Buổi tối, cả bọn kéo đến nhà Mã Cát. Nhà cô ở phía Bắc thôn, nằm bên con sông nhỏ, căn nhà không lớn lắm, nhưng được quét dọn rất sạch sẽ. Nhà chia làm hai tầng, có cầu thang độc mộc dẫn lên xuống, hai tầng đều trổ ô cửa sổ nhỏ hướng về phía ánh sáng, chỗ thông phong có bếp lửa. Trong nhà gần như không có đồ đạc gì, chỉ có mấy món đồ thêu đơn giản treo trên tường.
Bữa tối rất bình thường, chẳng có gia vị gì, thức ăn đạm bạc, song cũng đã lâu lắm rồi họ không được ăn thứ gì ngoài lương khô. Cơm nắm, bánh rau dại, một ít nấm ngâm muối hoặc hong khô, trộn với thứ bột cay cay giống như ớt, Mã Cát còn lấy ra một loại thức uống tự chế khá giống rượu gạo, mấy người bọn đội trưởng Hồ Dương đều nức nở khen ngon.
Trong bữa ăn, Trác Mộc Cường Ba hỏi Mã Cát về lịch sử của Thánh vực và tình hình các thôn làng xung quanh. Cô bèn kể lại một lượt những gì mình biết, những truyền thuyết đã được nghe cho họ.
Thánh vực này được ai phát hiện, phát hiện vào lúc nào thì từ lâu đã chẳng còn ai biết được. Chắc là từ rất lâu, rất lâu trước đây, hơn một vạn năm trước, đã có những cư dân nguyên thủy cư trú ở gần núi tuyết phát hiện ra chốn này. Vì nơi này không có gió thốc dữ dội, có thể coi là một ốc đảo giữa vùng băng tuyết, nên lẽ tự nhiên là có người di cư tới đây. Trải qua hơn vạn năm, không biết đã có bao nhiêu bộ tộc thiên di tới. Tính riêng các bộ tộc mà Mã Cát biết, đã có thôn Mã Ba ở gần đây tự xưng là hậu duệ của người Cát, mà người Cát lại phát triển từ người dân tộc Mục mà ra; dân làng Đa Ngưỡng thì cho rằng tổ tiên của mình là người dân tộc Niên đầu sói; các làng Qua Ninh, Na Ninh thì lần lượt là hậu duệ của người Côn Ngô, người Vi; làng Vị Huyết Nhẫn khá lớn mạnh là hậu duệ của bộ tộc Bạch Lang;... gần như mỗi thôn làng đều là một chủng tộc khác nhau.
Pháp sư Á La nghe khá chăm chú, phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc, mấy chủng tộc mà Mã Cát thuận miệng kể ra ấy, không ngờ bao gồm cả những chủng tộc khởi nguyên trong truyền thuyết của người Tạng và cả tộc Khương, tộc Địch trong các ghi chép lịch sử thời Hạ, Thương, Chu. Khoảng cách về cả thời gian và cương vực của những dân tộc này đều cực lớn. Nói một cách dễ hiểu hơn, thì ở đây vừa có người triều Hạ, vừa có người triều Thương, hay người nước Tần, nước Tề thời Chiến Quốc là hàng xóm, hoặc Hung Nô triều Hán và Đột Khuyết thời Đường ở sát cạnh nhau, đi vài bước là tới.
Về lịch sử của Thánh vực thì Mã Cát cũng chỉ biết ngần ấy. Tới đây sớm nhất là người núi tuyết, cũng có truyền thuyết nói rằng, người núi tuyết vốn là những sự sống được núi tuyết mang thai đẻ ra, vì vậy bọn họ vốn đã cư trú trên tầng bình đài thứ ba kia rồi. Về sau mới lục tục có những người khác tới đây. Mới đầu người ít, đất rộng, ai nấy đều tìm những vùng đất thích hợp để sinh sống, sản xuất, mọi sự hết sức bình an vô sự. Về sau khi người dần đông lên, không tránh khỏi việc xuất hiện những tranh chấp. Thánh vực này cũng chẳng khác gì những nơi khác bên ngoài, hết phân rồi lại hợp, hợp rồi lại phân, có điều quy mô và mức độ thảm khốc nhỏ hơn rất nhiều mà thôi. Cũng đã từng xuất hiện một khoảng thời kỳ thống nhất ngắn ngủi, nghe đâu gọi là Vương triều Thái Dương gì đó, nhưng thời gian cũng không được dài lắm, sau rồi lại phân khai. Còn về người núi tuyết ở tầng bình đài thứ ba, vì việc lên xuống một tầng không phải chuyện dễ, vả lại thời đó tầng thứ ba ấy còn chưa có người Qua Ba xuất hiện, không giống như bây giờ. Thời đó, trên tầng thứ ba cũng thiên tai liên tiếp, mà có những nơi còn thoắt nóng thoắt lạnh, ngoài người núi tuyết ra, đó không phải là nơi thích hợp cho tất cả mọi người cùng sinh tồn, vì vậy, trong truyền thuyết, suốt một hai vạn năm liền đều chỉ có người núi tuyết sống ở trên đó. Nguồn truyện: Truyện FULL
Nhạc Dương lại hỏi cặn kẽ Mã Cát về tình hình của những người tuyết ấy, đặc biệt là sau khi bị người Qua Ba đánh bại, kết cục của họ như thế nào? Nhưng Mã Cát chỉ có thể lắc đầu trước câu hỏi ấy. Người ở bên ngoài thi thoảng còn có cơ hội thấy bóng dáng người tuyết, nhưng người ở Thánh vực thì không như vậy, bọn họ cơ hồ chưa từng thấy người núi tuyết lần nào, mà biết rằng có một chủng người như vậy nhờ các truyền thuyết cổ xưa. Vả lại, họ nhớ đến người núi tuyết đa phần cũng chỉ vì người Qua Ba, còn chuyện người núi tuyết bị người Qua Ba đánh bại, bỏ trốn, trốn chạy đến nơi đâu thì ai có thể biết được chứ?
Nhạc Dương không khỏi thêm một lần thất vọng, đành nghe Mã Cát kể tiếp.
Thời bấy giờ cũng có những bộ tộc đến đây, phát hiện nơi này không thích hợp cho họ sinh tồn, rồi lại ra đi. Nhưng nơi này gần như hoàn toàn ngăn cách với thế giới bên ngoài, nên dù là tới đây, hay rời khỏi nơi đây, cũng phải chuẩn bị sẵn tâm lý mười người chỉ có thể sống một, đồng thời phải đối mặt với kết quả đó. Nhưng rốt cuộc vẫn có những người sống sót rời khỏi nơi đây, họ đã mang sự tồn tại của Thánh vực này lan truyền đi khắp nơi như một thần thoại. Vì vậy, từ hơn nghìn năm trước, ở cao nguyên Thanh Tạng chắc hẳn có khá nhiều người đã nghe nói đến các truyền thuyết tương tự, biết rằng có một nơi như thế tồn tại trên đời, cho tới khi những người Qua Ba đến đây.
Vào khoảng hơn một nghìn năm trước, một nhóm người Qua Ba đông nhất đã đến nơi này, sự lớn mạnh của họ khiến tất cả những bộ tộc khác ở Thánh vực đều không dám phản kháng. Mới đầu mọi người còn chưa biết đến sự tồn tại của họ, đợi khi phát hiện ra, thì người Qua Ba đã chiếm cứ toàn bộ tầng bình đài thứ ba, đồng thời đánh đuổi người núi tuyết ra khỏi vùng đất của họ. Bấy giờ cư dân Thánh vực còn ngỡ rằng nơi này sẽ lại thống nhất về một mối, nhưng về sau mới phát hiện ra, người Qua Ba vốn không hề có dự định này, họ chỉ đến các thôn làng bắt đi thanh niên trai tráng để lên tầng thứ ba xây dựng thành trì. Đồng thời, họ cũng mang đến cho cư dân ở Thánh vực một tin tức: bên ngoài núi tuyết đang chìm vào một thời kỳ đen tối nhất, hỗn loạn nhất; để tránh chiến hỏa lan đến nơi đây, Thánh vực đã bị bọn họ phong tỏa, cấm chỉ bất cứ người nào ra vào. Ngoài ra, họ cũng hứa sẽ mang đến cho tất cả một cuộc sống an cư lạc nghiệp. Quy củ được đặt ra từ đấy. Sau đó, thì không còn ai có thể ra thế giới bên ngoài kia nữa.
Nghe nói là không chỉ có một tòa thành đá, không biết bao nhiêu đời người, bỏ ra hơn trăm năm mới hoàn thành. Tất cả cư dân Thánh vực đều vô cùng hân hoan chờ người Qua Ba thực hiện lời hứa của họ, mang đến cho mọi người một cuộc sống no đủ, không có bệnh tật, người cấy cày có ruộng có vườn, ai ai cũng có nhà ở thoải mái. Chẳng ngờ rằng, sau khi xây xong các tòa thành đá, người Qua Ba trên tầng thứ ba ấy liền không còn liên hệ gì với họ nữa. Còn những người già thuộc nhóm cuối cùng tham gia xây dựng những tòa thành đá ấy, cũng không nói năng nửa lời về chuyện này, tựa hồ đã xảy ra biến cố kỳ lạ gì đó, chỉ trong những lúc hồi tưởng lại, mới cảm thán thốt lên hai tiếng: “Kỳ tích!”
Sau rồi thì chuyện về tầng thứ ba và người Qua Ba đều nhạt dần, cư dân Thánh vực lại sống cuộc sống vạn năm nay vẫn không thay đổi của họ, chỉ có điều, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, không còn người nào rời khỏi đây nữa. Nói tới đây, Mã Cát đặt một ngón tay lên môi dưới, nghiêng nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Kỳ lạ lắm nhé, sau khi các tòa thành đá được xây, trong các truyền thuyết kể lại, suốt mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh nổ ra. Lúc ấy mọi người còn rất đoàn kết, sống tự cấp tự túc, không tranh đoạt gì cả.”
Sau một thoáng kinh ngạc, Mã Cát kể tiếp, không rõ từ lúc nào, Thánh vực lại bắt đầu bùng nổ chiến tranh, kể từ đó thì chiến loạn kéo dài liên tu bất tận, thôn làng đánh với thôn làng, bộ lạc đấu với bộ lạc, rồi lại hình thành nên các liên minh thôn làng, liên minh bộ lạc, rồi các liên minh đánh nhau, đánh mấy chục mấy trăm năm liền, cuối cùng thì lấy biển Sinh Mệnh làm ranh giới, hình thành nên hai vương quốc lớn Langbu và Yaca. Sau khi hai vương quốc lớn này được thành lập, từng có một độ huy hoàng, tưởng rằng đã lớn mạnh lắm. Không biết ai đã đề xướng ra việc lên tầng thứ ba, nhưng chẳng ai ngờ được rằng, đội quân mà họ tưởng là mạnh mẽ ấy, mới lên tầng thứ ba đã bị tiêu diệt toàn bộ. Khi đó, người ta mới nhớ ra quy củ mà người Qua Ba đã đặt ra từ thuở trước: bất cứ ai, cũng không được ra vào!
Chuyện Mã Cát biết, đại để cũng chỉ có vậy. Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đã biết, ở thôn Công Nhật Lạp và các thôn làng khác, dân chúng thông thường đều chỉ có ngôn ngữ của mình mà không biết chữ, người duy nhất thực sự hiểu biết và nắm bắt được các tri thức, e rằng chỉ có vị Địch ô trong thôn làng. Còn tư liệu văn hiến, thì chỉ Đại Địch ô của vương quốc mới có. Cũng may là Mã Cát từ nhỏ đã rất thân cận với Địch ô An Cát Mẫu, nên mới nghe được từ nơi ông khá nhiều điều.
Nhạc Dương nghe hết sức chăm chú, trong đầu không ngừng sắp xếp lại các đầu mối, bộ não hoạt động cơ hồ hết công suất. Thời kỳ hắc ám, hỗn loạn nhất ở bên ngoài núi tuyết mà những người Qua Ba ấy nói, chắc hẳn chính là cuộc diệt Phật, cấm Phật quy mô lớn nhất. Sau đó họ cấm chỉ người ở đây ra bên ngoài, tự nhiên là có liên quan đến việc họ mang theo số báu vật của Tứ Phương miếu kia. Một khi có người ra được bên ngoài, thì sẽ có khả năng tiết lộ bí mật của nơi này, mà số báu vật ấy đủ để mang đến cho cả Thánh vực này tai họa diệt vong. Còn những tòa thành đá mà họ phải xây dựng mất hơn trăm năm mới hoàn thành kia, rất có thể trong đó có một tòa chính là Bạc Ba La thần miếu! Mặc dù không cho người ở đây ra ngoài, nhưng bản thân họ nhất định đã phái người trở ra, vị sứ giả đến Cổ Cách có lẽ đã đi ra từ nơi này? Nhiệm vụ của ông ta, hẳn là đi xem xem thời kỳ đen tối ngoài kia đã kết thúc chưa? Không, không đúng rồi, người Qua Ba mạnh như vậy, nếu lúc ấy họ biết được thời kỳ đen tối kia đã kết thúc rồi, nếu họ đã có năng lực mang báu vật của Tứ Phương miếu tới đây, vậy thì nhất định cũng có khả năng mang chúng trở ra bên ngoài, hà tất phải để sứ giả mang theo tín vật chỉ dẫn phương hướng, để hậu nhân khai quật lên làm gì? Đúng rồi, người Qua Ba đã hứa với cư dân ở Thánh vực sẽ cho họ một cuộc sống an định thanh nhàn, sau đó mới bắt đầu xây dựng nhiều tòa thành đá. Từ quy mô thôn làng của người Hạ Qua Ba, có thể thấy rằng họ thực sự có năng lực làm được điều đó, cũng có nghĩa là, ban đầu đúng là họ định làm như thế. Nếu như Đại Thiên Luân kinh là do người Qua Ba viết nên, vậy thì có một số chi tiết lịch sử trong đó, hẳn là đã kết hợp thần thoại của họ với lịch sử của Thánh vực này mà viết nên, từ đó suy ra, sự tồn tại của Shangri-la thiên đường hạ giới, chắc hẳn là một ý tưởng của họ. Vậy thì tại sao, sau khi xây thành xong, họ lại đoạn tuyệt quan hệ với cư dân Thánh vực? Tại sao sau đó mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh? Đọc trong các ghi chép của thôn Công Bố, thì chiến tranh cũng chỉ bùng nổ vào khoảng một hai trăm năm gần đây mà thôi, phải chăng người Qua Ba đã làm gì đó? Làm sao họ có thể làm được? Trên tầng thứ ba kia, đã xảy ra biến cố? Rốt cuộc đó là biến cố gì? Lẽ nào biến cố ấy đã khiến bộ tộc Qua Ba hùng mạnh nhất cũng lực bất tòng tâm với việc ra khỏi chốn này? Nhưng Mã Cát nói, trong khoảng trăm năm trở lại đây, cũng từng có vô số người muốn lên tầng thứ ba ấy, mà chẳng ai sống sót trở về, chứng tỏ ở trên đó, vẫn còn thực lực mang tính áp đảo! Rốt cuộc là chuyện gì đây?
Họ vẫn còn rất nhiều nghi vấn muốn hỏi, có điều sau bữa cơm, trời tối rất nhanh, mà người ở thôn Công Nhật Lạp đều có thói quen ngủ sớm. Trương Lập vốn muốn tìm Mã Cát nói chuyện, Nhạc Dương cũng rất cổ vũ, nhưng Trương Lập cứ ấp a ấp úng mãi chẳng biết nói gì, vừa vào đến nhà Mã Cát đã bỗng dưng biến thành bé ngoan ngồi im thin thít.
Phòng ốc nhanh chóng được sắp xếp xong xuôi, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và Mã Cát ở chung một phòng, Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập, Nhạc Dương ở một phòng, đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La, Ba Tang ở một phòng.
Nằm trên tấm thảm da bò dễ chịu, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, cậu rất hứng thú với người núi tuyết hả?”
Nhạc Dương đáp: “Không phải, Cường Ba thiếu gia, lần trước tôi có nói với anh rồi mà, chúng tôi đã thảo luận với pháp sư Á La về quan hệ của người núi tuyết với Shangri-la? Sau đó, tôi và Trương Lập lại tìm được thêm một chút tư liệu trong máy tính của giáo sư Phương Tân. Cá nhân tôi cho rằng, tuy người núi tuyết đã bị đánh bại, nhưng rất có khả năng họ vẫn chưa bỏ đi, hoặc là bỏ đi rồi lại trở về, họ vẫn còn ở đây, ở trên tầng bình đài thứ ba kia kìa.”
Trác Mộc Cường Ba khẽ trở mình hỏi: “Sao lại nói thế?”
Nhạc Dương cũng nghiêng người qua, trả lời gã: “Đầu tiên, những người nước ngoài được gọi là chuyên gia kia, dẫu rằng họ có cái tư chất ấy hay không chăng nữa, nhưng đã có nhiều người quan tâm đến người tuyết như vậy, thì hẳn là cũng chẳng phải chuyện bắn tên không đích. Những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết đó cũng không phải bịa tạc vô căn cứ. Lần trước, pháp sư Á La chỉ kể một câu chuyện rất đơn giản, nhưng trong văn hóa Tây Tạng, còn có rất nhiều thần thoại truyền thuyết tương tự như thế, có chuyện đã xuất hiện từ trước khi có các ghi chép lịch sử, cũng có chuyện được người đời sau chép lại. Bằng không, với năng lực và sức tưởng tượng của đám người nước ngoài ấy, cũng không thể nào mà liên hệ người tuyết và Shangri-la lại được với nhau đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, đoạn hỏi: “Thế thì sao chứ? Những nhà nghiên cứu nước ngoài ấy cũng chỉ muốn thông qua người tuyết để tìm đến nơi này. Chúng ta đã đến được rồi, lên tầng trên là có thể thấy được Shangri-la thực sự, đầu mối này đối với chúng ta đã đâu còn quan trọng lắm nữa?”
Nhạc Dương lắc đầu đáp: “Nhưng đây lại là một mặt để chúng ta hiểu thêm về người Qua Ba đó. Càng đến gần Bạc Ba La thần miếu, chúng ta càng phải sục sạo thêm các đầu mối, càng tìm được nhiều, khi tổng hợp chúng lại, mới có thể đưa ra kết luận gần với chân tướng sự thực nhất. Chẳng hạn, Nhạc Dương nói: “Theo lời Địch ô Cát Mẫu, người tuyết đã tiến hóa tới hình thái bộ lạc, đồng thời đã có cả công cụ bằng kim loại. Đây là một thể chế tương đối văn minh rồi, ít nhất cũng phải tương đương với Văn minh đồng thời thau thời nhà Thương. Nhưng tại sao những người tuyết được phát hiện cho đến nay, đa phần đều ở trạng thái người vượn hoang dã, trí lực đần độn vậy nhỉ? Rốt cuộc người tuyết có phải người núi tuyết không? Về vấn đề này, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể có kết luận chuẩn xác được. Còn nữa, Người núi tuyết bị bộ tộc Qua Ba đánh bại bỏ chạy, đã chạy đi đâu rồi? Tại sao lại lưu truyền nhiều câu chuyện thần thoại dân gian và tôn giáo về họ đến thế? Càng không cần phải nói đến những người tự xưng là đã tận mắt chứng kiến từ thời cận đại đến nay, người nào người nấy đều miêu tả rất thật. Hơn nữa, tôi còn có phát hiện mới trong một số tư liệu...”
Nhạc Dương vuốt lại tấm thảm lông, hai mắt sáng bừng lên: “Ở Châu Mỹ, người Indian gọi quái vật chân to là “sa si kua zhi 1”, về mặt phát âm ít nhất cũng có điểm tương đồng với phát âm của từ “người núi tuyết” đúng không. Hơn nữa, tôi còn tìm được một số tài liệu viết rằng, một số bộ tộc Indian gọi thứ quái vật giống người là Uma. Theo các truyền thuyết đời đời lưu truyền trong bộ tộc, Uma cư trú ở gần miệng núi lửa St Helen”s, khi Đại thảm họa giáng xuống, Uma sẽ dẫn những người Indian trí tuệ tìm đến cái rốn của địa cầu, nơi tránh nạn duy nhất và cuối cùng. Tôi tin rằng, các tư liệu ấy cũng đã xuất hiện trong hồ sơ của các nhà nghiên cứu nước ngoài kia từ rất lâu rồi, thông tin ẩn chứa trong đó là gì chứ? Giáo quan đã từng nói, tất cả mọi sự việc đều không đột nhiên xuất hiện, vạn vật vạn sự đều có nguyên nhân của nó, dù là cách xa nhau nghìn vạn dặm đường, cũng tồn tại những đầu mối liên hệ mà ta không thể nhìn thấy.”
Trác Mộc Cường Ba đưa tay lên day day trán suy tư. Những lời Nhạc Dương hình như đã khơi gợi lên điều gì đó trong gã, nhưng hết sức mơ hồ, hình như trước đây gã đã từng tra tìm các tư liệu tương tự như thế thì phải.
Nhạc Dương nằm bên cạnh bèn nhắc nhở: “Châu Mỹ! Sứ giả! Maya!”
Trác Mộc Cường Ba liền sực nhớ ra, phải rồi, Maya ở châu Mỹ! Khi họ trở về từ Bạch thành, đã từng tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu quan hệ giữa châu Mỹ và Tây Tạng. Có rất nhiều đầu mối rõ rệt cũng như ngấm ngầm chỉ ra, vị sứ giả ấy đã đến tận châu Mỹ xa xôi để chôn giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng tại sao lại phải giấu chiếc gương đồng ấy, thì đến giờ họ vẫn hoàn toàn không hay biết. Có điều, hồi ức bất chợt ấy lại khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy ảo não vô cùng, chuyện vừa mới xảy ra không được bao lâu, vậy mà gã đã hầu như quên sạch rồi, lẽ nào gã đã già nua đến mức ấy, hay là do Đại Thanh Liên cổ gây ra?
Nhạc Dương lại nói: “Nếu như, tôi chỉ nói là nếu như thôi nhé, cách xưng hô và truyền thuyết về dã nhân ở châu Mỹ là do vị sứ giả ấy mang đến, vậy thì tại sao ông ta phải làm vậy? Người núi tuyết có phải là Uma không? Chẳng phải họ đã bị đánh bại, đuổi đi rồi hay sao? Liệu có phải vì người núi tuyết đã cư trú ở đây mấy vạn năm, biết rõ các con đường dẫn tới nơi này trong núi tuyết? Nếu người núi tuyết không quay trở lại, Uma sao có thể tìm được cái rốn của địa cầu? Nếu người núi tuyết vẫn ở trên tầng bình đài thứ ba kia, vậy thì quan hệ giữa họ và người Thượng Qua Ba giờ là như thế nào? Phải chăng khi đối mặt với người Thượng Qua Ba, chúng ta đồng thời cũng phải đối mặt với một đám dã nhân khổng lồ cao đến ba bốn mét, toàn thân mọc đầy lông lá? Dĩ nhiên, đây đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, không có chứng cứ gì hết.” Nhạc Dương nói tới đây, cũng cảm thấy không chắc chắn lắm, xét cho cùng, nghĩ ngợi rồi suy đoán lung tung cũng không phải là con đường chính để nghiên cứu khoa học.
Trác Mộc Cường Ba cười cười, hỏi: “Trương Lập thì sao? Cậu có ý kiến gì không?”
Không nghe thấy Trương Lập đáp lời, Nhạc Dương mới phát hiện, anh và Cường Ba thiếu gia thảo luận cả một hồi lâu mà Trương Lập cũng không tham dự lấy nửa lời, bèn ngoảnh đầu lại nhìn. Thì ra, Trương Lập sớm đã ngủ tít thò lò từ lúc nào rồi, chắc cũng lâu lắm anh không được ngủ trên tấm thảm nào dễ chịu như thế. Bôn ba cả một ngày, thực sự ai cũng rất mệt mỏi, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương nói thêm vài câu nữa, rồi cũng ngủ luôn.
Sáng sớm hôm sau, việc đầu tiên Nhạc Dương làm khi thức giấc là lay Trương Lập: “Dậy đi, đồ lười!”
Trương Lập lúng búng trong miệng nói: “Mã Cát...” Hai chân kẹp chặt vào tấm thảm.
Nhạc Dương hơi ngả người ra phía sau, thốt lên: “Chậc chậc, anh trúng phải bùa phải ngải rồi hả? Ngủ mà cũng gọi tên người ta, tối qua lại không dám tìm người ta nói chuyện. Dậy đi, dậy đi!” Vừa nói, anh lại thúc thêm hai cái nữa, tiếng động làm Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình tỉnh giấc.
“Để cậu ta ngủ thêm lúc nữa đi, Nhạc Dương.” Trác Mộc Cường Ba nói.
Nhưng Nhạc Dương lại phát hiện ra điều không ổn, vừa lắc vừa lay như thế mà Trương Lập không hề có phản ứng gì. Anh liền rờ thử lên mặt Trương Lập, kế đó vội vàng rờ lên trán mình, rồi lại đặt tay lên trán Trương Lập lần nữa, vội vàng nói: “Trương Lập bị sốt rồi!”
Trác Mộc Cường Ba khẽ cười nói: “Biết rồi, từ lúc gặp Mã Cát hôm qua, lúc nào mà cậu ta chẳng nóng bừng bừng lên.”
Nhạc Dương lắc đầu: “Không phải đâu, Cường Ba thiếu gia, anh ấy sốt thật đấy, đầu nóng như lửa vậy.” Anh rút ở bên cạnh chiếc đồng hồ đeo tay ra một cái cặp nhiệt độ cỡ bằng que tăm, quẹt quẹt hai ba cái lên áo rồi nhét vào miệng Trương Lập: “Đồ ngốc, ngậm vào. Sao lại sốt cao thế này?” Trương Lập làu bàu đáp: “Tôi có cố ý đâu.” Nhạc Dương đang chuẩn bị bảo tên này vẫn còn tỉnh táo, thì Trương Lập lại ú ớ bồi thêm một câu: “Em đẹp quá. Hừ hừ...” kế đó là một tràng những âm thanh lung búng không nghe rõ là gì.
Trác Mộc Cường Ba cũng lại gần rờ trán Trương Lập, rồi gọi lớn: “Mẫn Mẫn, em dậy chưa? Trương Lập bị sốt rồi, qua đây xem sao.”
Chỉ thoáng sau, Lữ Cánh Nam đã bước sang, Đường Mẫn ở phía sau, Mã Cát cũng đi theo. Lúc này đã có kết quả đo nhiệt độ cơ thể Trương Lập, không ngờ lại sốt cao đến 40 độ. Đường Mẫn nói: “Nhất định là vết thương hôm qua bị nhiễm trùng rồi, tối qua quên mất không xem vết thương cho anh ấy, mà anh ấy cũng chẳng nói gì, đều tại em hết, sao lại quên được cơ chứ.” Nói đoạn, liền vén chăn lên kiểm tra vết thương của Trương Lập. Mã Cát đỏ bừng mặt, xấu hổ quay đi, cô vẫn chưa từng thấy đàn ông chỉ mặc độc một chiếc quần cộc bao giờ. Có điều, thấy mọi người trong phòng đều không để ý, cô lại ngượng ngùng ngoảnh mặt lại, lo lắng nhìn vết thương của Trương Lập.
Trời vẫn chưa sáng hẳn, phải bật thiết bị chiếu sáng, chỉ thấy cánh tay Trương Lập vừa đỏ tấy vừa sung phù lên, đã mưng mủ. Lữ Cánh Nam nói: “Phải lập tức rửa vết thương cho cậu ta, tên nhãi này, như vậy mà cả ngày hôm qua không hé răng lấy một lời.”
Nhạc Dương thấp giọng lầm bầm: “Cả ngày hôm qua, anh ta cứ phiêu phiêu, thần hồn lơ lửng như hút ma túy, quá nửa là chẳng cảm thấy đau đớn gì đâu.”
“Phải đấy.” Đường Mẫn cũng khẳng định: “Em cũng cảm thấy hôm qua hồn phách Trương Lập cứ để đâu đâu ấy.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn sang phía Mã Cát. Có điều họ toàn nói chuyện bằng tiếng phổ thông tiêu chuẩn, Mã Cát chỉ biết mở to mắt nhìn mà chẳng hiểu gì.
Rửa vết thương, bôi thuốc kháng sinh, hạ sốt, xử lý mọi thứ xong xuôi, Đường Mẫn ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba không chút do dự, nói ngay: “Chúng ta đợi cậu ấy khỏe hẳn đã. Từ đây đến Tước Mẫu cũng không mất nhiều thời gian lắm, chẳng phải vậy sao?”
Nhạc Dương vỗ vỗ lên má Trương Lập, tỏ vẻ không biết làm sao hơn: “Đồ ngốc.” Rồi lại véo thêm một cái, vừa ngoẹo đầu, liền trông thấy vẻ mặt trách móc của Mã Cát, vội vàng nở một nụ cười hiền hòa, nhường vị trí của mình cho cô. Mã Cát quỳ xuống bên cạnh Trương Lập, thử đưa tay rờ trán anh, rồi lại vột vàng rụt tay về, dè dặt hỏi Nhạc Dương: “Anh Trương Lập vì em mới bị thương, phải không?”
Nhạc Dương thầm nhủ: “Đừng có mà ngốc, anh ta bị thương từ lâu rồi, liên quan gì tới cô đâu chứ.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng anh chàng vẫn nói: “Chuyện này, chuyện này tôi cũng không rõ lắm, có lẽ, có thể... ừm... chuyện này...” đoạn quay mặt đi, thầm nghĩ: “Đồ thối thây, tôi nhân nghĩa với anh hết mức rồi đấy nhé, hì hì, đúng thật là...”
Đúng lúc ấy, Trương Lập lại ú ớ nói: “Mã Cát... em đẹp quá...” Tuy không hiểu Trương Lập nói gì, nhưng hai tiếng “Mã Cát” thì Mã Cát nghe rất rõ, rồi lại nhìn vẻ mặt những người khác, chẳng cần đoán cũng biết anh chàng kia đang nói gì. Nhớ lại cái bóng hoảng hốt bỏ chạy bên bờ hồ hôm qua, đôi mắt to tròn sáng rỡ như sao của Mã Cát chợt khép lại, bất giác toát lên một vẻ yêu kiều diễm lệ vô cùng.
Nhạc Dương thầm nghĩ: “Cái tên này bị sốt đến hồ đồ rồi hay vẫn còn tỉnh táo vậy nhỉ? Hừ, nhất định là đầu óc có vấn đề rồi, lúc tỉnh táo anh ta làm sao dám nói vậy trước mặt Mã Cát chứ?”
Lúc này trời đã sáng, đội trưởng Hồ Dương và những người còn lại cũng đều thức giấc, biết chuyện Trương Lập sốt cao, cả bọn đều đồng ý ở lại ngôi làng này nghỉ ngơi vài ngày. Khoảng thời gian này, ngày nào cũng phải qua lại giữa rừng rậm nguyên sinh đầy rẫy quái thú, có thể thấy đồng loại thêm mấy ngày cũng là điều tốt.
Lấy Trương Lập ra làm vật thí nghiệm, Đường Mẫn tranh thủ thời gian rảnh dạy cho Mã Cát một số kiến thức thông thường về chăm sóc người bệnh. Như đếm tốc độ truyền dịch, đo nhiệt độ cơ thể, Mã Cát học rất chăm chỉ và nghiêm túc. Thi thoảng Mẫn Mẫn lại ngẩng đầu lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, nhoẻn miệng cười với gã một cái, nội dung hàm chứa trong nụ cười ấy, thì chỉ có họ mới biết được.
Lúc này, Lữ Cánh Nam chợt nói: “Mã Cát, hôm qua không phải cô nói muốn dẫn chúng tôi đi thăm mấy người bệnh nặng sao? Giờ có thời gian rồi, bây giờ cô dẫn chúng tôi đi, hay là...”
“À!” Mã Cát giờ mới nhớ ra hôm qua mình đã nhờ họ đến thăm mấy người bệnh nặng. Cô đưa mắt nhìn Trương Lập, rồi lại ngước nhìn mọi người, vẻ mặt xem ra khó lựa chọn lắm. Đường Mẫn liền gợi ý: “Còn có ai khác biết chỗ ấy không?”
“À, mọi người đợi em một chút.” Mã Cát tựa như nhớ ra điều gì đó, chạy vù ra ngoài, thoáng sau đã trở lại, nói: “Địch ô đại nhân sẽ dẫn mọi người đi, em... em ở lại đây...” vừa nói, hai má cô lại ửng hồng lên.
“Được đấy, Mã Cát, vậy nhờ cô chăm sóc anh Trương Lập của chúng tôi nhé.” Mã Cát chớp chớp đôi mắt to tròn, nụ cười của Nhạc Dương thật kỳ quặc hết sức.
Đường Mẫn đeo thiết bị thông tin lên tai Mã Cát, chỉ cho cô cách sử dụng, rồi dặn: “Nếu xảy ra chuyện gì, thì dùng cái này báo với chúng tôi, dù cách rất xa cũng vẫn nghe thấy được.”
Đội trưởng Hồ Dương nhìn Nhạc Dương và Đường Mẫn với ánh mắt kỳ quặc, hỏi: “Tôi cũng ở lại chăm sóc Trương Lập chứ nhỉ?”
“Anh ở lại làm cái gì chứ?” Nhạc Dương vừa nháy mắt, vừa ra dấu tay. Đường Mẫn cũng phụ họa: “Trương Lập đã không còn gì đáng ngại nữa rồi. Đội trưởng Hồ có ở lại cũng chẳng giúp được gì đâu, chúng ta cùng đi thăm những người bệnh nặng kia đi, biết đâu anh lại giúp được cũng nên.” Đội trưởng Hồ Dương nhìn Trương Lập, rồi lại nhìn cô bé đang căng thẳng kia, rồi như đã hiểu ra, gật gật đầu nói: “Chúng ta đi thôi nào.”
Ra phía bên ngoài, Lữ Cánh Nam mới chất vấn Đường Mẫn và Nhạc Dương: “Hai người đang làm gì vậy?” Cô ngưng lại, nghiêm mặt hỏi: “Vấn đề của chúng ta vẫn chưa đủ nhiều hay sao? Đã tìm được Bạc Ba La thần miếu rồi sao? Tìm được Tử kỳ lân rồi à? Cổ độc trên người Cường Ba thiếu gia đã giải được rồi à? Phía sau còn có truy binh, phía trước ra sao thì chúng ta hoàn toàn không có manh mối, chặng đường này của chúng ta không thể có thêm chuyện rắc rối gì nữa đâu. Tôi biết, Trương Lập có tình cảm với Mã Cát, nhưng hai người cần gì phải ở bên cạnh đổ dầu vào lửa nữa? Hai người tưởng làm vậy là tốt cho cậu ta à? Hai người đã bao giờ nghĩ, chúng ta sắp phải rời khỏi nơi đây chưa? Hai người muốn để Trương Lập lại đây, hay là muốn khiến cậu ấy bất an lo lắng cho Mã Cát suốt chặng đường còn lại? Hay để cho cô bé ấy một mối tương tư khắc cốt ghi lòng? Đừng quên là giữa họ có khoảng cách rất lớn, căn bản không thể nào ở bên nhau được. Hơn nữa, chúng ta không phải khách du lịch, hành trình này vốn đầy rẫy những hiểm nguy, có thể mất mạng bất cứ lúc nào, vạn nhất Trương Lập... hai người có thể nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trước rồi mới làm vậy được không?”
Đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La và Ba Tang đều không bày tỏ thái độ, Nhạc Dương bị mắng cho một trận, chỉ biết cúi đầu. Nhưng Mẫn Mẫn thì không phục, cô ngẩng cao đầu nói: “Em cảm thấy...” Mới thốt lên được ba chữ ấy đã bị Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Ha ha, tôi cảm thấy giáo quan nói rất có lý, đối với chuyện này, chúng ta nên giữ thái độ khách quan, việc của Trương Lập nên để tự cậu ta giải quyết, chúng ta không giúp đỡ, cũng không ngăn cản, phải vậy không?”
Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Này, chúng ta đến chỗ Địch ô đại nhân đã, người ta đang đợi đấy.”
Lữ Cánh Nam chán nản lắc đầu, lòng thầm nhủ: “Không giúp sức à? Các người đã hết lòng giúp cậu ta rồi đấy thôi. Một cô bé tuổi mới lớn sống trong môi trường hoàn toàn bít kín, đối mặt với một gã bộ đội đặc chủng đến từ thế kỷ hai mươi mốt, các người bảo Mã Cát làm sao mà kháng cự nổi đây?”
3 Sasquatch hay còn gọi là Big Foot, là một loài động vật linh trưởng rất hiếm gặp mà nhiều người cho rằng sống ở vùng hoang dã châu Mỹ. Mặc dù nhiều người tự nhận rằng đã thấy hoặc phát hiện ra dấu chân của Big Foot, nhưng cho đến nay vẫn chưa ai bắt được hay tìm thấy xác chết nào của chúng.
Phần 56: Những người trúng cổ độc
Cho tới khi tảng đá cử động, vụn đá rơi xuống “lạo xạo”, bọn họ mới phát hiện đó là một con người, ai nấy đều giật thót mình. Người này toàn thân mọc kín một thứ vật chất trông như sỏi, cả phần đầu và mặt cũng bị thứ đó bao phủ, thân mình dựa vào vách đá, nếu không nhìn kỹ thì không thể nào phát hiện ra được. Bộ mặt đó, không thể nào gọi là dữ tợn, phải nói là kinh khủng khiếp mới đúng!