theo đường cũ. Hầm mộ được đào bên dưới đồi đất, chia thành tiền, trung, hậu ba gian mộ thất. Tiền thất nhỏ hẹp, chỉ cách cửa mộ khoảng
năm bước chân, trên bức tường đối diện cửa mộ vẽ hình một con mãnh hổ
đang nhe nanh giương vuốt, đây là linh thú trấn mộ tránh tà, phần lớn
màu sắc đã bị bay mất khi mở cửa mộ, bức tranh giờ có mày tối sậm nhưng
vẫn nhìn rõ hình ảnh con vật gầm gừ hung dữ. Những bức bích họa phía
trong bay màu không nghiêm trọng lắm, chúng tôi quét đèn pin một lượt,
chỉ thấy màu tranh vẫn tươi tắn như mới, trên đó vẽ người, vật, hoa cỏ,
cung điện, núi non, còn có quần thần ca hát tiệc tùng, nét vẽ điêu
luyện, có phong cách của hội họa đời Đường. Ở giữa nơi này, tôi thấy
mình như đi lạc vào một phòng tranh nghìn năm tuổi.
6
Diện tích tiền thất không lớn nhưng rộng hơn nhiều so với đường hầm.
Bốn bề đều được xây bằng gạch. Mới bước vào trong, ánh sáng chiếc đèn
bão đã giảm đi, đèn pin cũng không chiếu sáng được xa, mùi ẩm mốc vẫn
nồng nặc kèm thêm mùi tanh khó chịu của đất. Chúng tôi sợ bị ngạt nên
không dám đi quá nhanh.
Vừa đi vào, chúng tôi đã nhìn thấy bức bích họa ác thú gác cổng, hai
bên và phía trên đầu có họa tiết hạc tiên và mây vờn, hai bên có bốn
tượng đất quay mặt vào nhau trong tư thế nửa quỳ nửa ngồi, xem ra đây là hình ảnh của lính thị vệ, người nào người nấy mắt to mày rậm, tóc dài
ngang vai, trên mình mặc áo dài cổ tròn có hoa, chân đi hài, thắt dây
lưng, tay cầm búa dài. Họa tiết hoa trên áo, trên búa và hài đều được
dát vàng.
Thấy Trương Cự Oa đang cạo lớp vàng bên ngoài, tôi liền nói: "Nhị lão đạo dặn rồi, lấy năm món bảo vật ở hậu thất là được, đồ tùy táng ở ngôi mộ này quá nhiều, đến vàng dát mà cậu cũng lấy thì cạy ba ngày ba đêm
cũng không hết đâu."
Trương Cự Oa tuy hoa hết cả mắt nhưng vẫn gật đầu nói: "Vâng, em nghe anh. Anh này, mấy ông tượng gốm này sao không cầm dao quăm mà lại cầm
vũ khí hao hao giống búa thế nhỉ, liệu có dùng được không?"
Tôi nói: "Cậu thì biết gì, không phải búa, mà là kim trảo, trước ngự
giá không được dùng đao, nên chỉ có thể dùng kim trảo, Hoàng thượng thấy ai chướng mắt liền lệnh cho thị vệ lôi ra ngoài điện dùng kim trảo
"kích đỉnh", có nghĩa là đè phạm nhân xuống dưới đất, dùng búa dài này
gõ mạnh vào đầu, như là bổ dưa hấu ấy."
Trương Cự Oa nói: "Anh giỏi thật đấy, chuyện này mà cũng biết."
Sách Ni Nhi nói: "Hình như em có nghe ông nội nói, cái này gọi là cốt đóa..."
Thực ra thì Sách Ni Nhi nói không sai, vũ khí mà võ sỹ trong mộ Liêu
cầm chính là cốt đóa. Từ rất lâu rồi, nó là binh khí của người Khiết
Đan, cũng là binh khí của đội quân tự vệ. Lúc đó tôi cũng không biết nó
là binh khí gì, chỉ tiện mồm nói vậy thôi. Tôi giải thích với Sách Ni
Nhi rằng cốt đóa và kim trảo không khác gì nhau, chỉ là cách gọi của
Quan Nội và Quan Ngoại không giống nhau mà thôi.
Trung thất là một hầm mộ xây dựng theo thuyết trời tròn đất vuông
trần vòm, diện tích bằng bốn gian nhà dân, tường cao khoảng ba bốn mét,
đèn pin không thể chiếu sáng đến điểm tận cùng, hai bên mỗi bên có một
gian nhĩ thất[3], góc tường là những chiếc cột xây bằng gạch, trên tường vẽ những bức tranh đen trắng và tranh màu trên nền đỏ, trên trần mộ và
bốn phía xung quanh bức tường là một bức tranh hoàn chỉnh, màu sắc vẫn
còn tươi tắn, hình ảnh sinh động như thật.
[3] Nhĩ thất: là gian phòng nhỏ nằm ở hai cạnh gian chính.
Trần mộ tô màu xanh lam điểm xuyết những ngôi sao màu trắng, phía
đông nam vẽ vầng mặt trời đỏ au, bên trong có con chim vàng ba chân,
phía tây nam vẽ vầng trăng sáng vằng vặc, trong cung trăng có cây đa và
thỏ ngọc, không gian thăm thẳm, trời thăng trăng giáng, toàn cảnh bức
tranh khiến người ta có cảm giác như thỏ đang chạy, chim đang bay, thời
gian đang trôi chảy như ánh sáng, và cuộc sống đang được hồi sinh. Tôi
ngẩng đầu nhìn trần ngôi mộ cổ nghìn năm tuổi, vừa xem tim vừa đập thình thịch, Sách Ni Nhi và Trương Cự Oa cũng tròn mắt kinh ngạc đứng.
Tôi nghĩ thầm: "Cô gái Khiết Đan này cũng biết hưởng thụ thật đấy,
chết rồi mà vẫn còn được ngắm những bức tranh đẹp như trong truyện cổ
tích thế này". Vừa nghĩ, tôi vừa lia ánh đèn pin sang phía bức tường,
tiền gần lại xem thì thấy những bức bích họa trong ngôi mộ cổ này được
sắp xếp theo lớp lang, miêu tả lại cuộc sống của chủ nhân khi còn sống,
những buổi ca hát tiệc tùng trong hoàng cung, những buổi tế lễ thần,
những buổi cưỡi ngựa săn bắn trong rừng, đội quan thị vệ uy nghiêm trong bộ áo giáp lấp lánh, người hầu quỳ dưới chân kính cẩn dâng rượu thịt,
lính dắt ngựa nghiêm trang trong tư thế sẵn sàng đợi lệnh xuất hành của
chủ nhân. Bên gian nhĩ thất chất đầy các loại bát bằng mã não, thủy
tinh, bát đĩa sứ tráng men trắng, men xanh, bình vàng hũ bạc, yên ngựa
khảm ngọc dát vàng. Chỉ cần lau lớp bụi dày bên ngoài đi, là vàng ròng,
bạc trắng, mã não đỏ hiện ra chói lóa cả mắt. Những ngôi mộ bình thường
không thể nào so sánh nổi. Dù đã cách hàng nghìn năm, nhưng nhìn vào
những đồ tùy táng này cũng đủ biết được cuộc sống, sa hoa, cơm vàng áo
bạc, người hầu kẻ hạ của chủ nhân ngôi mộ.
Trương Cự Oa nói: "So với chủ nhân ngôi mộ này thì mình đúng là lãng
phí đời, sao người ta lại có cuộc sống sa hoa như vậy được chứ?"
Tôi nói: "Sư phụ cậu nói một câu rất chuẩn, số đã đểu còn biết trách ai, có trách thì trách mộ tổ nhà cậu không mọc được cỏ."
Sách Ni Nhi hỏi: "Toàn những thứ sinh không mang đến chết không mang
đi, cần nhiều thế để làm gì? Công chúa Mang Cổ lúc sống có bao kẻ hầu
người hạ, của cải chất đống, nhưng chẳng phải vẫn chết trẻ đấy thôi."
Tôi hỏi lại: "Sao em biết cô gái Khiết Đan chết trẻ?"
Sách Ni Nhi trả lời: "Có gì lạ đâu, nữ thần Saman Mang Cổ chết lúc
ngoài hai mươi tuổi, nếu hỏi mộ nàng ở đâu thì không ai biết, nhưng nhắc tới tên của nàng thì lớp người trước của giáo phái Saman ai cũng rõ.
Truyền thuyết nói rằng, nữ thần Mang Cổ có thể nói chuyện với quỷ thần,
mắt của nàng có thể nhìn xa ngàn dặm, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng
thành, thế gian hiếm có."
Tôi nói: "Cô gái Khiết Đan này lúc sống xinh đẹp đến đâu chúng ta
không ai biết, vì hồi đó chưa có máy ảnh, nhưng trên những bức bích họa
kia chắc phải khắc họa lại dung nhan của chủ nhân ngôi mộ."
Tôi muốn tìm tranh chân dung nữ thần Saman trong số những bức bích
họa kia, có điều nhiều bức họa như vậy nhưng hoàn toàn không có tranh
chủ nhân ngôi mộ. Tôi biết, thi thể cô gái không nằm ở hậu thất mà nằm
trong hầm mộ âm u lạnh lẽo này và đang theo dõi mỗi hành động của ba
chúng tôi từ đầu đến cuối.
7
Tôi nói với Trương Cự Oa và Sách Ni Nhi là chúng tôi đã ở rất gần thi thể cô gái Khiết Đan, chủ nhân ngôi mộ được đặt ở chính nơi này.
Trương Cự Oa thắc mắc: "Sao chủ nhân ngôi mộ lại không ở hậu thất hả anh?"
Tôi nói: "Cậu theo Nhị lão đạo làm đồ đệ bao lâu thành công cốc à?
Hậu thất thường chỉ dùng để bia đá, chủ nhân ngôi mộ đương nhiên phải ở
gian chính thất rồi."
Sách Ni Nhi nghe tôi nói thi thể cô gái Khiết Đan ở ngay đây thì sợ
hết hồn, trách tôi sao không nói sớm. Những truyền thuyết về nữ thần
Saman nước Liêu lưu truyền rộng rãi khắp vùng Đông Bắc, giáo phái Saman
ngày nay chỉ còn biết thuật trừ tà. Nghe nói thời xưa họ thông thạo mọi
pháp thuật thần thông. Sách Ni Nhị nghe quá nhiều những truyền kỳ về họ
từ các bậc tiền bối, nên giờ sợ thì sợ nhưng vẫn muốn xem hình dạng của
cô gái Khiết Đan kia như thế nào.
Càng đi sâu vào trong, ánh đèn bão càng tối, chúng tôi hít thở cũng
thấy khó khăn hơn, hơi thở bắt đầu trở nên gấp gáp, mồ hôi túa ra đầy
lòng bàn tay. Chúng tôi tiếp tục tiến lên, phía trước mờ mờ ảo ảo hiện
ra hình ảnh một chiến giường bằng đá kê sát chân tường, cao đến lưng
người bình thường, chạm khắc thành hình đầu rồng mình cá, đó là một
chiếc giường đá hình cá Ma Kết, có điều chỉ có chiếc giường đá chứ không có quan tài, thi thể cô gái nằm nghiêng trên chiếc giường đá đó. Phong
tục mai táng của người Khiết Đan khác với vùng Quan Nội. Người Saman cổ
tin vào thuyết thông linh, khi mai táng kiêng dùng quan tài. Điều này
tôi cũng được nghe lão Nghĩa mù kể lại. Tôi tiến lên vài bước để xem cho rõ hơn, Sách Ni Nhi nấp phía sau tôi và Trương Cự Oa, cố rướn người xem ra chúng tôi gần như nín thở, quan sát mọi thứ trước mắt dưới ánh sáng
lờ mờ của chiếc đèn pin.
Phía dưới chiếc giường đá vẽ hình một nam hai nữ, hình thức và thần
thái đều rất sinh động, hai cô gái mặc váy cung nữ màu xanh, một người
cầm quạt lông vẹt trắng, một người cầm chậu vàng, bên cạnh còn có một cụ già trong trang phục Saman, đầu quàng khăn voan màu đen, khuôn mặt hơi
gầy, mũi cao mắt sâu, để râu dài, hai tay chắp phía trước cung kính, vẻ
mặt trang nghiêm khiến người nhìn phải nể sợ. Phía trước giường đá có ba thi thể đã khô quắt, cũng là hai nữ một nam, trang phục giống như hình
vẽ trong tranh, trên thi thể chi chit những nốt đen.
Ba người này hẳn là người tùy táng, trên giường đá có vẽ hình dạng
của ba người này cho thấy họ là người hầu thân cận của chủ nhân ngôi mộ. Người sống bị bắt uống thủy ngân rồi tùy táng, thì khi chết cơ thể mới
có nhiều nốt chấm đen như vậy, thủy ngân giúp thi thể bảo tồn được nhiều năm mà không bị phân hủy.
Nhìn lại cô gái nằm nghiêng trên giường đá, cô gái Khiết Đan được đeo mặt nạ vàng, hai bím tóc tết phía sau đầu, bên trên còn cài trâm bằng
vàng, cô gái gối đầu trên một chiếc gối hình thú, lưng đeo đai cài khuy
Như Ý, tay đeo găng, chân đi hài thêu kim tuyến, cổ tay đeo một đôi vòng vàng hình đầu rồng, tai đeo hoa tai bằng đá quý, ngón tay đeo nhẫn
vàng, bên hông đeo hai chiếc đao có cán làm bằng ngọc, trước ngực đeo
chiếc vòng hổ phách lớn, kết bằng hàng trăm viên hổ phách và ngọc trai,
toàn thân mặc chiếc áo dệt bằng sợi bạc, tay ôm một chiếc hộp bằng vàng
có trang trí mã não. Mặt nạ vàng hẳn được làm mô phỏng lại diện mạo của
cô gái khi còn sống, dùng những lát vàng mỏng dát thành, dù sao thì đó
cũng không phải là khuôn mặt của người sống, nó chỉ là một chiếc mặt nạ
lạnh lẽo suốt hơn nghìn năm, khi phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh
tiếp xúc với ánh đèn pin nhưng trong ngôi mộ lạnh lẽo này, tôi không hề
cảm nhận được vẻ đẹp hay vẻ đoan trang của cô gái, mà chỉ thấy nó thật
kỳ dị.
Tôi nghĩ bụng, chẳng trách người ta ví xác chết trong các ngôi mộ cổ
là "bánh chưng", cứ bao bọc từ trong ra ngoài tầng tầng lớp lớp như vậy
làm sao mà xem diện mạo trước đây được.
Trương Cự Oa nhìn thi thể cô gái Khiết Đan một lúc thì hỏi tôi: "Anh
à, cứ nhìn mãi thế này khiếp lắm. Em nói rồi mà, cô gái Khiết Đan này
làm sao mà đẹp bằng chị em được."
Sách Ni Nhi không hiểu gì, hỏi lại Trương Cự Oa: "Cậu vừa nói gì thế?"
Trương Cự Oa giải thích: "Anh bảo, chị với cô gái Khiết Đan kia tướng mạo như nhau, nhưng em nghĩ xác chết kia làm sao đẹp bằng chị được...."
Sách Ni Nhi nghe vậy nổi cáu, véo tai tôi đay nghiến: "Anh dám so sánh em với người chết à?"
Tôi đau đến thở hắt ra, vội phân bua với Sách Ni Nhi: "Em đừng tin
mồm thằng Oa, chắc nó lại nằm mơ, rồi tưởng là thật đấy", nói rồi quay
sang liếc xéo Trương Cự Oa một cái. Tôi hỏi: "Phía sau chiếc mặt nạ kia
là chân dung cô gái Khiết Đan, mọi người có dám xem không?"
Sách Ni Nhi sợ hãi phản đối ngay: "Không cần... đừng xem, mặt người chết... có gì đáng xem đâu."
Tôi nói, Nhị lão đạo đã dặn rồi, không cần lấy đồ tùy táng gì khác vì bảo vật đích thực đều nằm trên người cô gái Khiết Đan kia, chỉ cần lấy
chiếc hộp mã não khảm vàng trong tay cô gái, chuỗi vòng cổ mã não, chiếc mặt nạ vàng, ba thứ này là đủ. Đặc biệt là chiếc mặt nạ vàng có chạm
trổ hình long phượng rất tinh vi, lại có hình dạng khuôn mặt của cô gái
Khiết Đan khi còn sống, nên không có món đồ nào có giá trị bằng nó cả.
Sách Ni Nhi nói: "Nhị lão đạo nói thì hay, sao ông ta không xuống đây mà tháo chiếc mặt nạ từ trên người cô gái Khiết Đan kia xuống?"
Trương Cự Oa nói: "Sư phục em không dám xuống đâu, nếu xuống chỉ có nước chết."
8
Tôi hỏi lại Trương Cự Oa: "Cậu nói thế nghĩa là sao? Sao lão đạo tặc kia xuống mộ lại chết?"
Trương Cự Oa kể cho tôi và Sách Ni Nhi biết, tổ tiên Nhị lão đạo năm
xưa xem phong thủy cho ngôi mộ này đã thề độc rằng, ông và hậu thế của
ông không được đến đào trộm mộ, nếu không sẽ bị chết.
Tôi hỏi lại: "Cậu là đồ đệ của Nhị lão đạo, ông ta sợ chết, cậu không sợ chết à?"
Trương Cự Oa ngẩn người ra, rồi kinh hãi kêu lên: "Ối! Em còn chưa nghĩ tới điều này!"
Tôi hỏi lại cậu ta: "Nhị lão đạo đã dạy cậu những thứ gì rồi?"
Trương Cự Oa nói: "Nhiều lắm, đạo trưởng dạy em, đào trộm mộ khởi
nguồn từ lưu vực Hoàng Hà, phát triển trong dân gian, sau đó còn đưa vào cả trong kịch của người Đông Bắc, thông thường do nhóm hai người cùng
làm việc..."
Tôi mới nghe là đã biết, Nhị lão đạo là tên gian xảo, ông ta chẳng
dạy gì cho Trương Cự Oa cả, mấy thứ này cũng chỉ có thằng ngốc như
Trương Cự Oa mới tin thôi.
Trương Cự Oa ít tiếp xúc với xã hội, nhìn thấy vàng bạc châu báu trên cơ thể cô gái Khiết Đan thì nổi lòng tham, chẳng còn biết sợ là gì nữa
liền giục tôi soi đèn cho cậu ta lấy đồ, cậu ta còn quỳ trước cô gái vái lạy, khấn: "Em gái, em chết rồi giữ mấy thứ này cũng chẳng để làm gì,
thôi thì chia cho bọn anh một ít, coi như tích đức, anh đây xin đắc
tội."
Trương Cự Oa niệm vài câu cho vững dạ, rồi giơ tay lấy những báu vật
trên thi thể cô gái, vì vướng ba cái xác khô nằm phía trước giường đá,
nên cho dù Trương Cự Oa cao to, tay dài thì cũng không thể với xa được,
cậu ta đành dời ba xác chết sang một bên, người chết do uống thủy ngân
sẽ rất nặng dù đã bị khô đét, Trương Cự Oa di chuyển hết sức chật vật.
Sách Ni Nhi cầm đèn bão và súng săn đi sát phía sau tôi, tôi cắm que
hương mà Nhị lão đạo đưa cho vào khe gạch trên tường, cầm sẵn túi da
rắn, soi đèn pin cho Trương Cự Oa. Lúc này, thời gian không khí lưu
thông trong hầm đã khá lâu, nên phạm vi chiếu sáng của ánh đèn đã được
mở rộng, có thể nhìn thấy bức tranh phía sau thi thể cô gái Khiết Đan.
Đó là một bức bích họa, có điều nội dung hết sức kỳ lạ, khiến cho người
xem khó lòng lý giải.
Phần trên bức bích họa hình ảnh sói đang ăn mặt trăng, vầng trăng to
tròn bị biến thành màu đen, hơn nữa lại to đến kỳ lạ khiến người xem sởn gai ốc, cảm tưởng chỉ cần nhìn thêm chút nữa sẽ bị hút vào bên trong.
Góc trái vẽ hình con sói đói với bộ dạng to xù và hung ác. Theo quan
niệm mê tín của người Trung Nguyên xưa, nguyệt thực là hiện tượng thiên
cẩu ăn mặt trăng, còn người Liêu thì cho rằng là thiên lang; tức sói
trời ăn mặt trăng. Cả hai cách nói này đều ám chỉ tới cùng một hiện
tương. Nửa dưới bức bích họa vẽ một ngọn núi to, trong lòng núi có một
chiếc quan tài bằng gỗ, bên ngoài quấn mấy vòng xích sắt, xung quanh có
mười mấy bức tượng bằng vàng. Phía ngoài ngọn núi có rất nhiều người với những khuôn mặt vô cảm, nam nữ lớn nhỏ đều có, không biết là còn sống
hay đã chết, tất cả đều nằm ở phía dưới vầng mặt trăng đen kia.
Trương Cự Oa chỉ chăm chăm lấy vàng bạc châu báu, còn tôi và Sách Ni
Nhi thì bị bức tranh hút hồn. Các bức vẽ trong ngôi mộ này phần lớn là
tranh tả thực, duy có bức họa này hết sức cổ quái, lại được đặt ở vị trí phía sau nữ thần, nó mang ý nghĩa vô cùng rõ ràng.
Tôi nhìn chăm chú một lúc, vẫn không nghĩ ra bức tranh này có ý gì, chỉ thấy thật khó hiểu.
Sách Ni Nhi lẩm bẩm một mình: "Bức họa này cứ như là giấc mơ của cô gái Khiết Đan."
Tôi nghe vậy bất giác sững người, Sách Ni Nhi đã nói trúng điểm trọng yếu, thi thể cô gái Khiết Đan được đeo mặt nạ vàng, nằm nghiêng trên
giường đá, phía sau lưng là bức tranh, nó giống như đang thể hiện giấc
mơ của chủ nhân ngôi mộ lúc còn sống, khiến người ta cảm thấy cô gái
Khiết Đan này chưa chết, chỉ nằm ngủ một giấc dài miên man trong ngôi mộ âm u lạnh lẽo này. Nếu là một giấc mơ, thì đây quả là một giấc mơ rất
kỳ dị.
Tôi nói với Sách Ni Nhi: "Không chừng em đoán đúng đấy. Người xưa hay mê tín, nghĩ rằng nằm mộng có thể gặp được thần linh, hơn nữa trái lành phải hung. Cô gái Khiết Đan khi còn sống thuộc dòng dõi hoàng tộc, lại
là nữ thần Saman, khi còn sống chắc đã mơ một giấc mơ khiến cô không thể nào quên, giấc mơ này có thể rất quan trọng, nên cho đến lúc chết cô
vẫn dặn dò mọi người vẽ lại bức tranh ấy trong hầm mộ của mình."
Sách Ni Nhi nhìn vào bức tranh rùng mình: "Đây là một cơn ác mộng không thể nào lý giải được..."
Trương Cự Oa lên tiếng: "Mọi người đừng nhìn mãi bức bích họa đó nữa, giấc mơ trước đây của người đã chết thì liên quan gì tới chúng ta, mau
lại giúp em một tay."
Tôi quay lại thấy Trương Cự Oa đang giơ hai cánh tay run cầm cập ra
phía trước, chuẩn bị nâng đầu cỗ thi thể để lấy chiếc vòng cổ hổ phách.
Hai tay cậu ta đang bận ôm lấy đầu cô gái, nên không còn cách nào để lấy chiếc vòng.
Tôi nói với Trương Cự Oa: "Cô gái Khiết Đan là nữ thần Saman, lại là
công chúa nước Liêu, thằng nghèo kiết xác như cậu lấy tư cách gì mà đòi
ôm cô ấy hả?"
Trương Cự Oa giọng run run: "Ôi anh ơi, anh đừng dọa em, em sợ sắp
đái cả ra quần rồi đây này, may mà lần này em mang theo hai cái quần."
Tôi thấy Trương Cự Oa đã sợ lắm rồi, đành không quan sát bức bích họa nữa, tắt đèn pin treo vào dây lưng, gọi Sách Ni Nhi cầm đèn tiến đến
gần tháo chiếc vòng cổ trên thi thể cô gái ra, chiếc vòng rất nặng, tôi
thuận tay cho luôn vào chiếc túi da rắn, nghĩ bụng: "Nhị lão đạo phen
này đúng là vớ được món bở."
Trương Cự Oa rón rén hạ đầu cô gái Khiết Đan xuống, biết rõ đây là
người chết, nhưng nhìn thấy ánh sáng phát ra từ chiếc mặt nạ vàng, cậu
ta có cảm giác chỉ cần hơi manh động là thi thể cô gái Khiết Đan này sẽ
ngồi bật dậy, nên đến thở cũng không dám thở mạnh.
Sau chiếc vòng hổ phách, chúng tôi phải gỡ chiếc mặt nạ trên mặt xác
chết. Tôi không thể tưởng tượng được bên dưới chiếc mặt nạ kia là khuôn
mặt như thế nào, cô gái Khiết Đan đã chết hơn nghìn năm, cũng bị đổ thủy ngân, sẽ là xác chết khô đét trên người đầy nốt đen như ba người tùy
táng kia ư? Hay vẫn giữ được dung mạo như khi còn sống?
9
Thường ngày, Sách Ni Nhi nghe nhiều lời đồn về nữ thần Saman, giờ
thấy chúng tôi chuẩn bị lấy mặt nạ thì sợ quá bịt hai mắt lại không dám
nhìn mặt xác chết.
Trương Cự Oa nói: "Chị đừng nhắm mắt đấy! Nhỡ bóp cò trúng em và anh thì bọn em thành ma chết oan."
Tôi trấn an Sách Ni Nhi đừng sợ, khuôn mặt cô gái Khiết Đan không
đáng sợ hơn ba xác chết dưới đất kia đâu. Theo lý thuyết thì bên dưới
chiếc mặt nạ kia chỉ là một bộ xương khô, công chúa Mang Cổ có vẻ đẹp
nghiêng nước nghiêng thành, cô rất yêu quý nhan sắc của mình, nên mới
uống thủy ngân để mong thi thể không bị phân hủy, nhưng người chết và
người sống hoàn toàn khác nhau. Trước đây, cũng chỉ có người hầu tùy
táng thì uống thủy ngân để chống phân hủy, ngôi mộ cổ này lại không có
quan quách gì, cô gái Khiết Đan đã chết hàng nghìn năm, bảo vệ tốt đến
mấy cũng chỉ là một bộ xương khô. Trên người được bọc nhiều lớp vải, đeo mặt nạ vàng, nằm trên giường đá trông có vẻ như một người bình thường
thôi, chứ phía dưới lớp áo liệm và chiếc mặt nạ đó có khi không có gì
ngoài bộ xương khô cả.
Sách Ni Nhi lại cho rằng nữ thần Saman không như những người bình
thường khác, ít ra thì mái tóc của người chết vẫn đen dài, chỉ không
được mượt như người sống mà thôi.
Nghe Sách Ni Nhi nói như vậy, Trương Cự Oa cũng không có gan mở mặt
nạ vàng ra nữa, cậu ta với tay lấy mấy thứ trang sức bằng vàng và chiếc
dao bạc có cán bằng hổ phách, đưa tất cho tôi bỏ vào túi da rắn, rồi gỡ
cánh tay cô gái ra để lấy chiếc hộp vàng khảm mã não, chiếc hộp dài
khoảng một thước.
Tôi mở ra xem, bên trong có ba ngăn, ngăn đầu tiên chỉ để vài chiếc xương thú.
Sách Ni Nhi nói: "Em biết cái này, đây là Shagai của Mang Cổ."
Tôi nghe kể, ở vùng Đông Bắc, các cô gái thích đeo một loại trang sức làm bằng xương thú, gọi là "Shagai", người Quan Nội quen gọi nó là
"Dương quải". Người Quan Ngoại sử dụng xương đầu gối của lợn, còn người
Quan Nội thì dùng xương đầu gối của dê, nhưng đều không phải thứ tôi
đang cầm trên tay, cái này chắc có niên đại rất lâu đời, bề mặt sáng
bóng như ngọc, bên trên có khắc ký hiệu những lá bùa, các mặt đều có
đường viền đỏ, đen, xanh, trắng. Có thể là người Saman xưa dùng để bói
quẻ hung cát. Hai ngăn còn lại của chiếc hộp đựng vòng ngọc và một viên
ngọc trai to như mắt rồng. Tôi không biết vòng ngọc trị giá bao nhiêu,
nhưng nhìn viên ngọc trai phát ra ánh sáng kỳ lạ dưới ánh đèn như muốn
át hẳn ánh sáng của ngọn đèn bão thì biết giá trị của nói đúng là liên
thành, thậm chí thông qua ánh sáng rực rỡ của viên ngọc có thể nhìn rõ
được từng sợi tóc của cô gái Khiết Đan. Tôi nhớ đến lời lão Nghĩa mù,
làm nghề đổ đấu thì không được nổi lòng tham, phàm việc gì cũng không
được làm thái quá, vòng hổ phách, đao ngọc, hộp vàng đều là những thứ
bên ngoài, lấy cũng không sao, còn mặt nạ vàng và chiếc gối ngọc thì tốt nhất là không nên lấy.
Tôi định gọi Trương Cự Oa dừng tay, thì nghe thấy Sách Ni Nhi kêu lên: "Sao em thấy bức bích họa có gì đó khác với vừa này".
Tôi bỏ chiếc hộp vàng vào túi da rắn, nhìn lên bức bích họa phía sau
thi thể cô gái, quan sát một lúc lâu vẫn có cảm giác sắp bị vầng trăng
đen hút vào bên trong, nhưng không nhận ra bức tranh có gì thay đổi, nói chung nhìn vào bức tranh đó chỉ thấy một màu đen ngòm.
Lúc này, que hương cũng đã cháy gần hết, tôi cứ nghĩ que hương sẽ
cháy được khoảng một tiếng, ai ngờ chỉ được hai mươi phút, tôi vội giục
Trương Cự Oa: "Được rồi đấy, cậu không dám lấy chiếc mặt nạ thì chúng ta quay ra thôi, chỗ này không thể ở lâu."
Ban đầu, Trương Cự Oa rất sợ hãi, nhưng khi đã lấy được vài món trang sức trên người cô gái Khiết Đan mà không thấy có chuyện gì xảy ra thì
to gan hơn, cậu ta lấy hết món này đến món khác, vì dù sao lấy một ít
cũng là lấy mà lấy tất thì cũng là lấy, bây giờ không lấy sau này lại
hối hận, nghĩ tới nghĩ lui cậu ta vẫn muốn gỡ chiếc mặt nạ vàng xuống.
Chiếc mặt nạ có một khuy cài phía sau đầu, Trương Cự Oa dùng tay nhấc
đầu thi thể cô gái Khiết Đan lên để tháo chiếc khuy phía sau ra, lóng
nga lóng ngóng toát cả mồ hôi mà vẫn không tháo ra được. Lúc này, que
hương đã hoàn toàn cháy hết.
Tôi không hiểu vì sao Nhị lão đạo lại dặn dò phải ra ngoài trước khi
que hương cháy hết, nhưng tôi bỗng có cảm giác bất an, vội lôi Trương Cự Oa: "Đừng lấy mặt nạ nữa, đi thôi."
Trương Cự Oa vẫn tiếc rẻ chưa nỡ buông tay, chiếc mặt nạ đã bị cậu ta lôi tuột ra. Lúc đó tôi và Sách Ni Nhi đứng phía sau, lại chỉ có mỗi
ngọn đèn bão chiếu sáng nên không nhìn thấy mặt cô gái Khiết Đan, cũng
không biết Trương Cự Oa nhìn thấy gì, chỉ nghe thấy cậu ta thét lên: "Ối trời ơi, khiếp quá!" vừa kêu lên thảng thốt, cậu ta vừa nhảy lùi ra
sau.
Dưới ánh đèn bão chập chờn, chúng tôi nhìn thấy diện mạo cô gái Khiết Đan, vị nữ thần Saman có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành giờ cũng
chỉ là cái xác khô như vỏ cây, hai hốc mắt và miệng sâu hoắm như ba cái
hố đen sì, trông khủng khiếp chẳng khác gì vầng trăng đen trên bức bích
họa.
Cô gái Khiết Đan có thể lúc còn sống bị cơn ác mộng đó giày vò nên
khi chết rất đau khổ, chẳng trách khiến cho Trương Cự Oa sợ chết khiếp.
Tôi nhìn mà còn dựng hết tóc gáy, nói với Trương Cự Oa: "Bảo cậu đừng có gỡ mặt nạ thì không nghe, giờ sợ rồi chứ gì?", nhưng quay đầu lại thì
không thấy Trương Cự Oa đâu nữa, nếu cậu ta bỏ chạy ra ngoài không lẽ
tôi không nghe thấy tiếng bước chân? Người sống sờ sờ ra vậy sao lại tự
nhiên mất tích được.
Sách Ni Nhi cũng hoảng hốt: "Anh ấy đâu rồi? Chuồn rồi à?"
Tôi nghĩ Trương Cự Oa không thể nào nhanh chân như vậy được, không
biết phải trả lời Sách Ni Nhi ra sao, đành bấm đèn pin tìm xung quanh.
Tôi giật bắn mình khi nhìn Trương Cự Oa đang bị bức bích họa cổ ăn thịt.