"Họ chết cả rồi". Xơ Sandarine nói lắp bắp vào điện thoại trong căn phòng ở nhà thờ Saint-Sulpice. Bà để lại một lời nhắn ở một máy trả lời tự động: "Làm ơn cầm máy! Họ chết cả rồi!".
Ba số điện thoại đầu tiên trong danh sách đều mang đến những kết quả hãi hùng một quả phụ lên cơn thần kinh, một thám tử làm việc muộn tại hiện trường vụ giết người và một linh mục buồn bã đang an ủi một gia đình mất mát. Cả ba người cần liên hệ đều đã chết. Và giờ đây, khi bà gọi số điện thoại thứ tư, số cuối cùng bà không được phép gọi số này trừ phi không thể liên lạc được với ba người đầu tiên kia bà nghe thấy máy trả lời tự động. Người đi vắng không nêu tên, chỉ đơn giản yêu cầu người gọi điện để tin nhắn lại.
"Ô đá nền nhà đó đã bị đập vỡ!" bà phân vua khi để lại tin nhắn. "Ba người kia đã chết".
Xơ Sandrine không biết gì về nhân thân của bốn người đàn ông mà bà bảo vệ, nhưng những số điện thoại nhà riêng của họ được bà cất giấu dưới giường ngủ chỉ để sử dụng trong một trường hợp duy nhất.
Nếu ô đá nền nhà đó bị đậpvỡ, người liên lạc vô diện mạo đã nói với bà qua điện thoại, điều đó có nghĩa là trên cấp cao đã vỡ một mảng. Một người trong chúng tôi bị cái chết đe doạ và buộc phải thốt ra một lời nói dối tuyệt vọng. Hãy gọi những số điện thoại này. Cảnh báo những người khác. Đừng quên gọi chúng tôi.
Đó là một hồi chuông báo động câm lặng. Rõ rành không thể hiểu sai trong sự đơn giản của nó. Kế hoạch đó đã làm bà ngạc nhiên khi lần đầu tiên bà nghe thấy nó. Nếu nhân thân của một thành viên có nguy cơ bị hại, ông ta có thể nói dối, điều đó sẽ khới động một cơ chế cảnh báo những người khác.
Tuy nhiên đêm nay, hình như có hơn một người bị hại.
"Làm ơn hãy trả lời", bà thì thầm sợ hãi. "Ông ở đâu?".
"Gác điện thoại lên", một giọng trầm vang lên từ cửa ra vào.
Quay lại kinh hãi, bà nhìn thấy gã thầy tu to lớn. Hắn đang nắm chặt cái chân cắm nến bằng sắt nặng. Run rẩy, bà đặt lại ống nghe.
"Họ chết rồi", gã thầy tu nói, "cả bốn người. Và bọn họ đã chơi ta như một thằng ngốc. Hãy nói cho ta biết viên đá đỉnh vòm ở đâu".
"Tôi không biết!" Xơ Sandrine nói thành thực. "Bí mật đó do những người khác canh giữ". Những người khác đã chết.
Gã kia tiến đến, hai bàn tay trắng bệch vẫn nắm chặt chân nến bằng sắt: "Ngươi là một nữ tu của Nhà Thờ, vậy mà ngươi lại phục vụ bọn chúng?".
"Chúa Jesus chỉ có một thông điệp chân chính duy nhất", Xơ Sandrine thách thức. "Ta không thể thấy thông điệp ấy nơi Opus Dei".
Một cơn cuồng nộ đột ngột bùng nổ sau mắt gã tu sĩ. Hắn lao tới, quật cái chân cắm nến xuống giống như quật một chiếc gậy đánh gôn. Khi Xơ Sandrine gục xuống, cảm giác cuối cùng của bà là một thứ linh tính choán ngợp báo trước điều chẳng lành.
Tất cả bốn người đều đã chết.
Sự thật quý giá thế là vĩnh viễn mất.
Chuông báo động ở đầu đằng đông Cánh Denon đã làm những con bồ câu ở Vườn Tuileries gần đó bay tán loạn khi Langdon và Sophie lao khỏi tường ngăn hoà vào đêm Paris. Khi họ chạy qua quảng trường đến chỗ ôtô của Sophie, Langdon có thể nghe thấy còi xe cảnh sát rú ở đằng xa.
"Nó kia", Sophie nói, chỉ tay về phía một chiếc xe hai chỗ mui bẹt màu đỏ đậu ở quảng trường.
Cô ấy đùa, đúng không? Đó có lẽ là chiếc ô tô bé nhất mà Langdon từng thấy.
"Một chiếc SmartCar đấy", cô nói. "Một trăm kilômét mới tốn một lít xăng".
Langdon vừa gieo mình xuống ghế hành khách thì Sophie đã phóng chiếc SmartCar vào một con đường rải sỏi. Ông níu chặt lấy bảng điều khiển khi chiếc xe lao qua vỉa hè rồi chồm lên ngoặt vào bùng binh nhỏ ở chỗ Carrousel du Louvre.
Trong khoảnh khắc, Sophie dường như định đi tắt, cắt ngang bùng binh bằng cách phi thẳng xe qua hàng rào quanh bùng binh trung tâm, rồi cắt ngang thảm cỏ lớn ờ giữa.
"Không?". Langdon hét lên, biết rằng những hàng rào xung quanh Carrousel du Louvre được dựng lên để che cái khoảng trống nguy hiểm ở trung tâm - La Pyramide Inversée cửa trời của Kim tự tháp đảo ngược mà trước đó ông nhìn thấy từ bên trong bảo tàng. Nó đủ rộng để nuốt chửng chiếc xe SmartCar của họ chỉ trong một ngoạm. May mắn thay, Sophie quyết định đi theo một tuyến thông thường hơn, đánh riết tay lái về bên phải, cua đúng cách cho đến khi cô ra khỏi đó, rẽ trái, rồi lao vào làn đường phía bắc, tăng tốc về phía phố Rivoli.
Những hồi còi nhị thanh của xe cảnh sát réo càng ngày càng to sau lưng họ, lúc này Langdon có thể thấy ánh đèn xe cảnh sát trong chiếc gương chiếu hậu phía ghế ngồi của ông. Động cơ chiếc SmartCar rít lên phản đối khi Sophie thúc nó đi khỏi bảo tàng Louvre nhanh hơn. Khoảng năm mươi mét trước mặt, đèn giao thông chuyển sang đỏ ờ phố Rivoli. Sophie rủa thầm và tiếp tục lao về phía đó. Langdon cảm thấy các cơ co chặt lại.
"Sophie!".
Chiếc xe hơi chậm lại chút xíu lúc đến ngã tư, Sophie bật đèn pha rồi liếc nhanh một cái về cả hai ngả trước khi lại dận ga và rẽ trái cắt ngọt qua ngã tư trống trải để đi vào phố Rivoli. Tăng tốc đi theo hướng tây thêm một phần tư dặm nữa, Sophie rẽ phải quành một bùng binh rộng. Chắng mấy chốc họ đã lao nhanh qua phía bên kia trên đại lộ Champs-Elysées thênh thang.
Khi xe chạy thẳng rồi, Langdon mới xoay người trên ghế, nghển cổ nhìn qua cửa sau về phía bảo tàng Louvre. Cảnh sát hình như không săn đuổi họ nữa. Cả một biển nhấp nháy những ánh đèn xanh tập trung ở bảo tàng.
Cuối cùng, nhịp tim của Langdon chậm lại, ông quay về tư thế cũ: "Thật thú vị".
Dường như Sophie không nghe thấy. Mắt cô vẫn dán về phía trước, vào đại lộ Champs-Elysées dài hun hút dãy cửa hàng sang trọng trên suốt hai dặm thường được mệnh danh là Đại lộ Thứ Năm của Paris. Đại sứ quán Mỹ chỉ cách đây khoảng một dặm, và Langdon ngồi ngay ngắn lại trong chiếc ghế của mình.
So dack the con of man (Trò lừa bịp đen tối của con người)
Sự nhanh trí của Sophie thật đáng kinh ngạc.
Madonna of the Rocks.
Sophie đã nói rằng ông cô để lại một cái gì đó sau bức tranh.
Một lời nhắn tối hậu? Langdon không khỏi ngạc nhiên thán phục chỗ cất giấu xuất sắc của Saunière, bức Madonna of the Rocks là một khâu khác ăn khớp trong chuỗi biểu tượng tương liên đêm nay. Saunière dường như từng bườc một khẳng định niềm say mê của ông đối vởi khía cạnh bí ẩn và tinh quái của Leonardo Da Vinci.
Đơn đặt hàng ban đầu cho bức Madonna of the Rockscủa Da Vinci đến từ một tổ chức gọi là Hội Trinh Khiết Hoài Thai, họ cần một bức giữa cho bộ tranh ba tấm đặt ở ban thờ trong nhà thờ San Francesco của họ tại Milan. Các nữ tu sĩ đưa ra cho Leonardo kích thước cụ thể và chủ đề họ mong muốn dành cho bức tranh - Đức Mẹ đồng trinh Mary, thánh John Người rửa tội buồi sơ sinh, Uriel và Chúa hài đồng Jesus nằm trong hang.
Mặc dù Da Vinci đã làm như họ yêu cầu, nhưng khi ông hoàn trả tác phẩm, bọn họ lại phản ứng một cách sợ hãi. Ông đã đưa vào bức tranh đầy những chi tiết bùng nổ và xáo động.
Bức tranh vẽ Đức Mẹ đồng trinh Mary mặc áo choàng xanh ngồi ôm một đứa bé mới sinh, được cho là Chúa hài đồng. Uriel ngồi đối diện với Đức Mẹ đồng trinh Mary, cũng ôm một đứa trẻ, được cho là John - Người rửa tội thủa hài nhi. Thật kỳ lạ, thay vì theo kịch bản Chúa Jesu ban phước cho John như thông thường, ở đây chính John lại là người ban phước cho Jesus… và Chúa Jesus thì đang chịu phép của John! Rắc rối hơn nữa, Đức Mẹ Mary lại giơ cao một tay trên đầu John và thể hiện một cử chỉ doạ nạt rõ ràng - những ngón tay bà trông như móng một con đại bàng đang quắp một cái đầu vô hình. Cuối cùng là hình ảnh đáng sợ nhất và rõ ràng nhất: ngay phía dưới những ngón tay quắp chặt của Đức Mẹ Mary, Uriel đang vung tay làm một động tác cắt - như thể cắt cổ cái đầu vô hình bị quắp bởi những ngón tay giống móng đại bàng của Đức Mẹ Mary.
Những sinh viên của Langdon luôn luôn hứng thú khi biết rằng cuối cùng Da Vinci đã xoa dịu Hội Trinh Khiết Hoài Thai bằng cách vẽ cho họ một phiên bản thứ hai có giảm "đô" của bức Madonna of the Rocks, trong đó mọi nhân vật đều được sắp xếp một cách chính thống hơn. Hiện nay, phiên bản thứ hai này được treo tại Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia London dưới cái tên Virgin of the Rocks (Đức Mẹ đồng trinh trên núi đá), mặc dầu Langdon vẫn thích bản gốc ở bảo tàng Louvre hơn với tính khác lạ hấp dẫn của nó.
Khi Sophie cho xe phóng trên đại lộ Champs-Elysées, Langdon hỏi: "Bức tranh ấy. Có cái gì đằng sau nó vậy?".
Mắt cô không rời khỏi con đường: "Tôi sẽ cho anh xem khi chúng ta thật sự an toàn trong đại sứ quán".
"Cô sẽ cho tôi xem?" Langdon ngạc nhiên. "Ông ấy để lại cho cô một vật thể?".
Sophie gật đầu: "Với một bông hoa loa kèn và kí tự P.S. chạm nổi".
Langdon không thể tin vào tai mình.
***
Chúng ta sắp thành công, Sophie nghĩ khi lái ngoặt chiếc SmartCar sang phải, xoẹt qua khách sạn Crillon sang trọng, đi vào khu vực ngoại giao của Paris với những hàng cây ven đường. Đại sứ quán còn cách chỗ này chưa đầy một dặm. Cuối cùng, cô cũng cảm thấy như mình có thể hít thở bình lhường trở lại.
Cả trong khi lái xe, đầu óc Sophie vẫn không dứt khỏi chiếc chìa khoá trong túi, hồi ức về chuyện thấy nó bao năm về trước - đầu chìa bằng vàng hình thánh giá bốn cánh bằng nhau, thân chìa hình trụ tam giác, những khía răng cưa, con dấu hình hoa khắc nổi và hai kí tự P.S.
Mặc dầu Sophie hiếm khi nghĩ về chiếc chìa khoá trong bao nhiêu năm qua, nhưng công việc trong một cộng đồng tình báo đã dạy cô nhiều về bảo đảm an toàn, và giờ đây hình chạm khắc lạ thường của chiếc chìa khoá không còn quá huyền bí nữa. Một khuôn đúc biến hoá được gia công bằng tia laze, không thể sao lại được. Thay vì những khía răng cưa xoay lẫy khoá, cái mớ nhằng nhịt những lỗ nhỏ được tạo bởi tia laze của chiếc chìa khoá này sẽ được kiểm tra bằng một mắt thần điện tử. Nếu mắt thần này xác nhận những lỗ hình lục giác đó chuẩn xác về cự ly cách sắp xếp và độ quay vòng thì khoá sẽ được mở.
Sophie không hình dung nổi một chiếc chìa khoá như thế này dùng để mở cái gì, nhưng cô cảm thấy Robert có thể nói cho cô biết. Dù thế nào đi nữa, ông ta đã miêu tả chính xác hình khắc nổi của chiếc chìa khoá mà chưa một lần nhìn thấy nó. Hình thánh giá của đầu chìa chứng tỏ nó thuộc về một tổ chức Thiên chúa giáo nào đó, nhưng Sophie không biết một nhà thờ nào dùng loại chìa khoá với khuôn biến hóa gia công bằng laze.
Với lại, ông mình không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo.
Sophie đã thấy bằng chứng về điều đó cách đây mười năm. Thật mỉa mai, chính là một chiếc chìa khoá khác một chiếc chìa khoá bình thường hơn nhiều đã hé lộ bản chất thực sự của ông cô.
Buổi chiều hôm đó thật ấm áp khi cô hạ cánh xuống sân bay Charles de Claulle và vẫy một chiếc taxi về nhà. Nhìn thấy mình, chắc ông sẽ rất ngạc nhiên, cô nghĩ.. Từ trường cao học bên Anh trở về nghỉ xuân sớm hơn thường lệ, Sophie mong đợi gặp ông và kể cho ông tất cả về các phương pháp giải mã mà cô đang học.
Tuy nhiên, khi cô về đến ngôi nhà ở Paris, ông cô không có ở đó. Thất vọng, cô biết ông không ngờ cô về sớm thế và có lẽ đang làm việc ở bảo tàng Louvre. Nhưng bây giờ là chiều thứ bảy, cô chợt nhận ra. Ông hiếm khi làm việc vào những ngày cuối tuần. Vào cuối tuần, ông thường…
Mỉm cười, Sophie chạy thẳng đến gara. Chắc chắn là không có xe ở đó. Bây giờ là cuối tuần. Ông Jacque Saunière không thích lái xe trong thành phố và ông có một chiếc xe chỉ để đến một nơi duy nhất nhà nghỉ của ông ở Normandy, phía Bắc Paris. Sophie sau nhiều tháng ngột ngạt London, đang háo hức được hít thở những mùi hương của thiên nhiên và muốn bắt đầu kỳ nghỉ ngay tức khắc. Trời mới ngả chiều, và cô quyết định đi ngay lập tức để khiến ông bị bất ngờ. Mượn một chiếc ôtô của bạn, Sophie lái về phía Bắc, phóng thẳng vào khu đồi vắng lặng tràn ngập ánh trăng gần Creully. Cô tới nơi chỉ sau mười giờ một chút, lái xe theo con đường riêng dẫn đến nơi nghỉ ngơi của ông. Lối vào dài hơn một dặm, và cô đã đi được một nửa đường trước khi có thể nhìn thấy ngôi nhà qua những hàng cây một toà biệt thự bằng đá to đùng và cũ kỹ toạ lạc trong rừng trên sườn đồi.
Sophie nửa hy vọng thấy ông cô đang ngủ vào giờ này, nửa lại háo hức muốn được thấy ngôi nhà sáng trưng ánh đèn. Tuy nhiên, niềm vui sướng của cô chuyển thành sự ngạc nhiên, khi đến nơi cô nhìn thấy lối đi có đầy ô tô đang đậu - những chiếc Mercedes, BMW, Audis và cả một chiếc Rolls-Royce.
Sophie nhìn chằm chằm một lúc rồi bật cười lớn. Ông mình người ẩn dật trứ danh! Xem ra Jacque Saunière ít ẩn dật hơn nhiều so với cách mà ông thể hiện bề ngoài. Rõ ràng là ông đang tổ chức tiệc tùng trong khi Sophie đi học xa, và bằng vào bề ngoài của những chiếc ô tô, thì một số trong những người có ảnh hưởng nhất của Paris cũng đang tham dự.
Háo hức muốn làm ông mình ngạc nhiên, Sophie hối hả chạy đến cửa trước. Khi cô đến nơi, cô thấy cửa bị khoá. Cô gõ cửa.
Không ai trả lời. Lúng túng, cô đi quanh ngôi nhà và thử xem Cửa sau. Nó cũng bị khoá. Chẳng có lời nào đáp lại cả.
Bối rối, cô đứng một lúc và lắng nghe. âm thanh duy nhất mà cô nghe được là tiếng gió lạnh vùng Normandy đang rền rĩ xoáy qua thung lũng.
Không âm nhạc.
Không tiếng người.
Chắng có gì cả.
Trong im lặng của khu rừng, Sophie vội vàng chạy sang bên sườn nhà, leo lên một đống củi, áp sát vào cửa sổ phòng khách.
Điều cô nhìn thấy bên trong thật vô lý.
"Không có ai ở đây!".
Toàn bộ tầng một của toà nhà vắng ngắt.
Mọi người ở đâu được nhỉ?
Tim đập dồn, Sophie chạy vào nhà chứa củi để lấy chiếc chìa khoá dự phòng mà ông cô giấu kín dưới thùng đựng que mồi lửa. Cô chạy ra đằng trước mở cửa bước vào. Khi cô bước vào căn phòng chờ vắng vẻ, bảng kiểm soát của hệ thống an ninh bắt đầu nháy đèn đỏ một hiệu báo rằng người đi vào có mười giây để nhập đúng mã số trước khi chuông báo động kêu.
Ông để hệ thông báo động hoạt động trong suốt một bữa tiệc. Sophie nhanh chóng nhập mã số và làm hệ thống ngưng phản ứng.
Vào hắn bên trong, Sophie thấy toàn bộ ngôi nhà vắng tanh.
Cả tầng trên cũng vậy. Trở xuống phòng khách trống trơn đó, cô đứng một lúc trong yên lặng, tự hỏi điều gì có thể đang xảy ra đây.
Chính lúc đó Sophie nghe thấy nó.
Những giọng nói rì rầm. Và hình như chúng vắng đến tử phía dưới cô. Sophie không thể tướng tượng được. Cúi xuống, cô áp tai xuống sàn nhà và lắng nghe. Phải, dứt khoát là âm thanh vọng từ dưới lên. Các giọng đó dường như đang hát, hay… đang cầu kinh chăng? Cô sợ. Nhưng có một điều còn kỳ bí hơn cả bản thân âm thanh đó: Cô biết ngôi nhà thậm chí không có tầng hầm?
Ít nhất thì mình cũng chưa bao giờ thấy.
Quay lại và rà soát phòng khách, mắt Sophie bắt gặp một vật duy nhất trong toàn bộ ngôi nhà không ở vị trí cũ một món đồ cổ yêu thích của ông - tấm thảm Anbusson. Nó thường được treo ở bức tường phía đông cạnh lò sưởi, nhưng đêm nay, nó đã bị kéo về một phía, để lộ bức vách phía sau.
Bước về phía bức vách gỗ trần trụi, Sophie cảm thấy tiếng đọc kinh càng lớn dần. Do dự, cô áp tai vào vách gỗ. Những âm thanh lúc nãy rõ ràng hơn. Rõ ràng là người ta đang cầu kinh… ngâm nga những từ mà Sophie không thể nào hiểu được.
Không gian đằng sau bức vách là một khoảng trống!
Sờ xung quanh gờ những miếng ván, Sophie thấy một quả đấm cửa thụt vào trong. Nó được chế tác rất kín đáo. Một cánh cửa trượt. Tim đập thình thịch, cô đặt ngón tay vào khe và kéo ra. Chính xác và êm ru, tấm vách nặng trượt sang một bên. Từ bóng tối phía bên kia, những giọng nói vang lên.
Sophie lách qua cánh cửa và thấy mình đứng trên một cầu thang bằng đá đục thô xoáy theo hình trôn ốc xuống dưới. Cô đã đến ngôi nhà này từ lúc còn bé, mà không hề biết là có chiếc cầu thang này.
Càng xuống, không khí càng mát lạnh. Những giọng nói mỗi lúc một rõ hơn. Lúc này, cô nghe thấy cả giọng nam lẫn giọng nữ. Tầm nhìn của cô bị vòng xoáy của cầu thang hạn chế, nhưng lúc này, bậc cuối cùng đã hiện ra. Bên kia bậc này, cô có thể nhìn thấy một mảnh nhỏ của sàn tầng hầm - một khoảng sàn đá bập bùng ánh lửa màu da cam.
Nín thở, Sophie nhích xuống một vài bậc nữa và cúi xuống để nhìn. Phải mất vài giây, cô mới nhận ra cái mà cô đang nhìn.
Căn phòng là một hang đá một khoang thô nhám dường như được đục từ khối đá granit của sườn đồi này. Nguồn ánh sáng duy nhất đến từ những cây đuốc cắm trên tường. Trong ánh lửa, trên dưới ba mươi người đứng thành vòng tròn giữa phòng.
Mình đang mơ, Sophie tự nhủ. Một giấc mơ. Còn có thể là gì khác được chứ?
Mọi người trong phòng đều đeo mặt nạ, phụ nữ mặc áo thụng mỏng tang màu trắng, đi giầy vàng óng. Mặt nạ của họ màu trắng, họ cầm một quả cầu vàng trong lòng bàn tay. Đàn ông mặc áo chùng đen dài, và mặt nạ của họ màu đen. Trông họ giống những quân cờ vua trên một bàn cờ vua khổng lồ. Mọi người đứng trong vòng tròn đều lắc lư người từ trước ra sau và kính cẩn cầu khấn một vật gì trên sàn trước mặt họ… một vật gì đó mà Sophie không thể nhìn thấy.
Tiếng đọc kinh to dần. Nhanh dần. Đến giờ thì vang rền như sấm. Những người tham gia tiến lên một bước rồi quỳ xuống. Trong khoảnh khắc đó, cuối cùng thì Sophie cũng có thể nhìn thấy thứ mà tất cả bọn họ đang nhìn.
Ngay khi loạng choạng lùi lại vì kinh hoàng, cô đã cảm thấy hình ảnh đó khắc dấu lửa mãi mãi vào kí ức cô. Lên cơn buồn nôn, Sophie quay người, bám chặt vào bức tường đá khi leo lên cầu thang. Kéo cánh cửa đóng lại, cô chạy trốn khỏi ngôi nhà hoang vắng và lái xe trở về Paris trong một trạng thái mò mẫm đầy nước mắt.
Đêm đó, cảm thấy đời tan nát vì vỡ mộng và bị phản bội, cô đóng gói đồ đạc rồi rới khỏi nhà. Cô để lại một lời nhắn trên bàn ăn.
CHÁU ĐÃ Ở ĐÓ. ĐỪNG CỐ TÌM CHÁU!
Cạnh lời nhắn, cô đặt chiếc chìa khoá dự phòng lấy từ nhà chứa củi của nhà nghỉ.
***
"Sophie!" Giọng Langdon bất chợt xen vào. "Dừng lại! Dừng lại!".
Bứt ra khỏi dòng hồi ức, Sophie dận phanh cho xe dừng đánh kít: "Cái gì? Cái gì xảy ra thế?".
Langdon chỉ con phố dài trước mặt họ.
Nhìn thấy quang cảnh đó, Sophie lạnh cả máu. Khoáng một trăm mét phía trước thôi, ngã tư đã bị chặn bởi hai xe cảnh sát DCPJ đậu xiên xẹo, với mục đích hiển nhiên: Phong toả đại lộ Gabriel!
Langdon thở dài rầu rĩ: "Nghĩa là dêm nay đại sứ quán nằm ngoài tầm của tôi?".
Phía cuối phố, hai nhân viên DCPJ đứng cạnh xe của mình đang nhìn chằm chằm về phía hai người, rõ ràng là rất tò mò về ánh đèn pha vừa đột ngột dừng ở đầu phố.
Được, Sophie quay xe lại rất từ từ đi.
Quay đầu chiếc SmartCar, Sophie thực hiện một cú vòng táo bạo và đổi ngược hướng đi. Khi lái vụt đi, cô nghe thấy tiếng lốp xe rít lên đằng sau. Tiếng còi xe cảnh sát ré lên.
Vừa nguyền rủa, Sophie vửa nhấn ga tăng tốc.
-----------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------