Ma Kiếm Lục

Chương 183: Chương 183: Sanh sanh tương thác, Thiên Nhai Hải Giác bỉ ngạn hoa






Trên đời này có một loại hoa gọi là Bỉ Ngạn Hoa, hoa chỉ nở vào đúng tiết thu phân, hoa nở thì lá biến mất, có lá thì hoa tàn lụi, hoa lá không bao giờ cùng hiện, đời đời chia cắt.

Những tuyệt vọng không chỉ giới hạn trong phạm vi con người, thậm chí cả hoa cũng bi khổ như vậy, hoa lá không cùng hiện, điều lầm lỡ ấy của Bỉ Ngạn Hoa, lẽ ra là nỗi di hận, dường như cười nhạo cả cõi đời.

Liễu Dật lúc đó đề thăng chân nguyên đến mức tối cường, triệu hoán bốn con thần long rồi nói với Thất Nguyệt: “Đến gần nó đi, vị trí lúc nãy là tốt nhất, huynh sẽ chém thẳng xuống, muội cố khống chế phương hướng sao cho một kiếm này đúng vào vết thương của nó.” Chàng không nắm chắc một kiếm này có thể thu phục được quái vật, để chắc ăn chàng chỉ định bằng nhất kích khiến nó bị thương nặng hơn.

Thất Nguyệt tận lực khống chế âm thanh do kiếm phát ra, càng đến gần quái thú, trở lực càng lớn, trong mồm quái thú có vật gì đó đang tụ tập, bạch quang mỗi lúc một sáng đến nỗi Liễu Dật cũng cảm nhận được, cuồng phong không ngừng ngăn cản hai người tiến lên.

Một trượng, hai trượng, ba trượng…cự li giữa dần rút ngắn lại, Thất Nguyệt dường như không chịu nổi cuồng phong mãnh liệt, bắt đầu lắc lư, nhưng nàng không dừng lại, nàng biết trận chiến này không thắng tất vong, nhất thiết phải nỗ lực đến cùng.

Sau một lúc loay hoay với cuồng phong xô đẩy, cuối cùng nàng cũng giữ được thăng bằng, điều chỉnh phương hướng, lái thân thể Liễu Dật hướng vào vết thương lúc trước thật chuẩn xác rồi nói với chàng: “Được rồi, hiện giờ vết thương lúc trước đang ở trước mặt huynh.”

Bằng cảm giác, Liễu Dật phân biệt được phương hướng quái vật đang chảy máu, xác định xong chàng quát lớn: “Vô Thức.” Bốn đạo long ảnh lóe lên, hồng quang xuất hiện trực tiếp chém vào vết thương của quái vật. Quang mang nương theo bốn đạo long ảnh, nối liền với biển trời thành một màu.

Một tiếng kêu chói lói phảng phất như từ địa ngục sâu thẳm bật lên, tuy Liễu Dật không nhìn thấy nhưng có thể cảm giác được sóng biển ở xung quanh như sôi sục, cuồng phong liên tục tăng thêm áp lực, chàng biết mình đã làm nó bị thương, còn có tạo thành công kích trí mệnh hay không thì không xác định được.

Thất Nguyệt nắm lấy vai chàng: “Quái thú có vẻ rất đau đớn.”

Đôi nhục sí của quái thú đập liên hồi xuống mặt biển, toàn thân phát ra bạch quang, tựa hồ muốn lật ngửa, vết thương như muốn chẻ nó ra làm đôi, dịch thể màu lục thành dòng chảy xuống mặt biển hòa hợp thành một màu, nhưng nó không chết.

Thình lình, Thất Nguyệt hét lên: “Không ổn.”

Cái mồm rộng hoác của quái vật há ra, một quả cầu tròn to lớn màu trắng xuất hiện, quả cầu lớn bằng 1/4 thân thể Liễu Dật, ở giữa lấp lánh quang hoa, xung quanh có tia lửa điện ràng rịt. Lúc đó Liễu Dật cảm giác được sức mạnh khủng khiếp, quả cầu trắng chiếu sáng cả thế giới tối tăm của chàng.

Chàng nói: “Nhanh quay lại.”

Nhưng tất cả đã muộn, quái thú vừa lăn lộn thì quả cầu trắng xạ vút tới, luồng đại lực khiến hai người không thể đứng vững, năng lượng của viên cầu ập đến, nhấn chìm triệt để cả hai trong luồng bạch quang. Liễu Dật và Thất Nguyệt cảm thấy thân thể liên tục bị đẩy lùi một cách nhanh chóng, điện hoa như từng lưỡi kiếm sắc găm vào thân mình. Trong chớp mắt, nỗi thống khổ khiến hai người mất đi tri giác, dần dần mơ hồ, cảm giác bồng bềnh, đau đớn vô hạn, rồi đầu óc hoàn toàn trống rỗng, không còn biết gì nữa…

Trong bóng đêm, Liễu Dật không thể làm gì, đột nhiên Cửu U Ma Thần xuất hiện trước mặt, bóng đen biến hóa thành Cát Lợi Nhi, chàng định lên tiếng nhưng không biết phải nói gì, Cát Lợi Nhi vừa mỉm cười với chàng thì Lam Ảnh xuất hiện, y nắm lấy tay nàng, chầm chậm đi xuyên qua thân thể chàng, chàng muốn gầm to lên để giữ Cát Lợi Nhi lại nhưng âm thanh lại tắc tị.

Chàng hoang mang, tuyệt vọng, thống khổ, vào lúc đó một bàn tay ấm nồng ôm lấy lưng chàng, một giọng nói dịu dàng nhưng đầy chân thật vang khắp thế giới tối tăm của chàng: “Thư sinh, dù cho toàn thế giới này không quan tâm đến huynh, vẫn còn có Thất Nguyệt.” Ấm áp và cảm động xiết bao, chàng biết đó là nàng.

Nhưng liền đó, cảm giác ấm áp biến mất, biến thành bạch quang, quấn quít lấy chàng, chàng đột nhiên cảm thấy mất mát, đang hoang mang thì một bóng trắng xuất hiện, là Lãnh Kiếm, ông ta nói với chàng: “Cầm kiếm lên, giết sạch những kẻ đáng giết trong thiên hạ.”

Thình lình, không gian biến động, chung quanh toàn là máu hồng, ánh dương quang tắt lịm, chỉ còn lại hồng vân, không có minh nguyệt mà chỉ có cuồng phong, mặt đất hoang vu, không có lấy một mảnh đất lành. Dưới chân chàng vạn bộ xương trắng, lênh láng máu tươi, chàng ngây ra, những người này đều do chàng giết ư?

Vào lúc đó, một người to lớn, hùng vĩ xuất hiện trước mặt Liễu Dật, chàng cảm thấy người này rất quen thuộc, là Bàn Cổ. Ông ta nhìn chàng, bật cười vang: “Ngươi vĩnh viễn là ma, một con ma đáng thương, ngươi có sức mạnh đến thế nào cũng không thể cải biến được vận mệnh, với sát lục, tội nghiệt của ngươi, làm sao có thể được sống với Thiên nữ, ngươi phải bị trầm luân, vạn kiếp trầm luân.”

Chàng không thể im lặng, gào lớn đầy bi thương, phẫn nộ: “Không, không…”. Bóng hình đó biến mất, thế giới của chàng lại trở lại tối tăm, liền đó chàng phát hiện mình động đậy được, chàng đang nằm trên một nơi rất mềm mại, là một bãi cát.

Nguyên lai là cơn mộng mị, giờ đã tỉnh lại, nghe tiếng sóng ầm ào, chạm tay vào cát trên mặt đất, chàng xác định rằng mình đang ở trên lục địa, nhớ lại những việc xảy ra lúc trước…một đạo bạch quang bao phủ chàng và Thất Nguyệt, một cơn đau vùi đẩy hai người lùi lại, rồi hoàn toàn mất đi tri giác.

Thình lình, chàng nhớ đến một việc, đúng, còn Thất Nguyệt? Nàng ở đâu? Theo lẽ thường, hai người họ bị yêu thú đánh chìm xuống đáy biển, đã lạc nhau. Chàng cởi thanh Bi Mộng Kiếm trên eo xuống, lần mò ra bờ biển tìm kiếm, gọi tên Thất Nguyệt.

Bất ngờ, chân chàng vấp phải một vật thể nằm trên mặt đất, chàng thoáng mừng, vội dùng tay nắm lấy, là tay của một người, chàng chạm vào mặt người đó: “Thất Nguyệt, Thất Nguyệt, là Thất Nguyệt phải không?”

Người đó được chàng đánh thức, “ôi” lên một tiếng rồi ộc hết nước biển trong bụng ra, nghe âm thanh thân thuộc, chàng nhận ra là Thất Nguyệt, vui mừng thốt lên: “Chúng ta đều còn sống, đều còn sống.”

Thất Nguyệt đã phục hồi lại, thấy biểu tình kích động của chàng cũng cao hứng nói: “Đúng vậy, thật không dám tin chúng ta vẫn còn sống, muội cứ nghĩ chúng ta bị đại hải nuốt gọn.”

Liễu Dật gật gù, đột nhiên hỏi: “Chúng ta đang ở đâu, trên mặt biển sao lại có lục địa?”

Nghe Liễu Dật hỏi, Thất Nguyệt mới quan sát tứ bề một vòng, buột miệng thốt: “Đẹp quá.”

Vùng lục địa này không lớn, thậm chí còn nhỏ hơn Vĩnh Hằng Chi Thành, giống như trôi nổi trên mặt biển Nam Hải, xung quanh họ lúc này toàn là hoa màu hồng, đẹp đẽ vô cùng, mỗi đóa hoa có 9 nhụy, cánh hoa vây tròn lấy nhụy hoa.

Bất quá loại hoa đó khá đặc biệt, toàn màu hồng nhưng hình như thiếu mất cái gì đó, Thất Nguyệt nặn óc mới nhớ ra là loại hoa này thiếu lá. Nhìn vào trong vùng lục địa này có cảm giác như đang ở trong tiên cảnh, cây cối kì lạ sinh trưởng tươi tốt, bách hoa đủ màu bung nở, một con đường mòn nho nhỏ dẫn lên một tòa nhà gỗ trôi nổi trên không trung, mọi thứ ở đây đều thật thần kì.

Bạch hạc liên tục bay qua bay lại, dưới mặt đất thỏ trắng và các loại động vật bé nhỏ ngắm nghía hai người, ánh mắt hấp háy, từng đôi hồ điệp quấn quít bay múa trên những đóa hoa màu hồng mọc quanh mình họ. Vầng dương lặn xuống phía tây khiến nơi đây vừa hài hòa, vừa trữ tình, lại đượm vẻ mĩ lệ xuất trần.

Thất Nguyệt vừa quan sát vừa tả lại cho Liễu Dật hình dung, đúng lúc đó một giọng nói vọng vào tai hai người, âm thanh uyển chuyển như tiếng hoàng oanh ríu rít, nghe rất êm tai: “Ngàn năm nay không có ai đến được Thiên Nhai Hải Giác, hai vị khách nhân trên đường đã chịu nhiều tân khổ, đến đây lần này có nguyện vọng gì chăng?”

Giọng nói vọng đến, Liễu Dật từ từ đứng dậy, chàng nghe thấy tiếng bước chân của hai người, cước bộ rất nhẹ nhàng khiến người ta có cảm giác bồng bềnh, tâm tình đột nhiên kích động, buột miệng: “Thật sự là có Thiên Nhai Hải Giác, thật sự tồn tại một nơi như thế.”

Dường như Thất Nguyệt đã nghe rõ ràng câu nói vừa xong, chả lẽ họ đang đứng trên mảnh đất là nơi tận cùng của trời đất? Thất Nguyệt không nén được lại quan sát mỗi khối đá, mỗi gốc cây quanh mình, tất cả đều như trong mộng, mĩ lệ đến không thể tin nổi.

Tiếng bước chân ngừng lại, Liễu Dật cảm giác được hai người đó đứng trước mặt, trong thế giới của chàng, quang điểm của họ phân biệt thành hai màu đỏ và vàng, khẳng định đó là một nam một nữ.

Nam tử cất lên giọng nói đượm vẻ nhân từ, hòa ái, ôn nhu: “Thiên Nhai Hải Giác này vốn ở trong lòng nhân thế, tin là có tồn tại thì nó tồn tại, nhược bằng không tin thì nó không tồn tại, xa xôi vạn dặm, phải chịu khổ nạn, chỉ có điều ngoài ý liệu của ta là mắt công tử không thể nhìn thấy mà vẫn đến được.”

Liễu Dật không nhịn được, lên tiếng hỏi: “Nhị vị là Hữu Tình Nhân ở Thiên Nhai Hải Giác?”

Một giọng nữ khác cất lên: “Thiên Nhai Hải Giác này chỉ có hai người chúng tôi.”

Nghe hai người đối đáp, Thất Nguyệt quan sát kĩ lưỡng, nữ tử đứng bên hữu xinh đẹp vô ngần, làn mi cong vút, đôi ngươi đen láy sâu thẳm khiến người ta có cảm giác nàng không thuộc về chốn tục thế, sống mũi thanh mảnh hồng hào, hồng mà không đỏ gắt, tôn thêm vẻ hoàn mĩ cho nhan sắc, toàn thân phủ hờ một chiếc áo la đỏ, càng khiến nàng thêm cao quý.

Nam tử đứng bên tả, làn da đen giòn, khuôn mặt như được điêu khắc, có thể nói là long mi hổ mục, tuấn lãng phi phàm, mái tóc dài đen nhánh được tết chỉnh tề, ông ta mặc trường sam màu xám, thắt lưng điều màu đen, thân thể chắc nịch khiến người ta có cảm giác vừa có thể ỷ lại vừa thân cận được. Đôi nam nữ này đúng là nhân trung long phượng.

Hồng y nữ tử gián tiếp hồi đáp câu hỏi của Liễu Dật, khôi y nam tử cười hòa ái: “Liễu công tử có thể trực tiếp xưng hô chúng tôi bằng tên, tại hạ Dạ Lang, đây là Hồng Nương, thê tử của tại hạ.” Khôi y nam tử khách khí thông báo tên của mình và vợ.

Liễu Dật lấy làm kì quái: “Các vị sao lại biết tên tôi?”

Hồng Nương mỉm cười: “Chúng tôi còn biết nhiều thứ lắm, ái tình trên đời này là chuyện hàng ngày của chúng tôi, tên của công tử tự nhiên chúng tôi phải biết.”

Liễu Dật liền nói: “Thật như vậy ư? Vậy…mục đích đến Thiên Nhai Hải Giác lần này của chúng tôi chắc hai vị cũng đã biết rồi.”

Dạ Lang gật gù: “Đương nhiên, Liễu công tử đã vượt qua ba lớp sóng mà đến, chúng tôi sao lại không chú ý? Thật quá ư vất vả, công tử là một người mù mà lại có thể qua được ba lớp sóng.”

Liễu Dật lắc đầu: “Quá khen rồi, đó đều do Thất Nguyệt ở bên tôi tương trợ.”

Hồng Nương quay đầu ngắm Thất Nguyệt, trong mắt hiện lên vẻ tiếc nuối, đương nhiên Liễu Dật không thấy được. Hồng Nương nói: “Một phiến si tâm của Thất Nguyệt thật hiếm thấy.”

Một câu giản đơn của Hồng Nương, trong lòng Liễu Dật và Thất Nguyệt lại trỗi lên những ý nghĩ khác nhau, là chua xót, ngọt ngào, không ai biết được, đáp áp nằm trong lòng họ.

Liễu Dật tiếp tục: “Chắc hai vị Hữu Tình Nhân đã biết mục đích chúng tôi đến đây, mong các vị giúp cho.”

Dạ Lang không nói, chỉ trầm mặc rồi lại nhìn Hồng Nương, nàng bèn lên tiếng, giọng nói hết sức dễ nghe, lời lời như từng mũi châm ăn sâu vào tim: “Liễu Dật, câu chuyện của công tử, chúng tôi chỉ biết thở dài thương cảm, đương nhiên chúng tôi có thể giúp công tử nhưng khó lắm, cái giá phải trả không thể tính được.”

Liễu Dật vừa nghe, lập tức vui mừng nói: “Không, thế nào cũng được, chỉ cần các vị sẵn lòng giúp Thiên nữ khôi phục kí ức, điều kiện gì tôi cũng đáp ứng.”

Dạ Lang lên tiếng: “Bảy ngàn năm trước, chân thân của Liễu Dật là Niết nhân, tâm ma của Bàn Cổ, hiện tại tôi có chuyện muốn hỏi Niết nhân, công tử có nguyện ý trả lời?”

Liễu Dật gật đầu: “Xin cứ nói.”

Dạ Lang tiếp tục: “Nếu… cho công tử một cơ hội quay lại bảy ngàn năm trước, công tử có sẵn lòng yêu thương Thiên nữ, có hối hận vì yêu nàng không, có oán hận vì phải trả giá bằng nỗi khổ ba kiếp không?”

Liễu Dật ngừng lại, tịnh không đáp lời.

Hồng Nương chen vào: “Công tử bất tất phải trả lời câu hỏi ấy ngay, chúng tôi mong công tử cứ từ từ suy nghĩ.”

Liễu Dật lắc đầu: “Đó đâu phải là vấn đề gì, làm sao phải cân nhắc, chỉ là tôi không biết phải biểu đạt thế nào, nếu có một cơ hội quay lại, tôi nghĩ tôi sẽ không yêu Thiên nữ, cho dù quyết định như thế tôi sẽ phải hối hận. Nếu đã là vận mệnh ba đời ba kiếp thì phải trả giá nào, tôi cũng đều không oán hận, tất cả đều nguyện ý.”

Dạ Lang ồ lên, tựa hồ rất kinh ngạc với câu trả lời, lại hỏi: “Không yêu? Vì sao?”

Liễu Dật đáp: “Tình yêu giữa thần và ma chỉ toàn thống khổ, những hạnh phúc từng có đều thành hồi ức cả rồi, tôi thực lòng mong rằng mình còn có thể yêu ai khác nhưng không thể, yêu một người là phải nghĩ cho người đó, nếu vì yêu tôi mà khiến nàng đau khổ thì tôi nguyện không yêu, hoặc giả… không nói với nàng lời yêu.”

“Bảy ngàn năm rồi, tôi còn quay đầu được ư? Còn có thể làm lại từ đầu ư? Toàn bộ tội nghiệt đều chỉ vì tôi, khổ nạn của Thiên nữ do tôi tạo thành, tôi không oán hận nhưng tình yêu của tôi đã làm hại nàng, có lẽ những gió mưa ngàn năm qua đã thanh tẩy cho tôi, khiến tôi hiểu được hàm nghĩa của tình yêu thực sự là phải trả giá, là bao dung, là buông bỏ, là phải nghĩ cho nàng.”

“Cho đến kiếp này, tôi vẫn không hối, không oán, tôi yêu Thiên nữ, không hối hận vì đã yêu nàng, khổ nạn ba kiếp có đáng gì? Nếu như có thể tiếp tục, tôi muốn tình yêu dành cho nàng ngàn năm không đổi, vĩnh hằng bất biến.”

Hồng Nương và Dạ Lang chỉ im lặng, câu trả lời của chàng nằm ngoài ý liệu nhưng lại khiến họ mãn ý, lí giải về ái tình phải là như vậy.

Liễu Dật thoáng dừng lại rồi nói tiếp: “Thời gian không thể quay ngược, vì vậy tôi mãi mãi yêu Thiên nữ, đã đến kiếp này thì tôi sẽ tiếp tục yêu nàng, yêu bằng tất cả những gì tôi có…cho dù kiếp sau có luân hồi cũng vẫn không quên, thiên niên trớ chú có gì đáng sợ? Yêu đã đằm sâu, tình đã đau đớn, còn tính gì đến trọn đời trọn kiếp, tính gì đến chuyện phải trái của Thần?”

Nghe Liễu Dật dốc bầu tâm sự, Dạ Lang buột miệng: “Hay, hay cho câu ‘kiếp sau có luân hồi cũng vẫn không quên, thiên niên trớ chú có gì đáng sợ’, câu trả lời này ta rất vừa ý, chúng tôi sẽ giúp công tử.”

Thấy Dạ Lang nói vậy, Liễu Dật vẫn bình tĩnh: “Đa tạ.”

Hồng Nương vẫy nhẹ tay phải, một đóa hoa màu hồng xuất hiện trong tay, hoa có chín nhụy, 14 cánh, bảy cánh quây tròn lấy nhụy, bảy cánh uốn vòng rủ xuống. Hồng Nương vừa nhìn đóa hoa vừa hỏi Liễu Dật: “Công tử, đã nghe câu chuyện về Bỉ Ngạn Hoa rồi chăng?”

Liễu Dật lắc đầu: “Xin cứ kể.”

Dạ Lang chen lời: “Trong trời đất có một loài hoa kì quái, loại hoa này sinh trưởng tại Thiên Nhai Hải Giác, tên gọi là Bỉ Ngạn Hoa, hoa chỉ nở vào tiết thu phân, hoa nở thì lá biến mất, có lá thì hoa tàn lụi, hoa lá không bao giờ cùng hiện, đời đời chia cắt…”

Hồng Nương tiếp lời: “Loài hoa này hàm chứa những bi khổ, tuyệt vọng, trớ chú cùng mặt trái của tình ái trên thế gian, gọi là Bỉ Ngạn Hoa, nếu có một phương pháp có thể khiến Bỉ Ngạn Hoa vừa nở hoa vừa có lá thì Thiên nữ sẽ khôi phục được kí ức.”

Liễu Dật vội nói: “Thực vậy sao? Chỉ cần lá và hoa cùng xuất hiện thì Thiên nữ có thể khôi phục kí ức? Loại hoa đó được tưới như thế nào?”

Dạ Lang lắc đầu: “Cách tưới loại hoa này đặc biệt vô cùng, không cần nước hay thổ nhưỡng để sinh trưởng, nó cần chín loại nước mắt, ba loại nước mắt cảm tình, ba loại nước mắt chúc phúc, ba loại nước mắt định nghĩa, chỉ cần đem chín loại nước mắt đó hòa vào nhau có thể khiến Bỉ Ngạn Hoa nở hoa và mọc lá, Thiên nữ sẽ khôi phục được kí ức.”

Liễu Dật nóng lòng: “Chín loại nước mắt? Ở đâu? Là những loại nào?”

Hồng Nương đáp: “Đương nhiên chúng tôi phải nói cho công tử, nhưng trước hết chúng tôi muốn công tử phải biết cái giá để Thiên nữ khôi phục kí ức…”


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.