Cuộc hành trình sang phòng ăn đối với gã là cả một cơn ác mộng. Lúc ngừng, lúc chệnh choạng, lúc nảy người lên, lúc lảo đảo và có lúc lại dường như không thể di động được nữa. Nhưng cuối cùng, gã cũng làm xong được cuộc hành trình ấy, và được người ta sắp ngồi bên cạnh nàng. Những dãy dao nĩa bày ra làm gã kinh hoảng. Chúng tua tủa với những hiểm họa không sao lường trước, gã như bị chúng thôi miên, cho đến khi ánh lóa sáng của chúng biến thành nền cho bao nhiêu hình ảnh của cuộc sống trên boong tàu lần lượt diễn ra: Gã và các bạn cùng nghề ngồi ăn thịt bò ướp muối bằng dao găm và năm đầu ngón tay, hoặc lấy thìa sắt mẻ vục súp đậu đặc quánh đựng trong những ca nhôm. Mùi thịt bò ôi xộc lên mũi, trong khi tiếng nhai nhồm nhoàm hòa theo tiếng cót két của các cột lim của vách gỗ vẳng lên. Gã ngắm nhìn họ ăn và thấy họ ăn như đàn lợn. Ừ, ở đây, gã sẽ phải cẩn thận. Gã sẽ không gây ra một tiếng động nào. Gã sẽ luôn luôn để tâm tới điều đó.
Gã liếc nhìn quanh bàn. Đối diện với gã là Arthur và Norman em trai của Arthur. Họ là anh em ruột của nàng, gã tự nhắc nhủ mình, lòng ấm lên một mối thiện cảm đối với họ. Những người trong gia đình này, sao họ yêu nhau đến thế! Vụt lên trong đầu óc gã hình ảnh của mẹ nàng, cái hôn khi gặp gỡ, hai người tay quàng tay đi về phía gã. Trong cái thế giới của gã có bao giờ bố mẹ và con gái lại biểu lộ tình cảm như thế đâu. Đó là những biểu hiện cao quý trong cuộc sống mà họ đã đạt được trong xã hội thượng lưu. Đó là điều đẹp đẽ nhất, tuy gã chỉ mới thấy một thoáng nhỏ của cái thế giới này. Gã xúc động nhận ra điều đó, trái tim mềm lại trong những tình cảm trìu mến dạt dào. Suốt đời gã khao khát tình yêu. Bản chất gã đòi hỏi tình yêu. Đó là một sự đòi hỏi hữu cơ trong con người gã. Ấy thế mà gã vẫn không có tình yêu và gã trở nên chai cứng với những năm tháng đã sống qua. Gã đã không biết rằng gã cần tình yêu. Cả lúc này nữa gã cũng không hề biết. Gã chỉ thấy nó đang xao động, gã xốn xang vì nó, và nghĩ rằng nó cao đẹp và lộng lẫy quá.
Gã lấy làm mừng vì không có ông Morse ở đây. Làm quen với nàng, mẹ nàng, và Norman, em nàng, cũng đã đủ khó rồi. Arthur thì gã đã biết đôi chút. Lại còn ông bố nữa thì hẳn là quá sức đối với gã, gã chắc thế. Gã thấy trong đời mình, chưa bao giờ vất vả như vậy. So với lần này thì việc làm nặng nhọc nhất cũng chỉ là trò trẻ. Mồ hôi lấm tấm trên trán, áo sơ mi ướt đẫm vì quá gắng sức làm bao điều không quen trong cùng một lúc. Gã phải ăn theo một cái lối mà suốt đời gã chưa từng biết, phải sử dụng những dụng cụ lạ kỳ, phải lén nhìn quanh để biết cách mà làm từng việc mới, vừa phải tiếp nhận những cảm giác như nước lũ đang ùa vào gã, phải thầm ghi nhớ và phân loại. Gã cảm thấy hoang mang, bồn chồn vì lòng khao khát có được nàng và thấy bị kích thích bởi ước muốn đạt tới tầng lớp xã hội thượng lưu mà nàng đương ở, đầu óc lúc lúc lại lan man những ý nghĩ, những dự định mơ hồ làm sao với tới được nàng. Và khi gã lén nhìn Norman ngồi đối diện, hay bất cứ một người nào khác biết chắc phải dùng đến loại dao nĩa nào trong một món ăn đặc biệt nào đó, nét mặt của người đó gây ấn tượng sâu sắc trong trí óc gã và tức khắc gã cố gắng nhận xét, đoán xem như thế là thế nào - tất cả đều vì nàng. Rồi còn phải nói chuyện, nghe những điều người ta nói, những câu chuyện qua lại, và khi cần thiết còn phải trả lời với cái miệng cứ sẵn sàng văng ra một ngôn từ bừa bãi đòi hỏi phải kìm lại. Còn phiền một nỗi nữa là cái anh hầu bàn, thật là một sự đe dọa không ngừng, cứ lúc lúc lại lặng lẽ hiện ra ở bên vai như con quái vật Sphinx khủng khiếp đưa ra những câu đố, câu hỏi hắc búa, đòi phải giải đáp tức thì. Suốt bữa ăn, đầu óc gã cứ bị ám ảnh khi nghĩ tới cái bát nước rửa tay. Thật là phi lý, thật là ám ảnh, biết bao lần gã tự hỏi lúc nào họ sẽ đem chúng ra, và hình thù nó ra làm sao. Gã đã nghe nói đến những thứ như thế, và bây giờ, sớm muộn, chỉ vài phút nữa thôi, gã sẽ thấy chúng; ngồi ở bàn này với những người cao sang vẫn dùng nó, rồi chính gã cũng sẽ dùng nó và điều quan trọng hơn cả, tuy ở sâu thẳm, nhưng lại luôn luôn hiện ra trong ý nghĩ của gã là phải xử sự thế nào với những người này. Thái độ của gã như nên thế nào? Gã đã vật lộn với vấn đề đó không ngừng và đầy lo ngại. Đã có những ý nghĩ hèn nhát bảo hắn phải vờ vịt, phải thủ một vai; và lại có những ý nghĩ hèn nhát hơn bảo gã biết là gã sẽ thất bại trong chuyện này, bản chất gã không thích hợp với cuộc sống như vậy và gã có thể sẽ biến mình thành một thằng hề.
Lúc đầu khi mới vào ăn, phải vật lộn để quyết định về thái độ xử sự nên gã cứ ngồi yên. Gã đâu có dè sự yên lặng của mình đã làm cho những lời nói của Arthur hôm trước đây là không đúng: ông anh này của nàng đã bảo rằng sẽ mang một người rừng về nhà ăn cơm, mọi người đừng lấy thế làm sợ, vì sẽ được thấy một người rừng nhưng rất lý thú. Martin Eden hẳn không bao giờ có thể tin được anh của nàng lại phản phúc như vậy - nhất là chính gã lại là người đã cứu cái ông đặc biệt này thoát khỏi một cuộc ẩu đả không có gì là thú vị. Gã ngồi ở bàn, ngại ngùng thấy mình không thích hợp ở chốn này, nhưng đồng thời càng say mê vì tất cả những điều xảy ra ở chung quanh. Lần đầu tiên gã nhận thấy ăn uống còn là một cái gì hơn một chức năng vì lợi ích thực tế. Gã không nhận ra là mình ăn gì nữa - Đấy chỉ là thức ăn. Gã đang ăn uống say sưa với tình yêu cái đẹp ở trên bàn này, nơi ăn uống là một chức năng thẩm mỹ. Cái đó còn là chức năng tinh thần nữa. Trí óc gã xao động. Gã nghe nhiều từ thốt ra đối với gã là vô nghĩa, nhiều từ khác gã chỉ thấy trong sách, và không một người đàn ông, đàn bà nào gã từng quen biết lại có đủ tầm cỡ trí thức để nói những lời như thế. Khi gã nghe những người trong cái gia đình kỳ diệu này - gia đình nàng, thốt ra những lời ấy, lòng gã vui rộn lên. Chuyện tình lãng mạn, cái đẹp, sức mạnh cao quý trong sách vở đang trở thành hiện thực. Gã đang ở trong trạng thái mê ly khoái cảm hiếm có, trạng thái của một người thấy những ước mỏ bước ra từ những khe kẽ của kỳ ảo và trở thành sự thật.
Chưa bao giờ gã được ở một đỉnh cao của cuộc sống như vậy, và gã nép mình trong hậu trường, lắng nghe, quan sát, thưởng thức, bất đắc dĩ mới trả lời tiếng một "Thưa cô, vâng", "Thưa cô, không" với nàng, và "Thưa bà, vâng", "Thưa bà, không" với mẹ nàng. Gã cố kìm cái thói được rèn luyện trên biển của mình vẫn quen nói "Thưa ngài, rõ", "Thưa ngài, không" khi nói với các anh nàng. Gã cảm thấy như vậy không hợp, và là sự thú nhận địa vị thấp kém của mình - như vậy không ổn nên gã muốn chiếm được nàng. Vả lại, đó cũng là mệnh lệnh của lòng tự trọng. "Trời!" Có lúc gã thầm thốt. "Ta cũng như họ, nếu họ biết nhiều điều mà ta không biết, thì chính ta cũng có thể dạy được họ một chút cơ mà." Nhưng chỉ một lát sau, khi nàng hay mẹ nàng nói với gã "Thưa ông Eden" thì lòng tự tôn hung hãn của gã bị quên phắt đi ngay, mặt gã rạng lên, lòng ấm lại vì thích thú. Gã là một người văn minh, thế đấy, vai sánh vai ngồi dự tiệc với những nhân vật gã đã đọc được trong sách. Chính gã cũng là người trong sách, phiêu lưu qua những trang giấy in, trong những cuốn sách dày gáy da.
Nhưng trong khi gã làm cho lời miêu tả của Arthur là sai lầm, khi tỏ ra là một con cừu hiền lành chứ không phải người rừng thì gã vẫn đang moi óc để tìm một cách xử sự. Gã đâu có phải là một chú cừu hiền lành, và giữ vai kép phụ đâu có hợp với bản chất muốn vươn lên của gã. Chỉ khi nào bắt buộc, gã mới nói, và lúc ấy nó cũng giống như lúc đi tới bàn, ngập ngừng vấp váp, mò mẫm trong cái vốn ngôn từ pha tạp, cân nhắc những từ gã biết là đúng, nhưng lại sợ phát âm sai, vứt bỏ những từ khác gã biết người ta sẽ không hiểu gì, hoặc quá thô bạo, tục tằn. Nhưng gã luôn khổ não nhận thấy sự quá cẩn thận trong cách nói năng này đã biến gã thành một thằng ngốc, ngăn cản không cho gã diễn đạt được những gì nảy ra trong đầu óc gã. Thêm nữa, lòng yêu tự do phóng khoáng của gã xô xát với sự cân nhắc, cũng như cổ gã chà sát vào cái vòng đai hồ cứng của chiếc cổ cồn. Vả lại, gã tin rằng gã không thể kiềm chế mãi được. Bản chất gã vốn là người cương cường trong suy nghĩ, trong cảm xúc, và cái tinh thần sáng tạo nơi gã thôi thúc khẩn thiết. Ý nghĩ hay cảm giác đã nhanh chóng chế ngự gã, quằn quại như trong cơn đau đẻ để thoát ra hình hài cụ thể, gã quên cả bản thân mình, quên cả mình đang ở đâu, và thế là những từ ngữ cũ - cái công cụ phát ngôn gã thông thạo - đã buột ra.
Một lần gã từ chối món gì đó của người hầu bàn, người này làm gián đoạn và quấy rầy ở bên vai gã, gã nói cộc lốc và dằn mạnh: "Pew!"
Tức thì mọi người xôn xao, chờ đợi, người hầu bàn cười thầm, còn gã ngượng chín người. Nhưng gã trấn tĩnh được ngay:
"Đấy là tiếng Kanaka, nghĩa là "xin đủ."" Gã giảng giải. "Tôi cũng chỉ buộc mồm nói tự nhiên. Đánh vần là pa-a-o."
Gã bắt gặp đôi mắt tò mò và dò hỏi của nàng dán vào bàn tay gã, đang lúc hứng giảng giải, gã nói:
"Tôi vừa ở Coast về, trên một chuyến tàu chở thư "Thái Bình Dương." Tàu bị chậm, ở cảng Puget Sound 1 , chúng tôi phải làm quần quật như những người da đen, khuân đủ các thứ hàng tạp pí lù - nếu cô biết nó là thế nào. Chính vì thế mà da tay bị bong."
"Ồ, không phải thế đâu," đến lượt nàng vội giảng giải. "Đôi bàn tay ông hình như quá bé so với vóc người ông."
Má gã nóng bừng. Gã coi đây lại là một sự phô bày nữa cho người khác thấy những thiếu sót của mình.
"Thưa vâng," gã nói như xua đi, "chúng không đủ to để chịu được lúc cần sức mạnh, với cánh tay và bả vai tôi có thể hích như một con la, chúng khỏe lắm, nhưng khi tôi đấm vỡ quai hàm một thằng nào thì hai bàn tay tôi cũng bị đập luôn."
Gã không vui gì với những điều gã vừa nói. Gã thấy phẫn nộ với chính mình. Gã đã buông lỏng iệng lưỡi nói những chuyện không hay ho gì.
"Ông giúp Arthur như vậy, thật dũng cảm quá, mà ông lại là người không quen biết." Nàng nói khéo, nhận thấy vẻ bối rối trên nét mặt gã tuy không hiểu tại sao.
Về phía gã, gã thấy rõ điều nàng làm, một niềm cảm kích ấm áp dâng lên tràn ngập tâm hồn, gã quên cái miệng lưỡi buông thả của mình.
"Thưa cô, có gì đâu," gã nói. "Ai gặp trường hợp vậy cũng giúp người khác thế thôi. Lũ côn đồ ấy kiếm chuyện gây gổ. Ông Arthur có đụng chạm gì đến chúng đâu. Chúng xô vào đánh ông, thế là tôi xông vào cản chúng, quật ngã mấy đứa. Da tay tôi trợt ra cùng mấy cái răng của mấy thằng. Tôi không thể làm ngơ được. Khi tôi thấy... "
Gã ngừng lời, mồm há hốc, suýt nữa lao xuống vực sa đọa của mình, hoàn toàn không xứng đáng hít thở bầu không khí nàng đang thở. Trong khi Arthur kể lại đây là lần thứ hai mươi câu chuyện gặp gỡ mạo hiểm với bọn côn đồ say rượu trên chuyến phà, và Eden đã xông vào cứu anh như thế nào, thì gã cau mày ngồi suy nghĩ về nỗi ngớ ngẩn của mình, vật lộn một cách quyết liệt xem phải xử sự thế nào với những người ở đây. Cho đến lúc này gã thấy chắc rằng gã đã không thành công. Gã không phải là người trong giai tầng của họ, không thể nói cái thứ tiếng của họ, đó là điều gã tự nhủ mình. Gã không thể giả mạo làm người trong bọn họ được. Trò bịp sẽ thất bại, vả lại, trò bịp xa lạ đối với bản chất gã. Lừa lọc, giả tạo, không có đất dung thân trong con người gã. Dù thế nào gã vẫn phải nói thật. Gã quyết như thế. Nhưng trong khi đó gã phải nói và phải là lối nói của gã, tất nhiên phải bớt gay gắt, sao cho họ hiểu được và không làm họ quá chướng tai. Hơn nữa, gã không tự cho, dù là thầm kín chăng nữa, là gã đã quen với cái gì thực ra gã không quen. Để thực hiện điều quyết định này, khi nghe hai anh em cô ta nói những chuyện học tập ở trường đại học, nhắc đi nhắc lại nhiều lần danh từ "lượng," Martin Eden liền hỏi:
"Lượng là cái gì?"
"Lượng giác học," Norman nói, "một môn toán cao cấp."
"Toán là cái gì nhỉ?" Gã hỏi tiếp, và câu hỏi làm Norman phá ra cười.
"Toán học, số học ấy mà." Norman trả lời.
Martin Eden gật đầu, gã đã thoáng thấy những viễn tượng tri thức rõ ràng là vô bờ bến. Những cái gã nhìn thấy đều đã trở thành những thực thể. Nhãn quan phi thường của gã biến cái trừu tượng thành cụ thể. Trong lò luyện kim của trí óc gã, lượng giác, toán học, và tất cả lĩnh vực trí thức mà chúng biểu hiện đều biến thành những cảnh trí. Viễn cảnh gã nhìn thấy là viễn cảnh về khóm lá xanh rờn, những khu rừng thưa, tất cả đều sáng sủa dịu dàng hoặc chói lọi hoặc bừng sáng khi tia nắng xuyên qua. Xa xa, cảnh vật bị che phủ và mờ đi trong màn sương đỏ tím, nhưng sau màn sương ấy, gã biết có sự quyến rũ của điều chưa biết tới, là sức cám dỗ của ảo mộng. Đối với gã thật sự như men say. Đây là phiêu lưu mạo hiểm, một việc làm phải cần đến khối óc, bàn tay, một thế giới để chinh phục - và sâu trong tiềm thức gã nổi lên ý nghĩ: phải chinh phục, phải chiếm được nàng - cái linh hồn thanh khiết như bông huệ đang ngồi bên gã.
Ẳo ảnh lóe lên ấy bị Arthur xé tan và làm cho tiêu biến; suốt buổi chiều y tìm đủ mọi cách để khêu gợi làm cho con người rừng Eden lộ chân tướng. Martin Eden nhớ quyết định của mình: lần đầu tiên gã trở lại con người thực của gã, lúc đầu có ý thức và cân nhắc, nhưng chẳng bao lâu sau gã đã đắm say trong niềm vui của sáng tạo, làm cho cuộc sống gã đã từng biết hiện lên trước mắt những người nghe. Gã đã từng là thủy thủ của chiếc thuyền buôn lậu Halcyon khi nó bị một chiếc tàu tuần tra của Sở Hải quan bắt giữ. Gã đã mở to mắt nhìn và gã có thể kể lại những điều đã thấy. Gã mang cả giải đại dương đương cuộn sóng ra trước mắt họ, cùng những con người, những con tàu ngoài biển khơi. Gã truyền cho họ nhãn lực của gã, cho đến tận khi qua mắt gã, họ có thể nhìn thấy cái gì gã đã thấy. Trong cái khối lượng khổng lồ những chi tiết đó, gã đã lựa chọn với những tài hoa của người nghệ sĩ, vẽ lên những bức họa của cuộc đời, ánh lên rạng rỡ với những ánh sáng và sắc màu, truyền vào đó vẻ sống động, khiến người nghe cùng với gã trào lên theo đợt sóng của hùng biện thô kệch, của nhiệt tình, của sức mạnh. Đôi lúc, lối kể chuyện sinh động cùng ngôn ngữ của gã làm cho họ choáng váng, nhưng tiếp liền ngay sự hung bạo luôn luôn là cái đẹp, sự bi thảm được nét hài hước, được lối diễn đạt lắt léo châm biếm, kỳ lạ vốn có của những tay thủy thủ làm dịu đi.
Và trong khi gã nói, nàng nhìn gã với đôi mắt bàng hoàng. Ngọn lửa của gã làm nàng ấm lại. Nàng tự hỏi, những ngày qua mình đã lạnh lẽo quá chăng. Nàng muốn ngã mình vào con người bừng bừng, bốc lửa như hỏa diệm sơn đang phun ra sức mạnh, sự cường tráng và sức khỏe. Nàng cảm thấy phải nghiêng người về phía gã và gắng lắm mới kìm lại được. Nhưng cũng lại có sức mạnh ngược lại thôi thúc nàng lánh xa con người ấy. Đôi bàn tay sần sẹo cáu bẩn vì lao dịch, bụi đời đã ăn sâu vào từng thớ thịt, vết hằn đỏ của vết cổ cồn, những bắp thịt cuồn cuộn kia, tất cả đều đẩy nàng lùi xa. Sự thô bạo của gã làm nàng khiếp sợ; mỗi lời thô bạo của gã là một lời thóa mạ vào tai nàng, mỗi đoạn đời sóng gió của gã là một điều thóa mạ đối với tâm hồn nàng. Nhưng lúc lúc nàng lại cảm thấy sức hút của gã, cho tới khi nàng nghĩ ắt gã phải là ma quỷ thì mới có uy lực chế ngự nàng như thế. Tất cả những gì đã được củng cố vững chắc trong trí óc nàng thì giờ đây đang lung lay. Cuộc sống phiêu lưu lãng mạn của gã đập phá mọi quy ước. Với thái độ của gã trước những nỗi hiểm nguy thản nhiên sẵn sàng cười lớn, thì đời không còn là một chuyện phải nghiêm túc, gắng công cố sức, phải kiềm chế mà chỉ là thứ đồ chơi để đùa rỡn, xoay lộn, sống và hưởng thụ, cũng như vứt bỏ đi là chuyện thường không đáng phải quan tâm lo nghĩ. "Thế thì hãy đùa rỡn đi!" Tiếng kêu ấy rung vang trong cơ thể nàng. "Hãy ngả vào gã đi, nếu người muốn và hãy đặt đôi tay của ngươi lên cổ hắn." Nàng muốn hét lên trước cái ý nghĩ liều lĩnh ấy, và cố đề cao sự trong sạch, vốn văn hóa của mình, đem so sánh cái mình có với cái gã không có, nhưng cũng vô ích thôi. Nàng liếc quanh, thấy mọi người nhìn gã như bị cuốn hút; nàng sẽ thất vọng nếu không nhìn thấy vẻ kinh hoàng trong ánh mắt mẹ nàng - một sự kinh hoàng như bị mê hoặc, đúng thế, nhưng vẫn là kinh hoàng. Con người kia, từ thế giới tăm tối bên ngoài tới đây, hẳn là ma quỷ. Mẹ nàng đã nhìn thấy, và mẹ nàng đúng. Nàng sẽ tin ở sự xét đoán của mẹ nàng trong việc này, như nàng đã tin bà trong tất cả mọi việc. Ngọn lửa của gã không còn ấm nữa, nỗi sợ hãi của nàng đối với gã không còn ghê gớm nữa.
Lát sau, bên chiếc dương cầm, nàng dạo đàn cho gã nghe, thách thức gã với ý định mơ hồ muốn nhấn mạnh lĩnh vực ngăn cách không sao vượt qua nổi giữa hai người. Bản nhạc nàng dạo là một chiếc gậy nàng vung lên tàn nhẫn giáng vào đầu gã, và dù nó có làm cho gã choáng váng, gục ngã, nhưng vẫn kích động gã. Gã nhìn nàng hãi hùng. Trong trí óc gã cũng như trong nàng, vực thẳm cứ rộng mãi ra, nhưng tham vọng của gã còn trỗi dậy nhanh hơn để vượt qua. Gã là người có nhiều xúc cảm quá phức tạp, không thể ngồi suốt tối ngắm mãi vực thẳm đó, nhất là lại có âm nhạc. Gã dễ cảm thụ với âm nhạc một cách kỳ lạ. Nhạc như rượu mạnh, kích thích gã có những cảm nghĩ mạnh dạn, như một liều thuốc thấu nhập trí tưởng tượng của gã, đưa gã bay bổng qua mây trời. Nhạc xua đi cái sự thật lãng mạn buông thả, chắp cánh cho nó bay lên. Gã không hiểu được điệu nhạc nàng chơi. Nó khác hẳn với những tiếng đập trên dương cầm, tiếng kèn đồng om sòm rầm rĩ mà gã đã từng nghe trong các tiệm nhảy. Nhưng những nét nhạc này gã thoáng thấy nhắc đến trong sách, gã lĩnh hội chủ yếu bằng niềm tin, thoạt đầu còn kiên nhẫn chờ đợi những nhịp điệu vui nhẹ của tiết tấu giản đơn minh xác, gã bỡ ngỡ, bối rối khi thấy những nhịp ấy không kéo dài. Đúng lúc gã bắt được những âm điệu ấy, trí tưởng tượng sắp hòa vào để bay bổng thì lập tức những âm điệu ấy lại tan đi trở thành một mớ âm thanh hỗn độn vô nghĩa đối với gã để trí tưởng tượng của gã như một khối bất động rơi độp trở lại mặt đất.
Có lúc, gã thoáng nghĩ đấy là sự cự tuyệt cố ý. Gã hiểu rõ ý chống đối của nàng, cố đoán những điều thoát ra từ đôi tay nàng, gõ trên phím đàn. Rồi gã lại gạt những ý nghĩ ấy đi, cho rằng không xứng đáng, không thể có, và lắng mình hơn vào tiếng nhạc. Niềm khoái cảm ban đầu lại choán ngợp gã. Bàn chân gã như không chấm đất (không còn là cơ thể nữa), thân xác gã biến thành linh hồn; xung quanh gã ngời lên ánh hào quang vĩ đại; cảnh vật trước mắt gã mờ dần, gã phiêu diêu trong một thế giới vô cùng thân thiết. Bao điều chưa biết và đã biết hòa lẫn trong đám rước lộng lẫy của giấc mơ, rộn ràng kéo đông nghịt trong tư tưởng của gã. Gã đi vào những hải cảng xa lạ ở những miền đầy ánh mặt trời, bước chân qua những khu chợ giữa đám người man rợ chưa ai từng thấy. Hương vị của những đảo đầy hương liệu xông lên mũi gã mà gã đã từng biết trong những đêm ấm trời gió lặng ngoài biển, hay những ngày dài dằng dặt miền nhiệt đới, thuyền gã vượt sóng ngược chiều gió mậu dịch - đông nam trên biển màu ngọc bích; những đảo san hô phủ đầy cây cọ khuất dần sau con thuyền hoặc nhô lên phía trước. Những bức tranh đến và đi nhanh như ý nghĩ. Lúc thì gã cưỡi trên con ngựa dữ hay qua miền "Xa Mạc Rực Rỡ" 2 đầy màu sắc thần tiên; lúc qua màn hơi nóng rung rinh gã nhìn xuống ngôi mộ cổ đá trắng của thung lũng Tử Thần 3 , hay gã đang đẩy mái chèo trên một đại dương giá lạnh có những núi băng sừng sững, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Gã nằm trên một bãi biển san hô, có những rặng dừa trĩu quả sát xuống tận mặt sóng rì rào. Xác một chiếc tàu đắm được đốt lên, bốc ánh lửa xanh, trong ánh lửa những vũ nữ nhảy điệu Hula 4 theo tiếng hát man rợ gọi người yêu của những gã ca sĩ, hòa cùng tiếng đàn "Ukelelo" 5 lanh lảnh và tiếng trống bập bùng. Đó là một đêm miền nhiệt đới đầy khoái cảm, xa xa là một hỏa diệm sơn rọi bóng lên nền trời đầy sao. Trên cao lơ lửng vành trăng lưỡi liềm vàng nhạt, ngôi sao Hôm rực sáng nơi chân trời.
Gã là một chiếc thụ cầm, cuộc sống gã đã kinh qua và những điều gã nhận thức được là dây đàn: sóng nhạc là gió thổi vào đường dây làm rung lên bao ký ức và ước mơ. Gã không chỉ cảm thấy. Cảm giác của gã đã biến thành hình thể, màu sắc, ánh sáng và những gì trí tưởng tượng của gã dám mơ ước tới đều trở nên cụ thể một cách cao siêu, kỳ diệu. Quá khứ, hiện tại và tương lai hòa nhập; và gã cứ ngất ngư trong cuộc hành trình qua cái thế giới mênh mông ấm áp, trong cuộc phiêu lưu với những hành động cao thượng vì Nàng - Ừ, cùng với nàng, chiếm được nàng, nâng nàng trong vòng tay và mang nàng bay bổng qua thiên đường của trí óc.
Và nàng quay lại liếc nhìn gã qua vai, đã thấy đôi điều trên nét mặt gã. Đó là bộ mặt rạng rỡ khác thường, đôi mắt mở to long lanh, nhìn thấu qua bức màn âm thanh, thấy sau đó mạch đập rộn ràng của cuộc sống và những ảo tưởng khổng lồ của tinh thần. Nàng giật mình. Con người thô lỗ, sống sượng, lúng túng đã biến đi rồi. Bộ y phục không hợp khổ người, đôi bàn tay bong dập, bộ mặt rám nắng vẫn còn kia; nhưng tất cả những cái đó hình như là những chấn song tù, qua đó nàng nhìn thấy một tâm hồn vĩ đại đang muốn vượt ra, ấp úng, câm lặng vì đôi môi mềm yếu không thốt được nên lời. Nhưng nàng chỉ thấy điều đó trong giây lát thoáng qua, rồi con người cục mịch lại trở lại và nàng cười cái ý thích nhất thời tưởng tượng của mình. Nhưng cảm giác của giây phút thoáng qua ấy vẫn vương vấn, khi gã lúng túng đứng dậy từ biệt ra về, nàng đã cho gã mượn tập thơ của Swinburne và một tập thơ khác của Browning 6 - Nàng đang nghiên cứu Browning trong môn học Anh ngữ. Gã đứng đó như một chú bé mặt đỏ dừ, ấp úng cảm ơn, khiến nàng thấy trào lên trong lòng một niềm thương, tình thương của người mẹ. Nàng không còn nhớ con người thô kệch, không còn nhớ cái linh hồn bị giam hãm, không còn nhớ cái anh chàng đã nhìn nàng chằm chằm với tất cả chất đàn ông, làm nàng vừa say mê vừa khiếp sợ. Nàng chỉ còn thấy trước mặt mình một cậu bé, bắt tay nàng với bàn tay đầy chai sần sùi như cái nạo dừa, làm ráp làn da tay nàng, mồm ấp úng hổn hển:
"Đây là lúc sung sướng nhất đời tôi. Cô biết đấy, tôi chưa quen... " Gã nhìn quanh lạc lõng "... với những người và những gia đình như nhà ta đây. Đối với tôi, nó lạ quá, tôi rất thích... "
"Tôi mong ông lần sau ghé lại chơi," nàng nói khi gã chào Arthur và Norman.
Gã đội mũ lưỡi trai, loạng choạng qua ngưỡng cửa và đi khuất.
"Thế nào, em thấy hắn ra sao?" Arthur hỏi.
"Hay lắm, như một luồng khí "ozon"" nàng trả lời. "Anh ta bao nhiêu tuổi?"
"Hai mươi, xấp xỉ hai mươi mốt. Anh vừa hỏi hắn chiều nay. Không ngờ hắn lại trẻ thế?"
Mình hơn anh ta ba tuổi, nàng thầm nghĩ khi hôn Arthur và Norman để về phòng ngủ.
Chú thích:
1, Một hải cảng thuộc Thái Bình Dương gần Tây bắc Washington.
2, Painted desert: một sa mạc phía bắc bang Arizona.
3, Death Valey: một thung lũng ở California, điểm thấp nhất là 275 feet (1feet = 0.342m) dưới mực nước biển.
4, Điệu nhảy của phụ nữ Hawaii.
5, Một loại ghita nhỏ, rất phổ biến ở những hòn đảo Hawaii.
6, Robert Browning (1812 - 1889): nhà thơ Anh.