“Không phải người ta vẫn nói, vợ chồng phải ngủ cùng với nhau sao? Tại sao chúng ta phải ngủ riêng vậy?” Trước khi đi ngủ, Liễu Dật chợt bật ra câu hỏi đó. Dù y đã mất đi ký ức nhưng vẫn nhớ được những chuyện thường thức của cuộc sống, không hoàn toàn si ngốc.
Thất Nguyệt hơi bất ngờ khi Liễu Dật bất chợt gặng hỏi việc nàng vẫn cố tình lờ đi từ trước đến nay, đúng vậy, trong lòng nàng vẫn thường tự hỏi mình vì sao họ là phu thê mà lại không thể ngủ chung với nhau. Nàng chỉ nhận được một câu trả lời, “vì các ngươi vốn chẳng phải là phu thê thực thụ.”
Thất Nguyệt nở nụ cười khổ, vờ bực bội vặt lại chàng: “Sao chàng tự dưng hỏi nhiều thế, ai bảo phu thê nhất định phải ngủ cùng nhau nào, mau đi ngủ đi thôi, đã mệt mỏi cả ngày rồi.
Liễu Dật cười nói: “Cũng đúng, cũng không nhất định như thế.” Nói rồi, chàng cũng quay về căn phòng nhỏ của mình.
Thất Nguyệt nhìn theo bong Liễu Dật khuất dần, mỉm cười thì thầm: “Thiếp chỉ cố gắng chuộc lỗi của mình, nếu như chúng ta thật quả trở thành phu thê, thiếp e chàng sẽ hận thiếp đến trọn đời, cứ như thế này, thiếp đã thấy thỏa mãn lắm rồi.”
Liễu Dật như mọi khi cởi bỏ áo ngoài, tháo thanh kiếm Bi Mộng vẫn đeo bên thân ra. Từ ba năm nay, kể từ khi Thất Nguyệt dạy chàng dụng kiếm, chàng đã quen luôn đeo kiếm bên mình không lúc nào rời, chừng như việc mang kiếm là một bộ phận trong sinh hoạt hàng ngày.
Vào đến giường, Liễu Dật nhắm mắt và chẳng mấy chốc đã chìm vào giấc ngủ, có lẽ, chàng quả thật đã quá mệt rồi…
Đêm thật tĩnh lặng, chỉ thỉnh thoảng từ xa vọng lại tiếng quái vật kêu gào, dường như tất cả đều hết sức bình thường, thế nhưng khi mọi việc quá đỗi bình thường thì nhất định là có vấn đề, như là lúc này…
Thanh Bi Mộng kiếm bỗng bộc phát hồng quang, càng lúc càng mạnh, vầng hồng quang lớn dần, cuối cùng hoàn toàn bao bọc cả Liễu Dật bên trong.
Chàng vốn dĩ có thể an nhiên tự tại cùng Thất Nguyệt sinh sống trong tiên cảnh này, quên hết mọi phiền não, chẳng còn phải bi thương, quên cả vận mệnh bị nguyền rủa nọ, không cần quan tâm đến nữa, thế nhưng, chỉ vì một sự cố cỏn con ngoài ý liệu, một giọt máu cường bạo chi huyết của Liễu Dật nhỏ ra đã một lần nữa biến đổi mệnh vận.
Liễu Dật mở bừng mắt, thấy mình bập bềnh trong một thế giới lạ lùng, chẳng còn chút phồn hoa như trước, mà có vẻ cổ xưa hơn, không còn vẻ thanh bình của hiện tại, khắp nơi dẫy đầy chết chóc…
Liễu Dật lơ lửng giữa không trung, ngoảnh nhìn tứ phía, sửng sốt thốt lên: “Nơi này là đâu? Sao ta lại ở đây, Thất Nguyệt nhỉ? Thất Nguyệt…” Liễu Dật hoảng hốt gọi to, nhưng không một ai hồi đáp.
Chàng nhìn thấy một gã vận hắc y, trông mường tượng như gã, tay cầm kiếm, sau lưng là thiên binh vạn tướng. Đối diện với gã là một hán tử cường tráng, hai bên tráng hán là đám đông vừa người vừa quái vật, hình dáng, phục sức đều khác nhau. Bọn chúng kẻ thì đang hè nhau giết chóc, kẻ đang bị thương chảy máu, thanh ma kiếm cũng nhuốm đầy máu…
Liễu Dật lại trông thấy một thiếu nữ ngã chết, một tảng băng trắng rơi ra đỡ lấy thân nàng bay bổng trong không trung, nét mặt nàng hiện ra trước mắt gã thật rõ ràng, thật quen thuộc, như đã biết nhau từ thuở nào. Nhưng nàng là ai, chàng tự hỏi? Chàng lại thấy gã hắc y vội quăng bỏ trường kiếm, lao người theo đuổi theo thiếu nữ, cùng nàng rơi khỏi chín tầng mây, lạc nhập phàm trần.
Thế giới lại một lần nữa biến đổi, trong nháy mắt, chàng thấy mình đến một đỉnh núi trong đêm tối không trăng, vì nàng Thường Nga đã giấu mặt sau bức màn mây dầy đặc. Trên đỉnh núi có rất đông người, ai nấy đều tập trung vào một mục tiêu duy nhất, là một hán tử cầm thanh ma kiếm. Lúc này, chàng đang ôm trong lòng mình một thiếu nữ đã chết từ lâu. Đôi mắt chàng hoen lệ. Liễu Dật có thể cảm giác được nỗi đau đớn và bất lực trong lòng …
Thanh ma kiếm lần đầu nhuốm máu chủ nhân, đồng thời cũng cắt đứt yết hầu của chàng, kết thúc sinh mạng của chàng, thế nhưng ánh mắt của chàng lại vô cùng an tĩnh, bởi vì mạng vận đau khổ của chàng đã kết thúc, vì người con gái chàng yêu thương đã chết, đã vì chàng bị người thiên hạ truy sát mà vong mạng tại thiên nhai.
Trong nháy mắt, khung cảnh lại một lần nữa thay đổi, lần này chàng nhìn thấy một ngôi tiểu đình nhỏ trong đêm mưa. Chàng phát hoảng khi nhìn thấy chính mình ở đó, nhưng tóc chàng vẫn còn xanh mướt, cũng đang ôm trong lòng thân thể một nữ nhân đã cứng lạnh. Chàng thấy mình rơi lệ, thấy mái tóc xanh của mình trong một đêm trở nên bạc trắng.
Người mà chàng đang ôm trong lòng, nàng là… Cát Lợi Nhi, người yêu của chàng, người mà chàng một mực dấu yêu. Đương lúc chàng cùng Cát Lợi Nhi bái đường, chàng nhìn thấy Thất Nguyệt, nhìn thấy “vợ” mình, thấy chàng cầm thanh ma kiếm đó đâm vào thân thể của nàng, đúng lúc chàng cũng bị một thanh kiếm khác đoạt mất sinh mạng.
Không gian lại thay đổi, như thể tất cả đều không tồn tại, chỉ như bóng mây qua mắt, còn chưa kịp kinh động chút bụi trần, bốn phía đã một màu âm ám, chẳng còn gì cả. Liễu Dật kinh ngạc vô cùng, dường như tất cả những hình ảnh trên vốn nằm trong ký ức của chàng… chỉ có điều chàng vẫn không nhớ gì cả.
Liễu Dật bỗng thấy bối rối. Khi người đầu tiên xuất hiện, chàng đã có cảm giác quen thuộc nào đó, cho đến lúc cuối cùng thì ba người dường như chỉ là một nhưng xuất hiện trong những thời điểm khác nhau, và dưới những thân phận khác nhau, nhưng lại kinh qua những việc tương tự…
Liễu Dật chợt thét to: “Ta là ai…” Tiếng thét của chàng vừa thống thiết vừa mạnh mẽ, tựa hồ vang đi thật xa. Lúc này bản thân chàng cũng không nhớ ra mình là ai, nhưng ba hình ảnh vừa rồi không ngừng xoay chuyển trong trí não, từng chút từng chút một, ba bức tranh đó dung hợp lại với nhau, liền đó xuất hiện lời nguyền: ngươi phải đọa lạc trong luân hồi ba kiếp, người ngươi yêu sẽ phải xa lìa ngươi, nỗi khổ luân hồi, ái tình không được chấp nhận sẽ khiến ngươi vĩnh viễn không thể cùng người yêu sum họp, ngươi phải chịu nỗi đau vạn kiếp.
Những chữ ấy hiện lên rõ mồn một trong không trung trước mắt Liễu Dật, chàng thét to: “Ta biết rồi, chính là ngươi… Bàn Cổ, ngươi chớ tưởng có thể vĩnh viễn ngăn trở tình yêu của ta, ta sẽ cho ngươi thấy, ta sẽ cho ngươi biết, thiên nữ nhất định sẽ lại trở về bên cạnh ta.”
Đột nhiên, hồng quang và hoàng quang cùng lúc phân biệt xuất hiện chung quanh Liễu Dật. Liễu Dật nhìn về bên trái, một con rồng đỏ xuất hiện, đó là Long Hoàng, còn con rồng vàng kia là… Long Viêm. Y đã nhớ ra rồi, luôn cả ký ức về năm ngày trên hòn đảo thần bí đã mất. Lúc này nhờ ba hình ảnh vừa rồi, chàng đã nhớ lại toàn bộ lời nguyền…
Long Viêm, con rồng lửa kia, vốn chẳng phải là thần thú thuộc quyền chàng, cũng không phải do Bàn Cổ hay Nữ Oa sáng tạo nên mà do tự nhiên hóa sinh, hấp thụ thiên địa chi khí mà thành, đứng đầu Bát Hoang. Niết Nhân vốn định thu phục toàn bộ Bát Hoang thần long, rồi sẽ khiêu chiến với Thần giới, nhưng vì nhất thời nổi giận chỉ mang mỗi mình Long Hoàng lên Thần giới, gặp lúc biết được Thiên nữ đọa nhập luân hồi, Niết Nhân lập tức cương quyết lìa bỏ Thiên giới, vứt bỏ thanh Bi Mộng, cũng chính là Long Hoàng. Sau này, Vị Linh Phong thu được Long Hoàng và bí kíp ma công đến tầng chín cùng kiếm pháp. Tuy nhiên truyền thuyết cuối cùng về Bát Hoang thần long còn chưa truyền đến tai hắn. Có lẽ… nó còn chưa đến kết thúc.
Liễu Dật nhìn hai con thần long, nói: “Đa tạ các ngươi…”
Hai con thần long uốn lượn hai bên thân Liễu Dật, một thanh âm vọng đến: “Từ lúc người không còn ký ức, chúng ta cũng rơi vào giấc ngủ sâu, cho đến một ngày, một giọt cuồng bạo chi huyết của người nhiễm vào thân chúng ta, đánh thức chúng ta. Việc chúng ta có thể làm là mang ký ức bảy nghìn năm mà chúng ta biết được hoàn lại cho người.”
Cùng lúc đó Liễu Dật cũng đã nhớ lại ma công tâm pháp cấp mười hai. Chàng nhìn hai con thần long đang uốn lượn trước mặt, chợt mỉm cười, rồi lại nhăn nhó, thở dài: “Tất cả chỉ vì năm xưa ta thiếu niên vô tri, giờ đây qua một giấc mơ dài, ta đã hiểu ra nhiều việc, đã nhận ra mình già lão rồi. Bảy nghìn năm thấm thoắt trải gội gió mưa, có lẽ dung mạo của ta vẫn như thủa thiếu niên, nhưng tóc đã bạc trắng đầu, chính là vì đã trải qua lắm bể dâu của cuộc đời rồi vậy.”
Liễu Dật đã trấn định tâm thần, song long liền biến mất, hóa thành Bi Mộng kiếm trong tay y. Liễu Dật nhìn thanh kiếm trong tay mình lẩm bẩm: “Ta nhất định sẽ đột phá tầng thứ mười ba của “Lan nhĩ phỉ na thanh” tâm pháp cho bằng được, mười năm không xong thì hai mươi năm… ta phải buộc Bàn Cổ trả giá cho lời nguyền của hắn, nhưng… trước lúc ấy, ta cần phải thu phục cả sáu con thần long kia, chỉ nhiếp nhập cả Bát Hoang thần long vào Bi Mộng kiếm, được như vậy thì cho dù Thần giới đã trở nên mạnh mẽ thế nào trong suốt bảy ngàn năm qua, ta cũng có thể phá tan nó ra.”
Cùng lúc đó, Thất Nguyệt cũng có một giấc mơ tương tự. Một cơn ác mộng cứ ám ảnh nàng suốt ba năm qua. Trong mơ, nàng lại rơi lệ, và không kìm được thốt lên: “Đừng, xin chàng đừng rời xa thiếp!”
Nàng tự biết mọi việc chỉ là dối trá, nàng tự biết mọi việc đều không thật, nàng cũng tự biết, tình yêu không có ký ức ấy toàn là giả tạo, thế nhưng nàng vẫn có cảm giác hạnh phúc. Đối với mối tình giả tạo này, nàng không thể tự mình thoát ra được, không thể thoái lui, bởi vì như vậy thì nỗi bi thương sẽ thăm thẳm như vực sâu không đáy chẳng còn ánh mặt trời, còn trong hoàn cảnh giả tạm này, ít nhất, nàng cùng còn có thể mỉm cười…
Nước mắt của nàng… mãi vẫn lạnh lẽo như thế, vì người đàn ông nàng yêu không thể mang lại cho nàng sự ấm áp, những gì nàng có thể làm là một mực cam tâm tình nguyện, gặp gỡ một lần, đau khổ một đời, luyến lưu khôn dứt, vô oán vô hối…
Nàng có thể ở mãi bên cạnh chàng hay không? Nàng có thể lìa xa chàng không? Cuộc sống của hai người họ sẽ thay đổi ra sao? Chúng ta không thể nói trước được, chỉ đành tiếp tục theo dõi. Hoặc giả, hãy quay đầu lại nhìn Lam Ảnh và Cát Lợi Nhi cũng đang chăm chú theo dõi Thất Nguyệt và Liễu Dật, có thể sẽ hiểu được mối duyên phận lỡ làng và nỗi đau đớn qua ba đời ba kiếp này…