Trong phòng chỉ còn lại vương hậu và Lôi Đặc Lâm.
Dưới ngọn lửa hồng, gian phòng vô cùng ấm cúng, Thụy Thu lấy bình sữa dê đun nóng trên bếp lò xuống, rót ra mời Lôi Đặc Lâm một ly, rồi tự rót cho
mình một ly. Nàng nhấp một hơi, một luồng khí nóng từ cổ họng xộc thẳng
xuống bụng, nàng khẽ he hé mắt nhìn.
Lôi Đặc Lâm gõ ngón tay to lớn của mình xuống bàn, nhìn phụ nhân cao quý mỹ lệ trước mắt, thật khó mà tưởng tượng thân ảnh mơ hồ của đứa bé gái
nghịch ngợm ngày xưa, thời gian 16 năm đủ để cho người ta quên đi nhiều
việc, cũng đã thay đổi rất nhiều việc.
Khi lão thấy Thụy Thu khẽ hé mắt lộ ra cảm giác mệt mỏi phóng túng, thậm
chí nếp nhăn trên đuôi mắt còn hiện rõ dù vẫn không làm giảm vẻ phong
tình của nàng, Lôi Đặc Lâm trong lòng chua xót, ngữ khí đầy vẻ quan
hoài:"Phượng Hoàng nhi, mấy năm nay con quả thật quá tân khổ rồi."
"Cũng không bằng thúc thúc ở phía Tây phải chịu sương vùi gió dập, lúc nhỏ
con đã từng nghe phụ thân nói qua Tây Nam đến mùa đông thì gió thổi lạnh như dao cắt, chịu đựng làn gió thổi trên một năm có thể làm cho người
ta già đến mười tuổi."
"Thúc thúc hiện giờ vẫn chưa phải là lão già trên trăm tuổi mà."
Thụy Thu khóe môi cong lên, tựa hồ như nín cười, rốt lại vẫn không nhịn được phát ra cười giòn:"Không ngờ thúc thúc cũng biết nói đùa thú vị như
vậy."
"Người sống một đời, rốt lại cũng chẳng thể thoát khỏi trói buộc của cuộc đời."
Ý tứ của Lôi Đặc Lâm, Thụy Thu vốn là người tinh tế, sao không hiểu rõ
được, nàng chỉ than khẽ:"Có lúc con đã hoài nghi chọn lựa năm xưa của
mình, con rốt lại là đang nghĩ nếu như con là nam nhân thì phụ thân sẽ
khoái hoạt hơn nhiều."
"Không đâu, tuy lúc nhỏ ta chỉ gặp con vài lần nhưng lão tướng quân yêu thương con hết mực, không dám để con gặp mặt người khác, chính là ông ta sợ
vinh quang chói mắt của mình sẽ mang đến thương hại cho con."
Thụy Thu cười khổ:"Con tự nhiên biết phụ thân yêu thương con nhất, trước khi người rời đi cũng đã tính toán cách giúp đỡ con tốt nhất, lúc đó con
cũng có dự cảm rằng người sau khi đưa con vào cung thì có thể là cả đời
này con sẽ không bao giờ gặp lại người."
"Thúc có biết vì sao lại đưa con cho quốc vương không? Niên kỷ ông ta so với
phụ thân còn lớn hơn..." Thụy Thu cười tự trào nói:"Lúc đó con còn nhỏ
tuổi, trong lòng tuy rất yêu phụ thân nhưng cũng rất hận người. Người
không nói gì với con, cũng không cho biết cách an bài của người, mỗi lần người xuất quân đánh trận, mỗi lần đắc thắng trở về, thậm chí lần cuối
cùng người rời đi con cũng chỉ có thể ngưỡng vọng bóng lưng cao lớn của
người, hoàn toàn bị vinh quang của người che khuất. Người vốn là nam
nhân không quen cách biểu đạt tình cảm, đó cũng là nguyên nhân mẫu thân
rời bỏ người, cho nên mỗi lần con nhìn thấy người dạy dỗ binh sĩ nghiêm
khắc, thậm chí còn trừng phạt đánh mắng, con đều hâm mộ vô cùng, vì phụ
thân không bao giờ đánh con, cũng không bao giờ mắng con, người một mực
thờ ơ không quan tâm đến con. Vì thế, sau khi người rời đi, con mới tự
mình hành động, một mặt là con kỳ vọng phụ thân có thể nhìn thấy tình
hình hiện tại của mình mà tự trách, một mặt là con muốn chứng minh năng
lực của mình, con không cần cuộc đời người đã an bài sẵn cho con..."
Lôi Đặc Lâm nghe Thụy Thu nói trắng tâm sự trong lòng ra, cũng lặng thinh không biết nói sao mới phải.
Đây chính là nỗi bi ai của nhân vật vinh quang chói mắt, Trì Vân là thiên
tài quân sự nhưng lại thất bại thảm hại trong gia đình của mình.
"Phượng Hoàng nhi, lão tướng quân cũng là bất đắc dĩ..."
Thụy Thu nhẹ nhàng khoát tay, ngữ khí đã khôi phục bình tĩnh:"Con đã không
còn hận phụ thân, chuyện đã qua nhiều năm, nhiều việc con đã nhìn ra
rồi, huống gì có lúc con còn nghĩ liệu con có đang phạm sai lầm giống
phụ thân năm xưa hay không. An tử mới 10 tuổi nhưng lại bị con ép nó
phải tiếp thụ kiếp sống con đã an bài sẵn, phải đi tranh giành vương vị
đầy máu tanh với ca ca cùng cha khác mẹ của nó."
Lôi Đặc Lâm khẽ than một tiếng.
Ngay lúc này, một con Linh điểu bay xuyên qua màn đêm, vừa đến Cự Mã tỉnh.
Chiến sự ở Đông tuyến đúng như Lôi Đặc Lâm dự đoán, Quy Tàng dẫn hai vạn tàn
binh của Lôi Mông Tư Đặc về lại Ngọc Long sơn, vô luận Khâu Viễn Sơn dẫn dụ thế nào, thậm chí mỗi ngày còn phái một nhóm bộ đội tới mắng chửi
cũng vẫn không hề hạ sơn.
Dựa vào thiết kế thiên tài của Tả Thanh Tử và Dương Chính, Ngọc Long sơn thực sự vững như thành đồng vách sắt.
Ngoài ưu thế trinh sát trên không ra, Khâu Viễn Sơn suất lĩnh bộ đội trên mặt đất không chiếm được chút tiện nghi nào, ngay cả Mãnh mã vô kiên bất
tồi cũng rơi vào hầm bẫy tổn thất khá là nghiêm trọng.
Chiến huống hãm nhập vào tình trạng giằng co không nghỉ.
Biên giới của Thương Nguyệt quốc ở thung lũng Mã Kỳ Đốn hàng năm đều có quân đội trú thủ nhưng nhân số tịnh không nhiều, chỉ khoảng chừng một trung
đội 500 người.
Năm xưa Khâu Viễn Sơn truy sát Dương Chính từng đem hai ngàn quân đến biên
giới vây bắt, đáng tiếc Đức Côn và Uy Nhĩ Tốn hai tên đều chỉ là giá áo
túi cơm, không chỉ để cho Dương Chính chạy thoát khỏi thiên la địa võng
mà còn vong mạng trong tay hắn.
Sau khi Dương Chính biến mất, nơi này lại khôi phục quân số như cũ.
Suy cho cùng thung lũng Mã Kỳ Đốn chính là một chướng ngại thiên nhiên, trú thủ nhiều binh lực nơi đây là một việc làm lãng phí.
Giống như thông thường, 500 người phân thành 5 tiểu đội, mỗi đội 100 người,
cứ cách 5 giờ thì lại đổi ca tuần sát. Tiểu đội tuần sát thông thường
chỉ đi quanh cửa vào từ thung lũng Mã Kỳ Đốn mà thôi.
Khi sắc trời bắt đầu tối, Kỳ Đốn vừa dẫn tiểu đội thứ ba đi ăn cơm xong,
đang xỉa răng chuẩn bị hành trang giao ca với tiểu đội thứ hai do Tát Áo thống lĩnh.
Nhưng chờ đến khi mặt trời lặn hẳn mà bọn người Tát Áo vẫn chưa đến.
Kỳ Đốn cảm thấy sự tình quái lạ, vội đi tìm trưởng quan tối cao là thiên tướng Mã Lặc.
Thiên tướng Mã Lặc năm nay đã 50 tuổi, vì hắn xuất thân bình dân, phục dịch
trong quân 30 năm thăng đến chức Thiên tướng, đây chính là địa vị cực
hạn của dân thường có thể đạt được, lại thêm tuổi đã lớn, tịnh không
thích hợp xung sát trên chiến trường nên Khâu Viễn Sơn phái hắn đến nơi
này, binh lính thủ hạ so với quy chế Thiên tướng thì ít hơn một nửa. Nơi này hằng năm không có chiến sự, giặc cướp không dám qua đây gây hấn,
thực tế chính là để cho hắn ta dưỡng già, qua thêm vài năm thì Mã Lặc có thể về hưu.
Thiên tướng Mã Lặc tuổi tuy lớn, bản lĩnh xung phong hãm trận cũng yếu kém
nhưng hắn có thể từ tầng lớp bình dân ngoi lên vị trí Thiên tướng, kinh
nghiệm chỉ huy ứng biến cũng thuộc hàng xuất quần bạt tụy trong Lang
quân.
Nghe thấy Kỳ Đốn báo cáo, hắn liền cảm thấy có điều không ổn.
Ngày thường lúc này tiểu đội tuần tra đã trở về từ sớm, binh sĩ nhiều năm
canh gác nơi đây thông thường đều buộc phải làm nhiệm vụ tuần tra, ai mà không muốn hoàn thành cho sớm nhưng hiện tại thời gian giao ca đã qua
một thời thần, cho dù gặp phải phiền toái cũng không thể nào bặt tin lâu như thế.
Lẽ nào gặp phải bọn cướp lớn trên đường, thung lũng Mã Kỳ Đốn đối diện với Bi Thương hoang nguyên vốn là nơi bọn đạo tặc hoành hoành, điều này rất có khả năng xảy ra.
Nhưng biên chế một trăm người thuộc quân đội chính quy, cho dù gặp phải băng
cướp đông người thì tuyệt đối vẫn có thể chống cự một trận, huống gì bọn họ còn mang theo Linh điểu, biên giới còn có phong hỏa đài, một khi xảy ra sự cố thì khẳng định có thể báo về.
Mã Lặc đi lên vọng gác cao 10 mét nhìn về phía biên giới.
Mặt trời đã lặn, sắc trời tối đen, phía xa chỉ nhìn thấy một vùng xám xịt.
Mã Lặc sau khi đi xuống vọng gác liền gọi thân binh đi kêu bốn tiểu đội
trưởng đến, ra lệnh cho Kỳ Đốn và Thiết Nặc Phu hai đội trưởng dẫn hai
trăm người đi tới biên giới Mã Kỳ Đốn xem sao, các binh sĩ còn lại đều
bắt đầu cảnh giới. 200 người nhanh chóng rời đi, 200 binh sĩ còn lại đều võ trang đầy đủ đứng quanh vọng gác quan sát bốn bề, không ít người
đứng sẵn trên phong hỏa đài, lúc nào cũng có thể đốt lửa, không khí trở
nên căng thẳng vô cùng.
.............
Kỳ Đốn và Thiết Nặc Phu dẫn 200 người men theo một con đường nhỏ lầy lội đi về phía thung lũng Mã Kỳ Đốn.
Trước kia có rất nhiều thương đội qua lại trên con đường nhỏ này, đường đã bị dẫm đạp tương đối bằng phẳng nhưng sau khi chiến sự bắt đầu, mấy tháng
không có thương đội đi qua, tuy mỗi ngày đều có kỵ binh của quân doanh
Mã Kỳ Đốn qua lại nhưng chỉ là tiểu đội 100 người nên mặt đường lại trở
nên lồi lõm mấp mô, hai bên đường cỏ dại mọc đầy.
Mặt đường không bằng phẳng khiến cho tốc độ của kỵ binh chậm lại.
Khi bọn kỵ binh này đến gần cửa vào Mã Kỳ Đốn thì bọn chúng nhìn thấy một
bọn kỵ binh đang nghiêm trận chờ sẵn, dưới bóng đêm cơ bản không thể nào nhìn rõ sắc mặt nhưng khôi giáp và vũ khí đã biểu lộ thân phận của
chúng.
Thiết Nặc Phu giơ bó đuốc lên, tiến về phía bọn kỵ binh mắng lớn:"Tát Áo, cái tên đáng chết nhà ngươi, không có chuyện gì sao không chịu về cho sớm
để đổi ca, báo hại bọn ta phải từ giường mò dậy đi kiếm các ngươi."
Càng tới gần bọn kỵ binh này Kỳ Đốn càng cảm thấy kỳ quái.
Chúng thấy quân mình đến mà vẫn yên lặng đứng đó, không ai đốt đuốc, cũng không ai tiếp ứng.
Cảm giác bất an càng lúc càng gia tăng, lúc tới gần chừng 50 mét, hắn kéo
Thiết Nặc Phu lại, nhỏ giọng nói:"Chờ đã, Thiết Nặc Phu! Có điểm cổ
quái!"
Thiết Nặc Phu quay đầu nhìn Kỳ Đốn, trên mặt đầy vẻ nghi hoặc.
Kỳ Đốn lắc đầu, cao giọng thốt:"Huyết nguyệt hoang nguyên!"
"Huyết nguyệt hoang nguyên. Dạ chiến bát phương" chính là khẩu lệnh của bọn
họ, vô luận lúc nào, chỉ cần một bên hô một câu khẩu lệnh thì đối phương phải nói ra câu kia, bằng không thì dù là người mình cũng có thể giết.
Bọn kỵ binh này không hề động tĩnh, lúc này cả Thiết Nặc Phu cũng cảm thấy việc này có điểm cổ quái.
Hắn rút thiết kiếm ra, trầm giọng quát:"Tát Áo, ngươi có ở đó hay không? Mau hô khẩu lệnh!"
Ngay lúc này, trên một gò nhỏ ở gần Mã Kỳ Đốn vang lên một tiếng thét sắc nhọn.
Kỵ binh đột nhiên hành động.
Tiếng dây cung bật vang lên liên tiếp trong không trung.
Kỳ Đốn và Thiết Nặc Phu đồng thời cảm thấy không hay, vội vung kiếm quát lớn:"Chuẩn bị chiến đấu!"
Nghênh tiếp họ chính là những mũi tên giống như sấm sét.
Thanh âm tên cắm phập vào da thịt cùng với tiếng la thảm của binh sĩ không
ngừng vang lên trong đêm đen. Kỳ Đốn cảm thấy một luồng kình phong ập
vào mặt, trực giác chiến sĩ khiến hắn ngửa người ra sau, vừa may tránh
khỏi một mũi tên bắn tới nhưng kỵ sĩ sau lưng thì xui xẻo, bị lợi tiễn
bắn xuyên qua cổ họng rơi xuống ngựa chết tốt.
Từ đầu đến cuối Kỳ Đốn ngay cả hình dạng của mũi tên cũng không thấy.
Tên cứ bắn ra từ trong bóng tối.
Kỳ Đốn bị dạ tiễn trước mặt chấn nhiếp, tâm thần đại chấn, hắn nhìn về
binh sĩ phía sau đang bị tổn thất thảm trọng quát lớn:"Lui mau, lui mau, lui khỏi tầm bắn của chúng!"
Lang quân tuy loạn nhưng không hoảng, rõ ràng tố chất rất tốt, mọi binh sĩ đều nhanh chóng quay đầu ngựa không ngừng thối lui.
Nhưng xạ trình của dạ tiễn hơn xa Kỳ Đốn tưởng tượng, bọn kỵ binh căn bản
không hề truy cản chỉ đứng tại chỗ cũ, mưa tên không ngừng rơi xuống,
con đường lại nhỏ hẹp quanh co ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ rút lui của Lang quân.
Sau khi lui được hơn 100 mét, mưa tên mới dần dần thưa thớt.
Có điều chỉ trong 10 phút ngắn ngủi, cả trăm tên thủ hạ đã chết phơi xác,
hơn nữa Kỳ Đốn cũng chưa nhìn thấy rõ mặt mũi của bọn kỵ sĩ đang ẩn nấp
kia.
Một cảm giác vô lực và bi phẫn trào dâng trong lòng Kỳ Đốn, thiên tính của
chiến sĩ khiến hắn muốnn quay đầu tử chiến một trận với bọn kỵ sĩ đáng
sợ kia nhưng lý trí nhắc nhở hắn bọn tập kích này có thể vô thanh vô tức giải quyết hết trăm kỵ binh của Tát Áo, lại có thể bắn chết cả trăm thủ hạ của mình thì tuyệt đối không phải cự đạo thông thường trên hoang
nguyên.
Hắn cảm thấy có âm mưu trong chuyện này, bây giờ quan trọng nhất là phải
báo tin cho Thiên tướng Mã Lặc, sau đó thông qua các trạm canh ở biên
giới, báo tin đến Tây tuyến đại doanh cách đó mấy chục dặm.
Hắn lấy một con linh điểu trong chiếc túi đeo ngang hông ra, cột một mảnh vải màu đỏ lên chân nó rồi liệng lên không trung.
Linh điểu vỗ cánh phành phạch bay lên trời.
Kỳ Đốn có phần yên dạ nhưng hắn chợt thấy một đạo ngân quang kỳ dị xuất
hiện ở gần gò đất, ngân quang này tốc độ nhanh như sao băng, lưu lại một tàn ảnh mỹ lệ trên không... Linh điểu đang bay chợt cất tiếng kêu thảm.
Trái tim Kỳ Đốn trầm xuống, linh điểu bị bắn xuyên qua người rơi xuống đất.
Đồng thời vô số nhân ảnh xuất hiện từ các lùm cây bụi cỏ trên gò.
Nhìn thấy tình cảnh này Kỳ Đốn hoàn toàn tuyệt vọng, số lượng địch nhân hơn
xa hắn tưởng tượng, bọn kỵ binh vừa rồi chỉ là một chi lực lượng rất
nhỏ, đại quân chân chính sớm đã ẩn núp trong các lùm cây gần khu rừng.
Hắn cất tiếng thét lớn:"Binh sĩ, mau chóng đột vây, không được ham
chiến, đột vây chạy về báo tin."
Lang quân hoảng loạn chạy ngược trở về trong đêm tối.
Chỉ là con đường phía trước bóng người dày đặc, địch nhân đã phong tỏa tất cả con đường mà Lang quân có thể chạy.
Còn chưa chạy được mấy mét thì mưa tên che kín đất trời từ bốn phía đã ập tới Lang quân.
Lần này mới là tề xạ chân chính, so với mưa tên che trời này thì tề xạ của chi kỵ binh vừa rồi bất quá chỉ là món khai vị.
Kỳ Đốn tuyệt vọng nhìn kình tiễn từ bốn phương bắn tới, xé nát thân thể của mình.
Sau một đợt tên, bốn bề lại trở nên trầm tịch...
.....
"Trưởng quan, bọn họ trở về rồi!" Bọn lính canh phát hiện một chi kỵ binh xuất hiện ở trên đầu con đường đen tối.
Lúc nhìn thấy chi kỵ binh này mang quân phục Lang quân, hơn nữa hai tướng
lĩnh đi đầu lại mặc khôi giáp của Kỳ Đốn và Thiết Nặc Phu, binh sĩ trên
vọng gác vội vàng báo tin cho Mã Lặc đang ở bên dưới.
Mã Lặc nghe tin vội trèo lên vọng gác nhìn về chi kỵ binh đó.
Đúng thực là Lang quân, tâm tình căng thẳng của hắn cũng giảm bớt phần nào.
Kỵ binh càng lúc càng tới gần, Mã Lặc đột nhiên phát hiện trên lưng ngựa
có treo mấy cái đầu lâu máu tươi đầm đìa, hơn nữa khôi giáp trên người
cũng khá nhếch nhác, giống như vừa trải qua một trường đại chiến.
Mã Lặc nhìn thấy không còn nghi ngờ gì, vì chỉ có Lang quân mới có tập
quán chém đầu lâu địch nhân đem về báo quân công, hơn nữa bọn Lang quân
này thoạt nhìn rõ ràng là vừa trải qua một trận chiến đấu gian khổ.
"Mở cửa nhanh, để cho họ tiến vào!"
Binh sĩ bên dưới vừa mở cửa thì kỵ binh đã xông thẳng vào đại doanh.
Binh sĩ giục ngựa chạy tán loạn, binh lính trong doanh vội vàng thối lui,
nhất thời bụi bay mù mịt, cả doanh trại trở nên hỗn loạn.
Mã Lặc ở trên cao quát:"Đừng chạy loạn, bị thương thì xuống ngựa. Kỳ Đốn, Thiết Nặc Phu, mau tập hợp đội ngũ!"
Hắn tịnh không phát hiện trong làn khói bụi mịt mù đó có một hắc ảnh phóng
ra, nhân hỗn loạn tiến thẳng về ngọn núi nhỏ ở bên doanh trại, trên ngọn núi nhỏ đó chính là phong hỏa đài.
Tốc độ của hắc ảnh nhanh như chớp giật, sau khi tránh khỏi thị tuyến của
mọi người, chuyển mấy khúc quanh đã phóng lên phong hỏa đài.
Ngay lúc này, bọn kỵ binh xông vào doanh đột nhiên ném ra từng thùng gỗ
không lớn lắm, thùng gỗ bị ném xuống đất vỡ toang, chất lỏng màu vàng
xám chảy ra đầy mặt đất.
Mã Lặc thấy tình huống có chỗ quái dị, vội cao giọng quát:"Kỳ Đốn, ngươi làm gì đó?"
Đáp lời hắn chính là lửa lớn đột nhiên bùng cháy lên khắp đại doanh.
Chất lỏng trong thùng gỗ đó chính là dầu hỏa.
Mã Lặc cuối cũng đã phát hiện chi kỵ binh này không phải là Lang quân.
Tàn sát bắt đầu, kỵ binh giục ngựa chạy điên cuồng, tên bắn loạn xạ, mỗi
một tên Lang quân đều hiện rõ trong ánh lửa không thể nào trốn được.
Trong ánh lửa, Mã Lặc thấy rõ bọn kỵ binh ai cũng mang mặt nạ sặc sỡ và đanh ác.
Ác ma mỉm cười trong đêm.
Kiếm quang, hỏa quang, tiếng la thảm, máu tươi vẽ nên một bức tranh đẹp hoàn mỹ trong đêm đen.
Một trường đồ sát diễn ra, Lang quân dưới sự công kích của bọn lính mang
mặt nạ Ác ma này căn bản chỉ là những con dê chờ mổ thịt.
Mã Lặc ở trên vọng gác nhìn thấy mà chân tay phát lạnh.
Quân tập kích đáng sợ này rốt cục là từ đâu tới? Từ trận hình chỉnh tề và
phối hợp hoàn mỹ có thể nhìn ra chúng chính là quân chính quy, nhưng mà
có quân chính quy nào có thân thủ đáng sợ như vậy, Mã Lặc trước đây từng ở trong Lang nha quân tinh nhuệ nhất Tây tuyến nhưng hắn cơ hồ khẳng
định, cho dù Lang nha quân ở đây, với quân số tương đương với đối phương thì tình huống cũng không tốt hơn bây giờ bao nhiêu.
Hắn cố áp chế nỗi sợ trong lòng, nhìn về phía phong hỏa đài quát lớn:"Châm lửa, phong hỏa đài, mau châm lửa!"
Nhưng hắn thét tới rát cổ mà Phong hỏa đài vẫn im lặng.
Lúc này, hắn nhìn thấy một thân ảnh chợt chỗ cao nhất trên phong hỏa đài,
người này từ trên cao nhìn xuống hắn, cho dù đang là đêm tối nhưng Mã
Lặc vẫn cảm thấy cặp mắt người này như phát ra u quang khiến người ta
nghẹn thở, cơ hồ chỉ mới nhìn mà linh hồn của hắn như bị kéo tuột ra
ngoài thân thể.
Nhân số của Lang quân và quân tập kích cơ bản tương đương nhưng chiến đấu kết thúc lại rất nhanh.
Từ lúc ban đầu chém giết hỗn loạn đến lúc đao kiếm giao kích, rồi cuối
cùng chỉ còn lại ánh lửa cháy rợp trời trong gió đêm chỉ trong một thời
gian rất ngắn.
Mã Lặc sau khi dựa vào địa thế trên cao chống cự một lúc, cuối cùng vẫn bị mấy tên lính chém đứt một cánh tay, đè lăn ra đất.
Có lẽ là nhìn thấy y phục quân quan cao cấp của hắn nên bọn chúng không giết.
Một bóng người cao lớn mặc hắc y từ trên phong hỏa đài đi xuống.
Mã Lặc cố sức ngẩng đầu nhìn, hắn muốn nhìn xem người dẫn quân xâm nhập Thương Nguyệt rốt cục là ai.
Một chiếc mặt nạ thô lậu hung ác hiện ra trong mắt hắn.
"Ma thần tướng quân!"