Matthew đangngồi đợi tôi trong căn phòng sưởi nắng của Mary ở lâu đài Baynard vào chiều ngày hôm sau, mắt chăm chú ngắm nhìn sông Thames cùng với nét mặt vui thích. anhxoay lại khi tôi tiến đến, nhoẻn miệng cười trước phiên bản chiếc áo khoác phòng thí nghiệm thời Elizabeth phủ bên ngoài thân và chân váy màu vàng nâu của tôi. Hai tay áo trắng nằm bên dưới thò ra từ hai vai tôi phồng lên mộtcách kỳ cục, nhưng chiếc cổ xếp nếp lại nhỏvà khiêm tốn, khiến nó trở thành mộttrong những bộ váy dễ chịu hơn cả của tôi.
“Mary khôngthể rời khỏi thí nghiệm của côấy. côấy nóichúng mình nên đến đúng giờ ăn tối thứ Hai.” Tôi choàng hai cánh tay quanh cổ anhvà hôn thậtkêu. anhnghiêng ra sau.
“Tại sao em lại có mùi giấm nhỉ?”
“Mary rửa bằng giấm. Nó làm sạch tay anhtốt hơn xà phòng đấy.”
“Em để ngôi nhà của anhbao phủ bằng mùi hương ngọt ngào của bánh mỳ và mật ong, còn nữ bá tước Pembroke lại đem em biến thành mùi như dưa chua thế này.” Mũi Matthew đitới phần da nhạy cảm phía sau tai tôi. anhthở dài mộttiếng thỏa mãn. “anhbiết mình có thể tìm được mộtnơi nào đó cái mùi giấm chua này khôngvươn tới được mà.”
“Matthew,” tôi thìthầm gọi. côhầu gáicủa nữ bá tước, Joan, đangđứng ngay sau chúng tôi.
“Em đangcư xử như mộtthần dân đức hạnh thời Victoria hơn là mộtnhân vật lẳng lơ thời Elizabeth đấy,” Matthew nóivà cười phá lên. anhđứng thẳng người sau mộtcái vuốt ve mơn trớn cuối cùng nơi cổ tôi. “Buổi chiều của em thế nào?”
“anhđãthấy phòng thí nghiệm của Mary chưa?” Tôi thay chiếc áo khoác màu xám khôngra hình dạng gì bằng chiếc áo choàng ngắn tay của mình trước khi cho Joan lui đilàm các nhiệm vụ khác của cô. “côấy chiếm hẳn mộttòa tháp của lâu đài và vẽ lên tường các bức hình của đá tạo vàng. Giống như đanglàm việc trong mộtgiấy da Ripley ý! Em đãnhìn thấy bản sao của Beinecke ở Yale, nhưng nó chỉ dài có nửa mét thôi. Những bức tranh trêntường của Mary còn lớn gấp đôi. thậtkhó mà tập trung vào công việc được.”
“Thí nghiệm của em là gì thế?”
“Bọn em đãsăn sư tử xanh lục,” tôi tự hào đáp, nhắc đến mộtđoạn trong quá trình luyện giả kim trong đó kết hợp hai dung dịch axit và tạo ra sựbiến đổi màu đáng kinh ngạc. “Bọn em gần như đãbắt được nó. Nhưng sau có gì đó sai sót và bình thí nghiệm nổ. thậttuyệt diệu!”
“anhmừng là em khônglàm việc trong phòng thí nghiệm của anh. nóichung, các vụ nổ đều phải tránh khi làm việc với axit nitric. Hai người bọn em có thể làm gì đó ít bay hơi hơn vào lần tới, như chưng cất nước hoa hồng chẳng hạn.” Mắt Matthew nheo lại. “Em khônglàm việc với thủy ngân đấy chứ?”
“Đừng lo. Em sẽkhônglàm bất kỳ điều gì có hại cho bé con đâu,” tôi phòng vệ nói.
“Mỗi lần anhnóiđiều gì về tình trạng sức khỏe của em, là em lại làm ra vẻ sựquan tâm của anhlà lo hão ở đẩu ở đâu ấy.” Hai cánh lông mày của anhnhíu vào nhau thành điệu bộ cau có. Cảm ơn bộ râu và ria đen nhánh của anh– cái này tôi đangbắt đầu quen dần rồi – Matthew trông thậm chí càng có vẻ gia trưởng hơn. Nhưng tôi khôngmuốn tranh cãi với anh.
“Xin lỗi,” tôi nóinhanh trước khi chuyển chủ đề. “Tuần sau bọn em sẽtrộn lẫn mộtmẻ prima materia tươi. Cái đó bên trong có thủy ngân, nhưng em hứa là khôngchạm vào nó. Mary muốn xem xem liệu đến cuối tháng mộtnó có thối rữa thành con cóc trong thuật giả kim không.”
“Cái đó nghe giống mộtmở đầu lễ hội cho năm mới,” Matthew nói, khép chặt chiếc áo khoác trênvai tôi.
“anhđangnhìn gì thế?” Tôi ngó ra cửa sổ.
“Ai đó đangdựng mộtđống lửa trại bên kia sông cho đêm giao thừa. Mỗi lần họ gửi đến mộtxe thùng củi tươi, người dân địa phương lại chôm chỉa những gì có ở đó. Cả đống củi đangnhỏdần đitừng giờ kia kìa. Giống như đangquan sát nàng Penelope dệt vải vậy.”
“Mary đãnóisẽkhôngcó ai làm việc vào ngày mai. Ồ, và chắc chắn phải bảo Françoise mua thêm manchet – đó là bánh mỳ, đúng không? – Và tẩm đẫm nó trong rượu và mật ong để nó mềm lại vào bữa sáng thứ Bảy.” Nó hoàn toàn là bánh mỳ nướng của Pháp thời Elizabeth ngoại trừ cái tên. “Em nghĩ Mary lo em có thể bị đói trong mộtngôi nhà được điều hành bởi những ma cà rồng.”
“Bà Pembroke sẽim lặng mộtcách lịch sựkhi nó liên quan đến các sinh vật khác người và thói quen của họ,” Matthew nhận xét.
“côấy tất nhiên khôngbao giờ nhắc lại chuyện đôi giày của côấy,” tôi trầm ngâm nói.
“Mary Sidney sống sót như mẹ côấy đãlàm: bằng cách nhắm mắt làm ngơ trước mọi sựthậtphiền phức. Những người phụ nữ trong gia đình Dudley đều phải làm vậy.”
“Dudley ư?” Tôi nhíu mày. Đó là mộtgia đình có tiếng xấu hay gây rắc rối – chẳng có gì giống với Mary có phong thái hòa nhã cả.
“Mẹ của quý bà Pembroke là Mary Dudley, mộtngười bạn của Bệ hạ và là chị của người nữ hoàng yêumến, Robert.” Khóe miệng Matthew nhăn lại. “Bà rất xuất chúng, giống như con gáibà. Mary Dudley đãđưa vào đầu bà đầy những ý tưởng để khôngcòn chỗ nghĩ đến tội mưu phản của cha bà, hay sựlầm lạc của những người anhem trai. Khi bà ấy mắc căn bệnh đậu mùa từ đấng toàn năng tối cao của chúng ta, Mary Dudley khôngbao giờ thừa nhận rằng cả nữ hoàng và chồng bà thích sựbầu bạn của những người khác hơn là đối diện với hình dạng xấu xí của bà.”
Tôi dừng lại, choáng váng. “Chuyện gì đãxảy đến với bà?”
“Bà chết trong côđộc và cay đắng, như hầu hết những người phụ nữ nhà Dudley trước bà. Thành công vĩ đại nhất của bà là gả chồng cho côcon gáicùng tên mười lăm tuổi của mình với Bá tước Pembroke bốn mươi tuổi.”
“Mary Sidney kết hôn khi mới mười lăm tuổi ư?” Người phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy sức sống điều hành cả mộtcơ ngơi khổng lồ, nuôi nấng mộtđàn con khỏe khoắn, hiến dâng hết mình cho các thí nghiệm giả kim thuật của cô, tất cả để khôngphải là nỗ lực bề ngoài thôi. Giờ tôi đãhiểu như thế nào. Bà Pembroke trẻ hơn tôi vài tuổi, nhưng ở tuổi ba mươi côấy đãgánh vác những trách nhiệm này mộtnửa cuộc đời rồi.
“Đúng thế. Nhưng mẹ Mary đãcung cấp cho côấy tất cả phương tiện cần thiết để sống sót: kỷ luật thép, mộtý thức sâu sắc về bổn phận, sựgiáo dục tốt nhất mà tiền bạc có thể mua được, mộttình yêuvới thơ ca, và niềm đam mê với giả kim thuật.”
Tôi chạm vào người mình, nghĩ đến sinh mệnh đanglớn dần bên trong tôi. Điều gì sẽcần cho con để sống sót trong thế giới này?
Chúng tôi trò chuyện về hóa học trênđường về nhà. Matthew giải thích rằng pha lê mà Mary ủ như gà ấp trứng đãbị oxy hóa quặng sắt và rằng côấy sẽchưng cất chúng chậm hơn trong bình thí nghiệm để làm axit sunfuric. Tôi luôn thấy hứng thú với chủ nghĩa tượng trưng trong thuật giả kim hơn là các khía cạnh thực hành của nó, nhưng buổi chiều của tôi bên nữ bá tước Pembroke đãcho tôi thấy sựliên kết giữa hai mặt này có thể hấp dẫn, cuốn hút đến nhường nào.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đãan toàn bên trong ngôi nhà Hươu Đực và Vương Miện, tôi đangnhấm nháp mộtthứ thuốc sắc âmấm chế từ bạc hà và tinh dầu chanh. Hóa ra người dân thời Elizabeth đãuống trà, nhưng họ uống tất cả các loại thảo mộc. Tôi đangtrò chuyện sôi nổi về Mary thìnhận thấy nụ cười tủm tỉm của Matthew.
“Có gì buồn cười lắm à?”
“anhchưa từng thấy em như thế này trước đây,” anhbình luận.
“Như thế nào cơ?”
“Vô cùng sinh động – đầy những câu hỏi và thông cáo về những gì em đanglàm, cùng tất cả các kế hoạch em và Mary sẽlàm tuần tới.”
“Em luôn thích được là sinh viên,” tôi thú nhận. “Ban đầu thậtkhó, khôngphải câu hỏi nào cũng có đáp án. Qua nhiều năm em đãquên mất cảm giác vui đến nhường nào khi chẳng có gì ngoài những thắc mắc.”
“Và em cảm thấy tự do khi ở đây, theo cách mà em khôngcó được khi ở Oxford. Những bí mật là mộtcông việc côđộc.” Ánh mắt Matthew đầy cảm thông trong khi những ngón tay anhdi chuyển dọc theo quai hàm tôi.
“Em chưa bao giờ côđộc.”
“Đúng em khôngcôđộc. anhnghĩ em vẫn là thế,” anhdịu dàng nói.
Trước khi tôi kịp đáp lại, Matthew đãkéo tôi ra khỏi chỗ ngồi và quay lưng chúng tôi về phía bức tường bên cạnh lò sưởi. Pierre, người chỉ mộtthoáng trước còn chẳng nhìn thấy đâu, đãxuất hiệnở ngưỡng cửa.
Rồi mộttiếng gõ cửa vang lên. Cơ bắp trênvai Matthew gồng lên, mộtcon dao găm lóe lên trênđùi anh. Khi anhgật đầu, Pierre bước ra đầu cầu thang và mở tung cánh cửa.
“Chúng tôi có mộtlời nhắn từ Cha Hubbard.” Hai tên ma cà rồng đứng ở đó, cả hai đều mặc quần áo đắt giá quá mức đối với những người đưa tin. khôngai trong hai ma cà rồng này quá mười lăm cả. Tôi chưa bao giờ trông thấy mộtma cà rồng thiếu niên và luôn tưởng tượng chắc hẳn phải có những luật cấm chống lại điều đó.
“Ông Roydon.” Tên ma cà rồng cao hơn vuốt đầu mũi và dò xét Matthew bằng đôi mắt màu chàm. Cặp mắt di chuyển từ Matthew sang tôi, và da tôi sởn lên vì lạnh. “Bà.” Bàn tay Matthew siết chặt con dao găm, còn Pierre thìdi chuyển đứng chắn vuông góc giữa chúng tôi và cánh cửa.
“Cha Hubbard muốn gặp các vị,” tên ma cà rồng nhỏhơn nói, tỏ vẻ coi thường món vũ khí trong tay Matthew. “Hãy đến khi đồng hồ điểm bảy giờ.”
“Hãy nóivới Hubbard ta sẽở đó khi nào thích hợp,” Matthew nóigiọng điệu thoáng vẻ căm ghét.
“khôngchỉ ông,” thằng bé cao hơn nói.
“Ta khôngthấy Kit,” Matthew nóicó chút mất kiên nhẫn. “Nếu ông ta gặp rắc rối, ông chủ của ngươi sẽbiết phải tìm người ở đâu, Corner.” Đó có khả năng là tên của thằng bé. Dáng vẻ thiếu niên của nó tất cả đều góc cạnh và sắc nhọn.
“Marlowe đãở cùng với Cha Hubbard cả ngày.” Giọng điệu Corner đầy sựchán nản.
“Thế sao?” Matthew nói, ánh mắt sắc bén.
“Đúng thế. Cha Hubbard muốn phù thủy này,” bạn đồng hành của Corner nói.
“Ta biết rồi.” Giọng Matthew đều đều. mộtcái bóng lờ mờ của màu đen và bạc, con dao găm bóng loáng của anhđangrung lên, điểm đầu tiên, thanh dọc của khung cửa gần mắt Corner. Matthew sải bước về phía họ. Cả hai ma cà rồng đều khôngtình nguyện bước lùi lại. “Cảm ơn về lời nhắn, Leonard.” anhthúc cánh cửa đóng lại bằng mộtbàn chân.
Pierre và Matthew trao đổi mộtcái nhìn dài, câm lặng trong khi bước chân của hai ma cà rồng thiếu niên huyên náo đixuống cầu thang.
“Hancock và Gallowglass,” Matthew ra lệnh. “Ngay lập tức.”
Pierre xoay người ra khỏi phòng, vừa vặn tránh Françoise trong đường tơ kẽ tóc. côấy rút con dao găm từ khung cửa xuống.
“Chúng ta đãcó khách viếng thăm,” Matthew giải thích trước khi côkịp phàn nàn về tình trạng của đồ gỗ trong nhà.
“Chuyện này là thế nào, Matthew?” Tôi hỏi.
“Em và anhsẽphải đến gặp mộtngười bạn cũ.” Giọng anhvẫn đều đều như báo điềm gở.
Tôi đưa mắt nhìn con dao găm, giờ đangnằm trênbàn. “Người bạn cũ này là mộtma cà rồng?”
“Rượu, Françoise.” Matthew tóm lấy mấy tờ giấy, làm đảo lộn trật tự đống đồ đãđược sắp xếp cẩn thận của tôi. Tôi bóp nghẹt mộtlời phản đối khi anhnhấc lên mộtcây bút lông của tôi và viết với tốc độ điên cuồng. anhkhôngnhìn tôi từ khi có tiếng gõ cửa.
“Có máu tươi từ chỗ hàng thịt. Có lẽ ngài nên…”
Matthew ngẩng lên, miệng anhmím chặt thành mộtđường mỏng. Françoise rót cho anhmộtly lớn rượu vang mà khôngcó lời phản đối nào khác. Khi côta làm xong, anhđưa cho hai lá thư.
“Mang cái này tới chỗ Bá tước Northumberland ở Nhà Russell. Lá kia cho Raleigh. anhta sẽở chỗ Sảnh Trắng.” Françoise đingay lập tức, còn Matthew sải bước đến cửa sổ, nhìn chằm chằm ngược lên con đường. Tóc anhrối tung trong cái cổ áo cao bằng vải lanh, và tôi bỗng có mộtthôi thúc muốn vuốt nó lại ngay ngắn cho anh. Nhưng dáng vẻ hai bờ vai anhcảnh báo tôi rằng anhsẽkhôngchào đón mộtcử chỉ chiếm hữu như thế.
“Cha Hubbard ư?” Tôi nhắc anh. Nhưng tâm trí Matthew đangở tận đâu đâu.
“Em sẽlàm mình bị giết chết đấy,” anhcộc cằn nói, lưng anhvẫn quay về phía tôi. “Ysabeau đãcảnh cáo anhrằng em khôngcó bản năng tự bảo toàn. Phải bao nhiêu lần chuyện như thế này xảy ra nữa thìem mới phát triển được bản năng này hả?”
“Giờ em đãlàm gì đâu?”
“Em đãmuốn bị nhìn thấy, Diana,” anhnóimộtcách cay nghiệt. “Than ôi, em đãlàm được.”
“Hãy thôi nhìn ra ngoài cửa sổ đi. Em mệt mỏi vì phải nóichuyện với cái ót của anhrồi.” Tôi khẽ nói, mặc dù rất muốn bóp cổ anhấy. “Cha Hubbard là ai?”
“Andrew Hubbard là mộtma cà rồng. hắnthống trị London.”
“Ý anhlà gì khi nóihắnthống trị London? Có phải tất cả ma cà rồng ở thành phố này đều vâng lệnh hắnkhông?” Trong thế kỷ hai mươi mốt, ma cà rồng ở London nổi tiếng bởi sựtuân thủ bổn phận mạnh mẽ với bày đàn, những thói quen về đêm của họ, và lòng trung thành – hoặc đó là điều tôi được nghe từ các phù thủy khác. khôngkhoa trương, cường điệu như ma cà rồng ở Paris, Venice, hay Istanbul, hay khát máu như những kẻ ở Moscow, New York, và Bắc Kinh, ma cà rồng London là mộtnhóm được tổ chức tốt.
“khôngchỉ ma cà rồng thôi đâu. Phù thủy và yêutinh nữa.” Matthew quay sang tôi, ánh mắt lạnh giá. “Andrew Hubbard vốn là mục sư, mộtkẻ có ít giáo dục nhưng lại có đủ mộtđám lý thuyết để gây rắc rối. hắntrở thành ma cà rồng khi dịch bệnh đầu tiên đến London. Nó đãgiết chết gần nửa thành phố này vào năm 1349. Hubbard sống sót trong làn sóng bệnh dịch đầu tiên, chăm sóc cho người bệnh và chôn cất người chết, nhưng cùng lúc đó hắncũng quỵ ngã.”
“Và ai đó đãcứu ông ta bằng cách biến ông ta thành ma cà rồng?”
“Đúng thế, mặc dù anhchưa bao giờ tìm ra được đó là ai. Có rất nhiều giai thoại, nhưng hầu hết đều về sựhồi sinh thần thánh của hắnta. Khi hắnchắc chắn mình sẽchết, người ta nóihắnđãđào mộtmộ huyệt cho chính mình trong sân nhà thờ và leo vào đó đợi Chúa. Nhiều giờ sau Hubbard đilên và bước ra giữa những người đangsống.” Matthew ngừng lại. “anhkhôngtin hắnhoàn toàn có đầu óc lành mạnh từ khi đó.”
“Hubbard tập hợp lại những linh hồn lạc lối,” Matthew tiếp. “Ngày đó có nhiều khôngđếm xuể. hắnđón nhận họ – trẻ mồ côi, góa phụ, những người đàn ông mất toàn bộ gia đình chỉ trong vòng mộttuần lễ. Những ai bị ốm hắnbiến họ thành ma cà rồng, đặt tên lại và đảm bảo bọn họ có nhà, thức ăn và công việc. Hubbard coi họ như con của hắn.”
“Thậm chí cả phù thủy và yêutinh ư?”
“Phải,” Matthew đáp cộc lốc. “hắnđưa họ qua mộtnghi thức nhận nuôi, nhưng khôngcó gì giống với Philippe đãtrình diễn cả. Hubbard nếm máu của bọn họ. hắntuyên bố nó tiết lộ nội hàm linh hồn bọn họ và cung cấp bằng chứng rằng Chúa Trời phó thác họ cho hắnchăm lo.”
“Nó cũng tiết lộ những bí mật của họ cho hắn,” tôi chậm rãi nói.
Matthew gật đầu. Chẳng trách anhmuốn tôi tránh xa Cha Hubbard này. Nếu mộtma cà rồng nếm máu của tôi, hắnsẽbiết về đứa bé – và ai là cha của nó.
“Philippe và Hubbard đãđạt được mộtthỏa thuận rằng người nhà de Clermont được miễn khỏi nghi thức và bổn phận gia đình của hắn. anhcó lẽ nên nóicho hắnbiết em là vợ anhtrước khi chúng ta bước vào thành phố.”
“Nhưng anhđãlựa chọn khôngnói,” tôi cẩn thận nói, hai tay siết chặt. Giờ tôi đãbiết tại sao Gallowglass yêucầu chúng tôi cập bến ở đâu đó chứ khôngphải dưới chân Hẻm Water. Philippe đãđúng. Có nhiều khi Matthew cư xử như mộttên ngốc – hoặc như mộtgã đàn ông ngạo mạn còn sống.
“Hubbard tránh xa khỏi đường của anh, và anhcũng khôngcản đường hắn. Ngay khi hắnbiết em là mộtngười nhà de Clermont, hắncũng sẽđể em yên.” Matthew phát hiệnthấy gì đó ở dưới đường. “Tạ ơn Chúa.” Những bước chân nặng nề vang lên trêncầu thang, và mộtphút sau Gallowglass cùng Hancock đãđứng trong phòng khách của chúng tôi. “Hai người cũng mất thời gian quá đấy.”
“Xin chào chú, Matthew,” Gallowglass nói. “Vậy cuối cùng Hubbard cũng đãyêucầu mộtcuộc hội kiến. Và trước khi chú đưa ra đề xuất, đừng có nghĩ đến việc dắt mũi hắnbằng cách để côở lại đây. Cho dù kế hoạch là gì, côấy cũng sẽđi.”
khônggiống tính cách vốn có, Matthew cào bàn tay vào mái tóc ngược từ sau đầu ra phía trước.
“Chết tiệt,” Hancock buột miệng, quan sát cả quá trình của những ngón tay Matthew. Làm cho tóc anhdựng ngược hết lên như mào gà là mộtdấu hiệu nhận biết rõràng khác của Matthew – nó có nghĩa là sựlảng tránh đầy sáng tạo và mộtnửa sựthậtđãchấp nhận. “Kế sách duy nhất của anhlà lảng tránh Hubbard. anhkhôngcó kế hoạch nào khác. Chúng tôi khôngbao giờ biết chắc liệu anhlà mộtgã dũng cảm hay là mộtthằng ngốc nữa, de Clermont, nhưng tôi nghĩ chuyện lần này có thể quyết định cho câu hỏi đó rồi – và khôngphải nhờ phước của anhđâu.”
“Tôi định đưa Diana đến chỗ Hubbard vào thứ Hai.”
“Sau khi côấy đãở trong thành phố này mười ngày,” Gallowglass nhận xét.
“khôngcần phải vội. Diana là người nhà de Clermont. Hơn nữa, chúng ta khôngở trong thành phố,” Matthew nóinhanh. Trước ánh mắt bối rối của tôi, anhnóitiếp. “Blackfriars thậtsựkhôngphải là mộtphần của London.”
“Cháu sẽkhôngđivào hang ổ của Hubbard mà tranh cãi về địa lý của thành phố này với hắnlần nữa đâu,” Gallowglass nói, quật đôi găng tay của anhta vào bắp đùi. “hắnđãkhôngđồng ý khi chú đưa chuyện này ra tranh cãi để có thể đóng quân của dòng tu trong Tháp sau khi chúng ta đến giúp đỡ người Lancastrian vào năm 1485, và hắncũng sẽkhôngchấp nhận nó vào thời điểm này đâu.”
“Chúng ta khôngthể để hắnchờ đợi được,” Hancock nói.
“Chúng ta còn rất nhiều thời gian.” Giọng điệu Matthew tùy tiện.
“Chú chẳng bao giờ hiểu các dòng thủy triều cả, Matthew. Cháu cam đoan chúng ta sẽđibằng đường sông, vì chú cũng nghĩ sông Thames khôngthậtsựlà mộtphần của thành phố này. Nếu vậy thì, chúng ta có lẽ đãquá muộn rồi. Chúng ta di chuyển đi.” Gallowglass dứ dứ chỉ ngón tay cái về phía cửa trước.
Pierre đangđợi chúng tôi ở đó, kéo mạnh tấm da màu đen trênhai tay. anhta đãđổi chiếc áo khoác ngắn tay màu nâu bình thường bằng mộtchiếc màu đen đãquá lỗi thời. mộthình bằng bạc phủ trêncánh tay phải: mộtcon rắn cuộn tròn quanh mộtcây thánh giá với hình trăng lưỡi liềm nằm ở góc phần tư phía trên. Đây là dấu hiệu riêng của Philippe, điểm khác duy nhất với cái của Matthew là khôngcó ngôi sao và hoa bách hợp.
Khi Gallowglass và Pierre cũng đãphục trang tương tự, Françoise choàng lên vai Matthew mộtchiếc áo khoác đồng bộ. Những nếp gấp nặng nề của nó quét trênsàn nhà, làm cho anhtrông cao lớn hơn, thậm chí càng nổi bật sắc nét hơn. Khi cả bốn người bọn họ đứng cùng nhau, đó thậtlà mộtcảnh tượng dọa người, nguồn cảm hứng vô tận cho loài người khi mô tả về ma cà rồng khoác áo choàng đen sẫm.
Dưới đáy cùng của Hẻm Water, Gallowglass bao quát những con thuyền đậu sẵn. “Thuyền đó có thể chở tất cả chúng ta,” anhchàng nói, chỉ về phía mộtchiếc thuyền chèo dài và huýt mộttiếng sáo chói tai. Khi người đàn ông đứng cạnh con thuyền đó hỏi chúng tôi định điđâu, anhchàng ma cà rồng đưa ra mộtbản chỉ dẫn phức tạp về lộ trình của chúng tôi, bến thuyền nào chúng tôi sẽlên và ai sẽlà người chèo thuyền. Sau khi Gallowglass rống lên với ông ta, người đàn ông đáng thương co cụm lại gần cây đèn ở mái chèo và thỉnh thoảng lại lo lắng nhìn qua vai.
“Việc dọa mỗi người chèo thuyền chúng ta gặp sợ chết khiếp sẽkhôngcải thiện được quan hệ với những người hàng xóm của chúng ta đâu,” tôi bình phẩm khi Matthew lên thuyền, nhìn về phía xưởng ủ bia bên cạnh. Hancock nhấc tôi lên mà chẳng cần lễ nghi gì rồi giao tôi vào tay chồng. Cánh tay Matthew siết chặt quanh người tôi khi con thuyền lao vút vào dòng sông. Thậm chí người lái thuyền cũng phải thở hắt ra trước tốc độ này.
“khôngcần phải kéo sựchú ý về chúng ta đâu, Gallowglass,” Matthew lạnh lùng nói.
“Chú có muốn chèo thuyền trong khi cháu sẽgiữ ấm cho vợ chú không?” Khi Matthew khôngtrả lời, Gallowglass lắc đầu. “Biết ngay mà.”
Ánh sáng vàng êm ái của những ngọn đèn từ Cầu London xuyên qua bóng đêm ảm đạm phía trước chúng tôi, âmthanh va chạm của con nước khi di chuyển nhanh bắt đầu lớn hơn theo mỗi nhịp chèo của Gallowglass. Matthew đưa mắt nhìn ven bờ sông. “Cập vào cầu thang Thiên Nga Già đi. Ta muốn trở về trênchiếc thuyền này và hướng ngược dòng trước khi thủy triều lên.”
“Khẽ thôi.” Hancock thìthầm lạnh giọng cắt ngang. “Chúng ta đangđịnh chơi trò ú òa với Hubbard. Nhưng ta có thể sẽphải đixuôi Cheapside với trống dong cờ mở vì mấy tiếng ồn ào cậu đangtạo ra đấy.”
Gallowglass quay lại hướng mặt về đuôi thuyền và đẩy mái chèo thậtmạnh hai lần bằng tay trái. Thêm vài lần chèo nữa thìchúng tôi cập bờ – khônggì hơn ngoài mộtchỗ đặt chân ọp ẹp, gắn liền với những cây cột xếp thành hàng – nơi vài người đàn ông đãđợi sẵn. Người chèo thuyền vẫy họ xuống với vài lời cụt lủn hy vọng có thể ra khỏi con thuyền càng nhanh càng tốt.
Chúng tôi leo lên đường và đixuyên qua những con hẻm ngoằn ngoèo trong im lặng, phóng đigiữa những ngôi nhà và băng qua những khu vườn nhỏ. Ma cà rồng di chuyển với dáng vẻ êm như ru của những chú mèo. Tôi di chuyển kém vững vàng hơn, vấp phải đá cuội và giẫm cả vào những vũng nước đọng. Cuối cùng tôi rẽ vào mộtcon đường rộng. Tiếng cười vọng lại từ phía cuối đường, ánh sáng tràn ra con đường từ những ô cửa sổ. Tôi chà xát hai bàn tay vào nhau, cố níu kéo sựấm áp. Có lẽ đó là đích đến của chúng tôi. Có lẽ chuyện này sẽđơn giản thôi, chúng tôi có thể gặp Andrew Hubbard, cho ông ta thấy nhẫn cưới của tôi, rồi trở về nhà.
Matthew dẫn chúng tôi băng qua con phố đivào mộtsân nhà thờ hoang vắng nơi có những tấm bia mộ nằm nối nhau như thể người chết tìm kiếm sựthoải mái từ những người đồng cảnh. Pierre lấy ra mộtcái vòng kim loại cứng đầy chìa khóa, còn Gallowglass tra mộtchìa vào ổ khóa cánh cửa bên cạnh tháp chuông. Chúng tôi đibộ xuyên qua gian giáo đường đổ nát và qua mộtcánh cửa gỗ bên trái bệ thờ. Cầu thang đá hẹp lao thẳng xuống bóng tối bên dưới. Với thị lực giới hạn của sinh vật máu nóng, tôi khôngcó cách nào giữ vững sựchịu đựng của mình khi chúng tôi lượn tròn rẽ qua những lối đihẹp và điqua những nơi rộng hơn sực nức mùi rượu, nước nho ép, và mùi người thối rữa. Trải nghiệm này dẫn thẳng đến những câu chuyện mà loài người kể để làm nhụt chí người ta khôngdám lấn ná trong những tầng hầm và khu nghĩa địa của nhà thờ.
Chúng tôi di chuyển sâu hơn vào mộtkhu vực chằng chịt đường hầm và những căn phòng ngầm bí mật rồi bước vào mộthầm mộ được thắp sáng lờ mờ. Những con mắt sâu hoắm nhìn chằm chằm ra từ những đống xương sọ trong mộtcái hang nhỏđựng hài cốt. mộtsựrung động trong sàn đá và những tiếng chuông nghèn nghẹt báo hiệu ở nơi nào đó phía trênchúng tôi đồng hồ đangđiểm bảy tiếng. Matthew hối thúc chúng tôi đidọc theo mộtđường hầm khác và chỉ vào mộtánh sáng dịu nhẹở phía đằng xa.
Cuối cùng chúng tôi cũng bước vào mộtcăn hầm được dùng để cất trữ rượu dỡ xuống từ các con tàu trênsông Thames. Vài thùng dựng ở cạnh tường, mùi mùn cưa tươi hơn át đimùi rượu cũ. Tôi xem xét kỹ lưỡng nguồn gốc mùi hương trước đó: những chiếc quan tài được xếp chồng gọn ghẽ, sắp đặt theo kích thước từ những cái dài có thể chứa được cả Gallowglass cho tới những chiếc nhỏxíu dành cho đứa trẻ còn ẵm ngửa. Bóng tối di chuyển và chập chờn trong những góc sâu, ở chính giữa căn phòng đangdiễn ra mộtnghi thức của đám đông các sinh vật khác người.
“Máu của con thuộc về cha, Cha Hubbard.” Người đàn ông sợ hãi nói. “Con nguyện trao tặng nó, để cha có thể thấy được trái tim con và thu nhận con vào gia đình của cha.” Im lặng, rồi mộttiếng kêu đau đớn. Sau đó khôngkhí tràn ngập cảm giác căng thẳng chờ đợi.
“Ta chấp nhận món quà của con, James, và hứa bảo vệ con như con của ta,” mộtgiọng nóithô lỗ đáp lời. “Đổi lại con sẽtôn trọng ta như cha của con. Hãy chào các anhchị em của con đi.”
Đám đông xôn xao chào đón, da tôi rợn lên cảm giác lạnh lẽo băng giá.
“Các người đến muộn.” âmthanh lạo xạo cắt ngang tiếng trò chuyện và làm tôi dựng tóc gáy. “Và đivới đầy đủ đoàn tùy tùng, ta thấy rồi.”
“Điều đó là khôngthể, vì chúng tôi khôngcó hẹn trước.” Matthew nắm chặt khuỷu tay tôi trong khi hàng tá ánh nhìn thúc tới, râm ran nhói đau, và làm lạnh buốt da tôi.
Những bước chân nhè nhẹđến gần, mộtvòng tròn quay quanh. mộtngười đàn ông gầy gò, cao lớn trực diện xuất hiệntrước mặt tôi. Tôi đón lấy cái nhìn chằm chằm của hắnmà khôngnao núng, biết rõtốt hơn nên lộ ra vẻ sợ hãi đối với mộtma cà rồng. Đôi mắt Hubbard sâu hoắm bên dưới xương lông mày nặng nề cùng với vân máu xanh lam, xanh lục, và nâu tỏa ra từ hai tròng mắt đen như đá phiến.
Đôi mắt ma cà rồng này là thứ duy nhất có màu sắc trênngười hắn. Nếu khôngthìhắnthậtnhợt nhạt quá mức phi tự nhiên, với mái tóc bạch kim cắt ngắn sát vào xương sọ, gần như khôngnhìn thấy lông mày và lông mi, mộtđường rạch rộng nằm ngang của đôi môi đặt trênmộtkhuôn mặt nhẵn nhụi. Chiếc áo choàng dài màu đen của hắntrông giống như pha trộn giữa mộtchiếc áo chùng dài của học giả và mộtchiếc áo thầy tu của mục sư, càng làm nổi thân hình tái nhợt như xác chết của hắn. khôngthể nhầm lẫn sức mạnh ẩntrong hai bờ vai rộng, hơi khòng của hắn, nhưng phần còn lại thìthực là mộtbộ xương.
mộtchuyển động lờ mờ, những ngón tay mạnh mẽ cầm lấy cằm tôi và nghiêng mặt tôi về mộtbên. Cùng lúc đó, bàn tay Matthew bao lấy cổ tay ma cà rồng này.
Cái nhìn lạnh băng của Hubbard chạm vào cổ tôi, thu vào tầm mắt vết sẹo ở đó. Lần này tôi ước gì Françoise đãtrang bị cho tôi bằng chiếc cổ áo xếp nếp lớn nhất mà côấy có thể tìm được. hắnphả ra mộthơi thở giận dữ lạnh lẽo mùi thần sa và gỗ thông trước khi cái miệng rộng ngoác sít chặt lại, viền môi chuyển từ màu đào nhợt nhạt sang thành trắng bệch.
“Chúng ta có rắc rối rồi, ông Roydon,” Hubbard nói.
“Chúng ta có vài rắc rối đấy, Cha Hubbard. Đầu tiền là cha đangđặt tay lên thứ thuộc về ta. Điều xảy ra tiếp sau đây sẽkhiến mọi sinh vật trong thành phố – yêutinh, loài người, wearth và phù thủy – nghĩ đến ngày tàn là tùy thuộc vào chúng ta đấy.” Giọng nóicủa Matthew rung lên phẫn nộ.
Các sinh vật khác người hiệnra từ bóng tối xung quanh. Tôi trông thấy John Chandler, nhà bào chế dược ở Cripplegate, người đãđón ánh mắt tôi… Kit cũng ở đó, đangđứng cạnh mộtyêutinh khác. Khi cánh tay bạn anhta vòng qua khuỷu tay, Kit khẽ duỗi tránh đi.
“Xin chào, Kit,” Matthew nói, giọng anhđầy chết chóc. “Tôi đãnghĩ lúc này anhđãchạy biến và trốn tiệt đirồi chứ.”
Hubbard giữ lấy cằm tôi thêm mộtlát nữa, kéo đầu tôi quay lại cho tới khi mặt tôi đối diện với hắnlần nữa. Cơn giận của tôi hướng vào Kit và phù thủy đãphản bội chúng tôi chắc hẳn đãbộc lộ rõ, hắnbèn lắc đầu cảnh cáo.
“Ngươi sẽkhôngcăm ghét người anhnày tận tâm can,” hắnlẩm bẩm rồi thả tôi ra. Ánh mắt Hubbard quét khắp phòng. “Hãy để mặc chúng ta.”
Hai bàn tay Matthew ôm lấy khuôn mặt tôi, những ngón tay anhmơn man vuốt ve làn da dưới cằm tôi để tẩy đimùi của Hubbard. “đivới Gallowglass đi. anhsẽgặp em nhanh thôi.”
“côta ở lại đây,” Hubbard nói.
Các cơ bắp của Matthew gồng lên. anhkhôngquen với việc bị ra lệnh. Sau mộthồi ngưng khá lâu, anhyêucầu bạn bè và gia đình đợi bên ngoài. Hancock là người duy nhất khôngtuân theo ngay lập tức.
“Cha cậu nóimộtngười đàn ông khôn ngoan từ dưới đáy giếng cũng có thể thấy được nhiều hơn mộtthằng ngốc đứng trênđỉnh núi. Chúng ta hãy hy vọng rằng ông đúng,” Hancock khẽ nói, “bởi vì đây là địa ngục trong cái hố mà cậu đãđặt chúng ta vào đêm nay.” Đưa mắt nhìn lần cuối, anhchàng theo Gallowglass và Pierre xuyên qua mộtlỗ hổng trênbức tường phía xa. Cánh cửa nặng nề đóng lại, và im lặng.
Ba chúng tôi đứng gần đến nỗi tôi có thể nghe thấy lần tống xuất khôngkhí khẽ khàng tiếp theo từ buồng phổi của Matthew. Còn về Hubbard, tôi tự hỏi liệu bệnh dịch kia có khiến hắnphát điên rồi không. Làn da hắngiống sáp hơn là màu men sứ như thể hắnvẫn còn phải chịu đựng hậu quả của cơn bệnh rơi rớt lại.
“Ta có thể nhắc ông nhớ, ông de Clermont, ông có mặt ở đây là sựcho phép bất đắc dĩ của ta.” Hubbard ngồi vào cái ghế uy nghi cao quý duy nhất trong căn phòng. “Mặc dù ông đại diện cho Đại Hội Đồng, nhưng ta chấp nhận sựhiệndiện của ông ở London bởi vì cha ông yêucầu điều đó. Nhưng ông đãlăng nhục khách của chúng ta và cho phép vợ ông vào thành phố mà khônggiới thiệu côấy cho ta và con chiên của ta. Rồi còn vấn đề với những hiệp sĩ của ông nữa chứ.”
“Hầu hết các hiệp sĩ đồng hành cùng ta đãsống trong thành phố này còn lâu hơn cả ông, Andrew ạ. Khi ông khăng khăng bắt họ gia nhập vào đám ‘con chiên’ của ông hoặc phải rời khỏi địa phận thành phố, bọn họ đãrút ra bên ngoài những bức tường bao. Ông và cha ta đãthống nhất rằng người nhà de Clermonts sẽkhôngmang thêm các hiệp sĩ đến thành phố này. Ta đãlàm như thế.”
“Và ông nghĩ rằng các con ta quan tâm đến những chi tiết đó sao? Ta đãtrông thấy những chiếc nhẫn họ đeo và các biểu tượng trênáo khoác của họ.” Hubbard nhoài người tới trước, ánh mắt hăm dọa. “Ta đãbị dắt mũi tin rằng ông đangtrênđường tới Scotland. Tại sao ông vẫn còn ở đây?”
“Có lẽ ông khôngtrả đủ cho việc lấy tin tức rồi,” Matthew gợi ý. “Dạo này Kit viêm màng túi nặng đấy.”
“Ta khôngmua tình yêuvà lòng trung thành, cũng khôngphải dùng đến trò hăm dọa và tra tấn để có được thứ mình muốn. Christopher tự nguyện làm những gì ta yêucầu, giống như tất cả những đứa con ngoan đạo yêuquý cha mình.”
“Kit có quá nhiều ông chủ để có thể chung thủy với bất cứ ai trong số đó.”
“khôngphải cũng có thể nóiđiều đó với ông ư?” Sau khi thách thức Matthew, Hubbard quay sang tôi và tinh tế uống vào mùi hương của tôi. hắnkhẽ thốt ra mộtâmthanh buồn rầu. “Nhưng chúng ta hãy nóivề cuộc hôn nhân của ông. Vài đứa con ta tin rằng mối quan hệ giữa phù thủy và wearth là đáng ghê tởm. Nhưng Đại Hội Đồng và cái hiệp ước của nó khôngđược chào đón trong thành phố của ta, cũng khônghơn gì những hiệp sĩ đầy lòng căm thù của cha ông. Cả hai đều cản trở ý nguyện của Chúa mong ước chúng ta sống như mộtgia đình. Vợ của ông cũng là mộtngười xe sợi thời gian,” Hubbard nói. “Ta khôngchấp nhận những người xe sợi thời gian, vì họ xúi giục đàn ông và đàn bà bằng những ý tưởng khôngthuộc về nơi này.”
“Những ý tưởng như lựa chọn và tự do trong suy nghĩ ư?” Tôi chen ngang. “Điều ông lo sợ…”
“Kế tiếp,” Hubbard ngắt lời, vẫn tập trung vào Matthew như thể tôi hoàn toàn vô hình, “là vấn đề ông uống máu côta.” Ánh mắt hắnchuyển đến vết sẹo Matthew để lại trêncổ tôi. “Khi các phù thủy phát hiệnra chuyện này, họ sẽyêucầu giải thích. Nếu vợ ông bị phát hiệnvà kết tội là tình nguyện dâng hiến máu cho ma cà rồng, thìcôta sẽbị xa lánh và ném ra khỏi London. Nếu ông bị kết tội là uống máu mà khôngcó sựưng thuận của côta, thìông sẽbị đẩy vào chỗ chết.”
“thậtquá mức cho sựđa cảm gia đình,” tôi lẩm bẩm.
“Diana,” Matthew cảnh cáo.
Hubbard chống mấy ngón tay quan sát Matthew lần nữa. “Và cuối cùng, côta đangmang thai. Cha đứa trẻ sẽđến tìm côta chứ?”
Câu nóiđó khiến cho những lời đáp trả của tôi khôngthốt ra lời. Hubbard chưa khám phá ra bí mật lớn nhất của chúng tôi: rằng Matthew là cha của con tôi. Tôi đấu tranh đè nén cơn hoảng loạn. Suy nghĩ – và sống sót. Có lẽ lời khuyên của Philippe sẽđưa chúng tôi thoát khỏi tình thế khó khăn này.
“không,” Matthew đáp cụt lủn.
“Vậy người cha đãchết – do những nguyên nhân tự nhiên hay do bàn tay của ông,” Hubbard nói, ném cho Matthew mộtcái nhìn dài dò xét. “Trong trường hợp đó đứa con của phù thủy này sẽđược mang tới cho các con chiên của ta khi nó được sinh ra. Mẹ của nó cũng sẽtrở thành mộttrong những đứa con của ta ngay bây giờ.”
“không,” Matthew lặp lại, “côấy sẽkhôngnhư vậy.”
“Ông hình dung hai người sẽsống sót bên ngoài London trong bao lâu khi những thành viên còn lại của Đại Hội Đồng nghe nóiđến những hành vi chướng tai gai mắt này?” Hubbard lắc đầu. “Vợ của ông sẽan toàn khi ở đây miễn côta là mộtthành viên trong gia đình ta và khôngcòn chia sẻ máu với ông nữa.”
“Ông sẽkhôngđể Diana trải qua nghi thức trụy lạc đó. Hãy nóivới ‘các con’ ông rằng côấy thuộc về ông nếu cần phải thế, nhưng ông sẽkhôngđược nếm máu của côấy hay của con côấy đâu.”
“Ta sẽnóinóidối những linh hồn nằm trong sựchăm sóc của ta. Tại sao thế, con trai ta, những bí mật và chiến tranh là lời đáp trả duy nhất con có khi Chúa đặt mộtthử thách trước mặt con ư? Chúng chỉ dẫn đến sựhủy diệt mà thôi.” Hubbard thốt ra đầy cảm xúc. “Chúa cứu rỗi linh hồn những ai tin vào điều gì đó lớn lao vĩ đại hơn bản thân họ.”
Trước khi Matthew kịp đáp trả, tôi đặt tay lên cánh tay anhgiữ anhim lặng.
“Xin thứ lỗi, Cha Hubbard,” tôi nói. “Nếu tôi hiểu đúng, thìnhững người nhà de Clermont được miễn trừ khỏi sựcai quản của ông?”
“Đúng thế, bà Roydon. Nhưng bà khôngphải là mộtngười nhà de Clermont. Bà chỉ cưới mộtngười nhà họ thôi.”
“Sai rồi,” tôi vặn lại, vẫn giữ lấy tay áo chồng mình siết thậtchặt. “Tôi là con gáiđược nhận bằng lời thề máu của Philippe de Clermont, đồng thời là vợ của Matthew. Tôi hai lần là người de Clermont, và khôngchỉ tôi mà cả con của tôi sẽkhôngbao giờ gọi ông là cha.”
Andrew Hubbard trông thậtsững sờ. Trong khi tôi thầm lặng cầu nguyện phước lành cho Philippe vì ông luôn đitrước chúng tôi ba bước mà sắp đặt, thìhai vai Matthew cuối cùng cũng thả lỏng. Dù ở xa tận nước Pháp, nhưng cha anhmộtlần nữa đãđảm bảo cho sựan toàn của họ.
“Hãy kiểm tra nếu ông muốn. Philippe đãđánh dấu lên trán tôi đây này,” tôi nói, chạm tay vào ấn đường giữa hai lông mày nơi con mắt thứ ba của phù thủy. Lúc này đây nó vẫn đangngủ ngon lành, khônglo phiền gì đến những ma cà rồng.
“Ta tin cô, bà Roydon,” cuối cùng Hubbard nói. “sẽkhôngai cả gan nóidối mộtđiều như thế trong ngôi nhà của Chúa.”
“Vậy thìcó lẽ ông có thể giúp tôi. Tôi ở London để tìm kiếm sựgiúp đỡ với người nào đó giỏi về phép thuật và thuật phù thủy. Ông sẽgiới thiệu ai trong số các con của ông cho nhiệm vụ này?” Lời yêucầu của tôi xóa sạch nụ cười tươi tắn của Matthew.
“Diana,” anhgầm lên.
“Cha tôi sẽrất vui mừng nếu ông có thể hỗ trợ tôi,” tôi nói, điềm nhiên phớt lờ anh.
“Và sựvui mừng ấy sẽđến dưới dạng nào?” Anderw Hubbard cũng là mộtông hoàng thời kỳ Phục Hưng, và rất quan tâm đến việc kiếm về bất cứ thứ gì có thể từ lợi thế chiến lược của mình.
“Đầu tiên, cha tôi sẽlấy làm vui mừng được nghe về những giờ yên tĩnh của chúng tôi tại nhà mình trong đêm giao thừa,” tôi nói, đón lấy ánh mắt hắn. “Mọi chuyện khác tôi kể với ông trong bức thư tiếp theo đây sẽtùy thuộc vào vị phù thủy mà ông cử đến Hươu Đực và Vương Miện.”
Hubbard cân nhắc yêucầu của tôi. “Tôi sẽbàn bạc về nhu cầu của côvới các con tôi và quyết định ai có thể phục vụ côtốt nhất.”
“Bất cứ người nào ông ta gửi đến đều là gián điệp cả,” Matthew cảnh cáo.
“anhcũng là gián điệp mà,” tôi lưu ý. “Em mệt rồi. Em muốn về nhà.”
“Vụ việc của chúng ta đến đây là xong, Hubbard. Ta tin rằng Diana, cũng như tất cả người nhà de Clermont, ở London là với sựchấp thuận của ông.” Matthew xoay người để rời đimà khôngđợi câu trả lời.
“Ngay cả người nhà de Clermont cũng phải cẩn thận trong thành phố này,” Hubbard nóivới theo sau chúng tôi. “Hãy xem và nhớ lấy điều đó, bà Roydon.”
Matthew và Gallowglass thìthầm suốt quãng đường về nhà, nhưng tôi chỉ im lặng. Tôi từ chối sựgiúp đỡ khi ra khỏi thuyền và bắt đầu leo lên Hẻm Water mà khôngđợi bọn họ. Dù vậy, Pierre vẫn đitrước tôi khi đến con đường đivào Hươu Đực và Vương Miện, còn Matthew thìđãở sát bên cạnh tôi. Vào nhà, Walter và Henry đangđợi. Họ đứng bật dậy.
“Tạ ơn Chúa,” Walter nói.
“Chúng tôi đến ngay khi nghe nóicác vị cần. George ốm bệt trêngiường, và cả Kit lẫn Tom đều khôngtìm thấy đâu,” Henry giải thích, ánh mắt nhìn phóng qua phóng lại giữa tôi và Matthew mộtcách lo lắng.
“Tôi xin lỗi đãgọi hai người. Báo động của tôi vội vàng quá,” Matthew nói, chiếc áo choàng quấn quanh chân khi anhcởi nó ra khỏi vai.
“Nếu nó liên quan đên dòng tu…” Walter bắt đầu, mắt nhìn chiếc áo choàng.
“khôngđâu,” Matthew đảm bảo với anhta.
“Nó liên quan đến tôi,” tôi nói. “Và trước khi các anhsáng tạo ra mộtkế hoạch bất hạnh nào khác, hãy hiểu điều này: Các phù thủy là chuyện của tôi. Matthew đangbị theo dõi, và khôngchỉ bởi Andrew Hubbard thôi đâu.”
“Chú đãquen với chuyện đó rồi,” Gallowglass cộc cằn nói. “Chả để tâm đến những kẻ trố mắt nhìn ấy đâu, côạ.”
“Em cần tìm mộtthầy giáo của mình, Matthew,” tôi nói. Bàn tay tôi run run trượt xuống bụng mình. “sẽkhôngcó phù thủy nào chia sẻ những bí mật của côta chừng nào bất cứ ai trong các anhcòn dính líu vào. Mọi người bước vào ngôi nhà này khônglà wearth, triết gia, thìcũng là gián điệp. Điều này có nghĩa, trong mắt người của tôi, khôngcó bất cứ ai trong các anhcó thể gò ép chúng tôi vào dưới quyền uy cả. Berwick có vẻ xa xôi, nhưng cơn hoang mang lo lắng đanglan rộng.”
Ánh nhìn chằm chặp của Matthew buốt giá, nhưng ít nhất anhđanglắng nghe.
“Nếu anhra lệnh cho mộtphù thủy đến đây, sẽcó người đến. Matthew Roydon luôn có được theo cách riêng của mình. Nhưng thay vì giúp đỡ, em sẽcó được mộtmàn trình diễn khác giống của bà góa Beaton. Đó khôngphải điều em muốn.”
“côcần sựgiúp đỡ của Hubbard thìít hơn chắc,” Hancock chua chát nói.
“Chúng ta khôngcó nhiều thời gian,” tôi nhắc Matthew nhớ. Hubbard khôngbiết rằng đứa bé là con của Matthew, Hancock và Gallowglass khôngnhận thấy những thay đổi trong mùi của tôi – ít nhất là vẫn chưa. Nhưng những việc xảy ra tối này đãcho thấy tình trạng bấp bênh của chúng tôi.
“Được rồi, Diana. Chúng ta sẽđể các phù thủy cho em. Nhưng khôngnóidối nhé,” Matthew nói, “và cũng khôngcó bí mật gì cả. mộtngười có mặt trong căn phòng này lúc nào cũng phải biết được em đangở đâu.”
“Matthew, cậu khôngthể…” Walter phản đối.
“Tôi tin tưởng phán quyết của vợ mình,” Matthew nóichắc nịch.
“Đó cũng là điều Philippe nóivới bà nội”, Gallowglass lầu bầu trong miệng. “Ngay trước khi địa ngục vỡ òa.”