“Con không cha không mẹ, trên cõi đời này chỉ còn lại một thân một mình, có gì mà không buông bỏ được chứ? Sư phụ, xin người dạy con thuật quyền mưu, đợi khi thống nhất được Yaca và Langbu, con nhất định sẽ dẫn theo đại quân, đạp bằng nơi này, mở ra một con đường thông với thế giới bên ngoài kia.”
Thoát khỏi lao ngục
Quách Nhật Niệm Thanh không buồn để ý đến âm thanh bên ngoài cung điện, lại hỏi tiếp: “Lão già ấy có nói gì không?”
Khước Ba Ca Nhiệt lắc đầu đáp: “Tinh thần lão không ổn lắm, dường như sắp không cầm cự được nữa rồi.”
Chỉ thấy Quách Nhật Niệm Thanh nghiêng đầu nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Đổ cho lão ít nước, duy trì sự sống.” Khi Khước Ba Ca Nhiệt ngỡ rằng Quách Nhật Niệm Thanh đang định tha cho sư phụ của mình, thì lại nghe đối phương cất tiếng hỏi: “Ngươi nói xem, có cách gì khác, khiến lão càng đau đớn hơn không?”
Lúc Quách Nhật Niệm Thanh hỏi câu này, giọng y hững hờ như thể đang hỏi làm cách nào để cưa khúc gỗ được nhỏ hơn vậy. Khước Ba Ca Nhiệt bị sự bình tĩnh đến độ bất bình thường này của y làm cho rợn cả người. Lão cũng tự cho rằng mình đã coi mạng người như cỏ rác rồi, nhưng mà, coi sư phụ hay người thân của mình như một khúc gỗ, thì lão chỉ còn nước thừa nhận mình chưa làm được đến mức ấy. Lão cẩn trọng đưa mắt nhìn cái đầu tròn ủng của Quách Nhật Niệm Thanh, thực sự không thể đoán biết bên trong cái đầu ấy chứa đựng cái gì, lẽ nào Quách Nhật Niệm Thanh đã hoàn toàn từ bỏ hết thảy mọi tình cảm của con người rồi sao?
Lúc này, tiếng ồn ào huyên náo bên ngoài càng lớn hơn. Quách Nhật Niệm Thanh tức giận quát lên: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Một tên binh sĩ chạy vào báo cáo: “Có một đám phản loạn đang tấn công người của chúng ta.”
“Phản loạn? Có bao nhiêu tên?” Quách Nhật Niệm Thanh nheo nheo mắt. Tuy đã tiến hành một cuộc thanh lọc lớn, nhưng dù sao cũng vẫn còn một phần thế lực trung thành với Tước Mẫu vương tiền nhiệm đã ẩn náu đi mất.
Mặt mày tên binh sĩ ấy ướt đẫm mồ hôi lạnh: “Dạ... khắp nơi đều có, bọn chúng chỉ ám sát các đội trưởng đội tuần tra của chúng ta, có rất nhiều đội rối loạn hết cả lên, trước mắt, các đội phó đang cố gắng chỉ huy đám thuộc hạ.”
Quách Nhật Niệm Thanh tựa hồ nghĩ ra điều gì đó, hỏi kỹ hơn: “Các ngươi nhìn rõ chứ? Những tên đội trưởng ấy rốt cuộc bị giết, hay chỉ bị đánh ngất thôi?”
Tên binh sĩ đáp: “Bị giết, vì vậy các đội mới rối loạn như vậy.”
Quách Nhật Niệm Thanh trầm ngâm: “Lẽ nào lão già kia đã ngấm ngầm che giấu một lực lượng, định lật ngược thế cờ lần nữa? Hay là, lão ta không định dễ dàng hoàn thành việc trao nhận quyền lực như vậy, còn muốn khảo nghiệm ta nữa?”
Tên binh sĩ kia nói: “Đám phản quân ấy hình như nắm rất rõ tuyến đường tuần tra của chúng ta, vả lại, đợt tấn công đầu tiên đều dùng cung tên tập kích.”
Quách Nhật Niệm Thanh không còn nghi hoặc gì nữa, cười khùng khục đứng lên: “Xem ra trong chúng ta cũng có vấn đề, lão già, ẩn mình sâu lắm. Đi theo ta, ta phải đích thân bố trí lại phòng ngự.”
Sau khi Quách Nhật Niệm Thanh đi khỏi một lúc, trong nhà lao, Nhạc Dương vẫn đang kiên nhẫn tả lại tình trạng của Trương Lập cho Đại Địch ô Thứ Kiệt nghe, anh không ngừng hỏi đi hỏi lại, có phải Trương Lập vậy là không sao rồi không, nhưng rốt cuộc, sau một hồi lâu, Đại Địch ô Thứ Kiệt chỉ mệt mỏi đáp lại: “Không thể nào!”
Nhạc Dương tức đến bủn rủn cả người, giận dữ gắt lên: “Ông già lừa đảo này, tôi không thèm tin ông nữa đâu, chẳng phải ông đã nói anh ấy sẽ không tỉnh lại nữa à? Sao lại tỉnh rồi đây này? Ông đọc sách vừa vừa thôi, nhiều khi sách cũng sai bét ra đấy!
Đột nhiên, anh nghe thấy có vật nặng rơi xuống đất, vội dịch đến chỗ cửa phòng giam nhìn ngó, chỉ thấy một bóng người nhẹ nhàng tung mình lộn vào trong nhà lao, chính là Mẫn Mẫn. Nhạc Dương vội vàng gọi cuống quýt: “Mẫn Mẫn, chúng tôi ở đây này...”
Mẫn Mẫn thấy Nhạc Dương, cũng mừng rỡ reo lên: “Tốt quá, quả nhiên là ở đây, tôi còn sợ các anh bị nhốt ở chỗ nào khác nữa cơ.”
Nhạc Dương ngó ra phía sau cô, lại hỏi: “Cường Ba thiếu gia đâu?”
Mẫn Mẫn đáp: “Họ ở thôn Công Nhật Lạp, giờ không phải lúc nói chuyện này, thời gian không có nhiều, tôi phải nhanh chóng đưa mọi người ra khỏi đây mới được.” Dứt lời, Mẫn Mẫn lấy thuốc nổ dẻo trong túi ra, nhai nát rồi xe thành sợi dài, cẩn thận quấn vào xích sắt trên cửa.
Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Mấy người Cường Ba thiếu gia đã đến thôn Công Nhật Lạp, chạy xa vậy sao, chẳng trách...”
Mẫn Mẫn vừa gài thuốc nổ, vừa liếc nhìn xuống đất, Trương Lập liền vẫy vẫy tay chào. Cô lo lắng hỏi: “Trương Lập sao vậy?”
Nhạc Dương nghiến răng: “Tên Quách Nhật Niệm Thanh đáng chết ấy... Trương Lập hôn mê hai ngày rồi, có điều giờ đã đỡ một chút, pháp sư Tháp Tây có đến không?”
Mẫn Mẫn lắc đầu: “Pháp sư Tháp Tây cũng ở thôn Công Nhật Lạp, chỉ có tôi, pháp sư Á La với anh Ba Tang thôi, lùi lại đi...”
Thì ra, sau khi Trương Lập và Nhạc Dương về đến Tước Mẫu và bị bắt, nhóm của Mẫn Mẫn cũng trở về đây. Vì đi đường xa hơn, họ đến sau Trương Lập và Nhạc Dương, nhưng không giống với hai anh chàng ngốc, từ xa Ba Tang đã ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc. Sau khi dặn dò Mẫn Mẫn đợi ở khu vực an toàn, pháp sư Á La liền một mình đi trước thăm dò tình hình, biết được tin Tước Mẫu có binh biến, đồng thời, họ cũng đoán trong nhóm đã có người lọt vào tay Quách Nhật Niệm Thanh. Pháp sư Á La đã mấy lần đến thăm dò nhà lao, nhưng vì trong thành tuần tra quá nghiêm mật, thực không có cách nào vào bên trong mà không làm kinh động bất cứ ai. Ba Tang cũng đi theo một lần, suýt chút nữa thì bị phát hiện.
Mẫn Mẫn lo lắng cho Trác Mộc Cường Ba, nôn nóng muốn vào nhà lao xem xét, ba người bàn bạc đối sách, rồi quyết định để pháp sư Á La thăm dò tuyến đường tuần tra của binh lính Tước Mẫu, sau đó ông và Ba Tang sẽ cùng lúc động thủ, tạo ra hiện tượng như thể trong thành có binh sĩ muốn tạo phản, lật đổ Quách Nhật Niệm Thanh, hy vọng có thể làm rối loạn bố trí phòng ngự của bọn họ, rồi Mẫn Mẫn sẽ lẳng lặng xâm nhập tìm hiểu tình hình, nếu điều kiện cho phép thì cứu người ra luôn, còn nếu không tìm được người, vậy thì quay lại tiếp tục bàn bạc thêm. Pháp sư Á La vốn chỉ định đánh ngất, nhưng Ba Tang kiên quyết không đồng ý, nói không giết người thì không thể gây ra hỗn loạn được. Pháp sư Á La nhìn lửa giận hừng hực trong mắt Ba Tang, cũng không thể áp chế được, đành để anh ta làm theo cách của mình.
Quách Nhật Niệm Thanh đích thực rất có tài hành quân bố trận, bố trí tuần phòng đâu ra đấy, pháp sư Á La ngấm ngầm nấp trong bóng tối quan sát cả một ngày, trở về lại nghĩ ngợi suốt đêm, sử dụng một số thiết bị hiện đại mới tìm ra được một điểm sơ hở, nghĩ ra sách lược làm rối loạn toàn bộ hệ thống phòng thủ của đối phương chỉ trong một hành động. Cũng trong lúc đó, người ở thôn Công Nhật Lạp đến báo tin bị Ba Tang bắt được, vì vậy họ mới biết tình hình của đám người bọn Trác Mộc Cường Ba. Như vậy, người bị bắt trong nhà lao chỉ có thể là Trương Lập và Nhạc Dương. Họ bàn bạc ổn thỏa, liền quyết định hành động càng sớm càng tốt, muộn một phút, những người bị bắt sẽ thêm một phần nguy hiểm.
Nghe Mẫn Mẫn kể xong, Nhạc Dương mới biết giờ không phải sáng sớm mà đã gần trưa. Được tin bọn Trác Mộc Cường Ba đều an toàn, anh cũng thấy yên tâm phần nào.
Sau tiếng “xoẹt xoẹt”, ánh lửa lóe lên, dây xích bị đứt ra hai mắt, con rết lốm đốm từ trong lỗ khóa chui ra bò ngoằn ngoèo dưới đất, bị Mẫn Mẫn lấy hết dũng khí giẫm cho nát bét. Cửa phòng giam mở ra, Mẫn Mẫn bước vào đỡ Trương Lập dậy: “Đi được không?”
Nhạc Dương nói: “Để tôi cõng anh ấy.” Vừa quỳ xuống, khóe mắt anh liền liếc thấy Đại Địch ô Thứ Kiệt ở phòng giam bên cạnh. Nhạc Dương nhớ lại những lời ông ta biện hộ thay cho Quách Nhật Niệm Thanh, nhưng rốt cuộc vẫn không cương quyết được, bèn hỏi Mẫn Mẫn: “Có cứu ông ấy không?”
“Ai vậy?” Mẫn Mẫn bấy giờ mới biết, trong phòng giam tối tăm bên cạnh còn một người nữa. Nhạc Dương nói: “Ông ấy là Đại Địch ô Thứ Kiệt, cũng bị Quách Nhật Niệm Thanh bắt giam.”
Đại Địch ô Thứ Kiệt yếu ớt nói: “Ta không xong đến nơi rồi... mọi người mau chạy đi, chậm là không kịp đâu.”
Lúc này, lại có một cái bóng xám nữa lách vào trong nhà giam, lướt đến bên cạnh họ như một trận gió. Nhạc Dương và Mẫn Mẫn không hề kinh hãi, vì trận gió này khiến họ có cảm giác thân thuộc, khiến họ cảm thấy yên lòng.
“Pháp sư Á La.” Nhạc Dương vừa thấy pháp sư, liền cảm thấy vững tâm hơn nhiều.
Pháp sư Á La mặc trang phục của binh sĩ Tước Mẫu, nôn nóng thúc giục: “Còn không đi mau! Hắn ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra mưu kế của chúng ta đó.”
Mẫn Mẫn nói: “Đại Địch ô Thứ Kiệt vẫn ở trong đó.”
Pháp sư Á La thấy Mẫn Mẫn vê vê miếng thuốc nổ dẻo, lắc đầu nói: “Chậm quá!” Ông khẽ đẩy cô ra, rút khẩu súng lục duy nhất còn lại của họ, nhằm vào xích sắt bắn liền ba phát “keng keng keng”, rồi đưa chân đạp đứt cả dây xích, xông vào bên trong. Trông thấy thân thể Đại Địch ô Thứ Kiệt, pháp sư Á La không nói một lời, lập tức rút đao chém đứt dây sắt xuyên qua gót chân ông, vung tay đánh ngất vị Địch ô già, nhanh chóng ấn mấy cái lên vai và cánh tay đối phương, kế đó vận sức nhấc lên, đưa Đại Địch ô Thứ Kiệt ra khỏi hai cái móc sắt, kế đó xé vạt áo mình, hai tay nhanh thoăn thoắt, chớp mắt sau đã buộc chặt vết thương của Đại Địch ô Thứ Kiệt lại. Xong xuôi, pháp sư liền vòng tay, đặt ông ta lên lưng mình.
Khi pháp sư Á La làm xong mọi việc ấy, Nhạc Dương cũng mới vừa đặt được Trương Lập lên lưng. Mẫn Mẫn đứng bên cạnh chỉ biết trố mắt há hốc miệng ngây người ra nhìn, pháp sư Á La xông ra ngoài đầu tiên, buông lại một câu “đi theo tôi”, sau đó biến mất bên ngoài cửa nhà lao như một cơn gió. Nhạc Dương và Mẫn Mẫn đưa mắt nhìn nhau, rồi cũng vội vàng theo ra ngoài.
Quách Nhật Niệm Thanh thay đổi lại việc bố phòng, sai thủ hạ đi tìm hai ba lượt, song chẳng hề thấy một bóng quân phiến loạn nào cả. Khước Ba Ca Nhiệt không kìm được, bực tức hỏi: “Chẳng phải nói là khắp nơi toàn bọn phản loạn sao? Người đâu cả rồi?”
Tên lính thủ hạ của Quách Nhật Niệm Thanh nhăn nhó mặt mày, ủ rũ nói: “Vừa nãy đích thực là kẻ địch ở khắp nơi, có rất nhiều đội trưởng trúng tên thương vong.”
Quách Nhật Niệm Thanh vẫn ung dung hoàn thành nốt việc bố trí lại phòng ngự, rồi mới chậm rãi cất tiếng: “Không cần phải tìm nữa, làm gì có nhiều kẻ địch như vậy chứ? Lẽ nào các ngươi vẫn chưa nhìn ra? Bọn chúng đã lợi dụng khả năng tấn công từ xa của cung tên, gây ra hiện tượng giả tạo, khiến chúng ta tưởng rằng khắp nơi đều có địch, kỳ thực, phạm vi hoạt động của chúng chỉ trong khoảng một trăm bước chân thôi.”
Khước Ba Ca Nhiệt nói: “Trong vòng một trăm bước chân, không thể nào cùng lúc bắn hạ nhiều đội trưởng như vậy được!”
Quách Nhật Niệm Thanh lắc đầu: “Có người làm được, cùng lắm chúng chỉ cần hai đến ba người là đủ rồi.”
Khước Ba Ca Nhiệt ngạc nhiên thốt: “Hai, ba người, vậy không phải quân phản loạn, mà là...”
Quách Nhật Niệm Thanh mỉm cười, gật đầu: “Đúng thế, khách quý mà chúng ta đợi suốt hai ngày nay, cuối cùng cũng đến rồi. Đi thôi, cũng nên quay lại rồi. Thực ra, bọn chúng giúp ta tìm được sơ hở trong hệ thống tuần phòng, chúng ta cũng nên cảm ơn chúng mới phải, đúng không nhỉ?”
Khước Ba Ca Nhiệt hạ giọng nói: “Giờ đã quay lại luôn, liệu có hơi sớm quá không?”
Quách Nhật Niệm Thanh cười khẩy: “Sớm? Không sớm đâu, ta đã cho chúng đủ thời gian rồi, nếu như vậy mà vẫn không cứu được người thì chúng cũng chẳng đáng cho ta phải động não nữa.”
Trên đường, có binh sĩ chạy tới dâng lên một cuộn giấy. Về đến vương cung, Quách Nhật Niệm Thanh mới mở ra xem, rồi lại có người chạy vào báo cáo, mấy tên lính cai ngục đều bị đánh ngất, dựa vào vết chân để lại, phát hiện ra có hai người xông vào, cứu thoát ba người đang bị giam trong nhà lao.
Quách Nhật Niệm Thanh lại mở cuộn giấy ra, vẻ mặt xem chừng như lấy làm hứng thú: “Hai người, vậy tức là, toàn bộ bọn chúng đều không sao cả.”
Khước Ba Ca Nhiệt ở phía sau liếc trộm một cái, thắc mắc: “Ở thôn Công Nhật Lạp có ba tên, chúng ta bắt được hai tên, hai tên đến cứu, còn một tên nữa đâu?”
Quách Nhật Niệm Thanh tỏ vẻ không vui: “Sự việc không thể chỉ nhìn bề ngoài được, hai tên đi cứu người, ít nhất cũng phải để lại một tên tiếp tục quấy nhiễu chúng ta khi chúng bận rộn trong nhà lao. Ta nghĩ, bọn chúng sẽ để lại tên nhạy cảm nhất với nguy hiểm, cũng chính là tên râu ria đó. Từ lần đầu tiên nhìn thấy hắn, ta đã cảm nhận được sát khí tỏa ra hừng hực rồi. Đó là một thứ sát khí được mài giũa trên chiến trường, đặt giữa sự sống và cái chết. Trong đám người ấy, nếu nói về giết người, thì tên đó phải xếp vào hàng thứ nhất. Chúng muốn về đến thôn Công Nhật Lạp, cũng phải mất thêm một ngày đường nữa.”
Khước Ba Ca Nhiệt lại thắc mắc: “Sao ngươi chắc chắn bọn chúng sẽ quay lại Công Nhật Lạp?”
Quách Nhật Niệm Thanh nói: “Hôm nay, đám người ấy bất ngờ tấn công, rõ ràng là đã nắm rõ được tuyến đường tuần phòng của chúng ta, nhưng không phải là thông tin từ bên trong tiết lộ, mà chỉ có thể là kết quả do chúng tự quan sát. Muốn nhìn ra được khuyết điểm trong hệ thống bố phòng này, ít nhất phải quan sát trong một ngày, cũng có nghĩa là, những kẻ đến đây hôm nay sớm đã quanh quẩn ở gần Tước Mẫu này từ hôm trước rồi. Thậm chí ta còn dám khẳng định, địa điểm chúng ước định sẽ gặp nhau ban đầu, chắc chắn là Tước Mẫu, chỉ là, thời gian chúng quay lại đây hơi muộn hơn so với dự tính của ta thôi.”
Khước Ba Ca Nhiệt lại hỏi: “Thế thì liên quan gì đến Công Nhật Lạp?”
Quách Nhật Niệm Thanh kéo sợi dây mành, một tấm bản đồ địa hình liền hiện ra trước mắt. Hai vương quốc Yaca, Langbu được phân định rõ ràng, núi non sông suối thảy đều hết sức tinh xảo rành mạch. Y chỉ vào bản đồ ấy nói: “Tại sao chúng lại trở lại muộn hơn ta dự tính? Tại sao hôm nay chúng mới hành động, mà không phải hôm qua? Ngươi nhìn xem, đây là chỗ bọn chúng gặp nhau, khu vực quần cư của bọn người Lỗ Mặc trải dài quanh hồ Sinh Mệnh, phía Tây vươn đến Thác Nhật, phía Nam đến tận mép vách đá, phía Bắc là chân núi. Sau khi chúng thất bại, nơi tránh nạn gần nhất chính là Tước Mẫu; nếu không ở Tước Mẫu, thì Thác Nhật đã bị hủy, còn Giang Tu thì có núi cao, Đông Mã cũng bị sông lớn ngăn trở, phương hướng đào vong duy nhất của chúng, cũng chỉ còn có Công Nhật Lạp thôi. Vì vậy, bọn chúng chọn hôm nay hành động, chỉ có hai nguyên do: thứ nhất, từ Công Nhật Lạp đến đây, vừa khéo mất một ngày đường; thứ hai, bọn chúng tách ra làm hai nhóm, một ở gần Tước Mẫu, một nhóm đã chạy đến Công Nhật Lạp. Những tên ở gần Tước Mẫu không biết có bao nhiêu tên đồng bọn bị chúng ta bắt giữ, vậy nên phải lên kế hoạch kỹ càng, từ đó mà chậm trễ không dám động thủ, đến khi đồng bọn ở Công Nhật Lạp truyền tin, bọn chúng xác định số người bị chúng ta bắt được không nhiều, mới lựa chọn ra tay. Sau đó, tự nhiên là sẽ hẹn gặp nhau ở Công Nhật Lạp rồi, hừ, khả năng này rất lớn.”
Khước Ba Ca Nhiệt nói: “Tại sao khả năng thứ hai lại rất lớn?”
Quách Nhật Niệm Thanh “hừ” khẽ một tiếng: “Con người, không phải máy móc, ta không tin tinh thần của chúng cứng rắn hơn sắt thép.”
Khước Ba Ca Nhiệt nghe vậy liền vuốt đuôi lấy lòng: “Tước Mẫu vương quả nhiên tính toán như thần.”
Quách Nhật Niệm Thanh lại nói: “Tất cả những thứ này, ta đã nghĩ đến từ trước khi bọn chúng đụng độ với tên tóc vàng ấy rồi. Nếu bây giờ mới nghĩ thì đã quá muộn, nhìn sự việc cần phải nhìn xa một chút.”
Khước Ba Ca Nhiệt vừa nghe nhắc đến gã đàn ông tóc vàng, lập tức lại lo lắng: “Ngươi nói xem liệu bọn chúng có quay lại tìm chúng ta gây phiền phức không? Có điều, toàn bộ bọn Trác Mộc Cường Ba đều còn sống, lẽ nào tên tóc vàng ấy đã bị tiêu diệt?”
Quách Nhật Niệm Thanh nhiếc móc: “Thật không hiểu tại sao ngươi lại làm được Đại Địch ô của Yaca nữa! Bọn Trác Mộc Cường Ba đều sống nhăn ra đấy, vậy thì đám còn lại chắc chắn cũng không sao, tuy hơi sai lệch một chút so với dự kiến của ta, nhưng vậy cũng đủ khiến tên Trác Mộc Cường Ba đó và đồng bọn tổn thương nguyên khí rồi. Còn việc quay lại tìm chúng ta gây phiền phức, ngươi đừng quên đích đến của bọn chúng là Bạc Ba La thần miếu trên tầng bình đài thứ ba, chúng ta đã thay hắn giữ chân Trác Mộc Cường Ba, hắn cảm ơn còn chẳng hết nữa là. Hừ, tầng thứ ba, cấm địa của bộ tộc Qua Ba, Bạc Ba La thần miếu, bọn chúng tự tìm đường chết đấy mà.”
Khước Ba Ca Nhiệt thử thăm dò: “Phải rồi, ta từng nghe nói, trước khi hòa đàm đình chiến với Yaca chúng ta, ngươi từng một mình đi lên tầng thứ ba...” Lời còn chưa dứt, lão đã bị Quách Nhật Niệm Thanh trừng mắt cho một cái, liền giật mình không dám hỏi thêm nữa.
Quách Nhật Niệm Thanh dường như không nghe thấy câu hỏi này, lẩm bẩm tự nói một mình: “Được rồi, chướng ngại cuối cùng cũng sắp bị dẹp bỏ, để xem xem, lão già ấy có lợi hại như ngươi nói hay không.”
Dưới chân vách đá thành Tước Mẫu, pháp sư Á La cùng bọn Nhạc Dương hội hợp với Ba Tang. Pháp sư giới thiệu với Nhạc Dương: “Đây là người đưa tin từ thôn Công Nhật Lạp, đi theo anh ta, Cường Ba thiếu gia và pháp sư Á La đang ở đó đợi chúng ta.”
Nhạc Dương dỏng tai lên, nghe ngóng một hồi, lấy làm thắc mắc: “Lạ thật, bên trên sao yên tĩnh vậy nhỉ.”
Pháp sư Á La nói: “Mặc kệ bọn họ, hội hợp với Cường Ba thiếu gia trước rồi tính sau.”
Mẫn Mẫn sờ thử lên trán Trương Lập, hỏi: “Trương Lập, có thấy đỡ hơn chút nào không?”
Trương Lập lẩm nhẩm: “Ừm, chẳng cảm thấy gì cả, chỉ thấy buồn ngủ thôi, a...” Anh ngáp một cái rõ to: “Chỉ muốn ngủ thêm một lúc nữa thôi.” Tinh thần Trương Lập có vẻ vô cùng ủ rũ, người đưa tin ở thôn Công Nhật Lạp, vốn trước đây từng đánh nhau với anh một trận, vậy mà anh cũng chẳng chú ý.
“Đừng ngủ, Trương Lập.” Giọng Nhạc Dương khản đặc: “Không được ngủ!” Lời nói của Đại Địch ô Thứ Kiệt vẫn luôn văng vẳng bên tai anh, vả lại, anh cũng cảm nhận được, Trương Lập trên lưng mình, dường như nhẹ hẳn đi...
Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam đi một mạch không dừng đến vùng phụ cận khu di tích của người Mục trên lưng chừng vách đá, dọc đường thi thoảng cũng gặp phải những nhóm nhỏ người Lỗ Mặc, nhưng họ đều tránh được. Có điều, lúc bắn dây móc đu lượn, cần phải tập trung tinh thần cao độ, chỉ hơi không chú ý một chút là sẽ va chạm ngay tức khắc. Tâm tư Trác Mộc Cường Ba rất hỗn loạn, đến chỗ di tích, Lữ Cánh Nam thấy gã có vẻ không chịu nổi nữa, bèn đề nghị dừng lại nghỉ ngơi giây lát. Trác Mộc Cường Ba đành gật đầu đồng ý.
Lúc leo lên con dốc thẳng đứng, Lữ Cánh Nam thấy hơi thở Trác Mộc Cường Ba nặng nề, bèn hỏi: “Sao anh hô hấp nặng nề vậy? Ở chỗ đó vẫn không có cảm giác gì à?”
Trác Mộc Cường Ba biết Lữ Cánh Nam đang nói đến “Hải để luân” của gã, bèn lắc lắc đầu, nhắc lại lời của pháp sư Tháp Tây với cô. Lữ Cánh Nam nhìn gã với ánh mắt đầy tiếc nuối, cũng không biết nên nói sao cho phải, hai người cứ thế lẳng lặng lên đến cái hang di tích của người Mục. Vừa đặt chân lên bậc thang cuối cùng, liền nghe tiếng Lữ Cánh Nam quát hỏi: “Ai?”
Bên trong vẳng ra một âm thanh kinh hoảng: “Qua... qua đường thôi...”
Trác Mộc Cường Ba nghe tiếng, chợt cảm thấy âm thanh này dường như rất quen thuộc, bèn cùng Lữ Cánh Nam tiến vào góc hang. Cả hai cùng giật mình kinh ngạc, thốt lên: “Tước Mẫu vương!”
Ông già cuộn mình trong ngách tối ấy tuy đã dùng quần áo cũ rách nát che đậy thân mình, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam vẫn lập tức nhận ra, huống hồ bên cạnh ông ta còn có công chúa Lạp Mẫu vẫn đang quấn băng che mắt.
Tước Mẫu vương vừa thấy Trác Mộc Cường Ba, liền nước mắt ròng ròng, bi thương gào lên: “A, gặp được các vị ở đây, thật... thật tốt quá rồi!”
Trác Mộc Cường Ba rảo chân bước nhanh lên trước, đỡ lấy ông già cơ hồ sắp ngất xỉu, nôn nóng hỏi: “Sao ông lại ở đây? Tước Mẫu xảy ra chuyện gì rồi?” Lữ Cánh Nam cũng nắm lấy tay công chúa, nhẹ nhàng vỗ về an ủi.
Ca Mã Cơ Bạch Đăng nói: “Ta đã không còn là Tước Mẫu vương nữa rồi, giờ đây đại vương của Langbu, là Quách Nhật Niệm Thanh.”
Trác Mộc Cường Ba tựa như sét đánh ngang tai, hai tay bất giác vận sức gồng lên, lớn tiếng quát: “Ông nói cái gì?”
Ca Mã Cơ Bạch Đăng mặt như đưa đám, ủ rũ nói: “Trong mấy năm nắm giữ quân đội Tước Mẫu, Quách Nhật Niệm Thanh sớm đã bố trí mọi thứ, tướng lĩnh trong quân đội đều bị nó thay thế bằng người của mình. Trong đội thân binh của ta cũng có người của hắn, những kẻ thực sự trung thành với ta chỉ còn có mấy người ít ỏi, chỉ có mấy người mà thôi! Hôm đó, hắn cố ý đào tẩu...”
Đoạn phía sau Trác Mộc Cường Ba đã không còn nghe rõ nữa, trong đầu gã chỉ văng vẳng vang lên câu nói “Giờ đây đại vương của Langbu, là Quách Nhật Niệm Thanh,“ không ngừng lặp đi lặp lại. Gã đột nhiên cảm thấy lo lắng khôn tả. Mấy người nhóm của Mẫn Mẫn mãi vẫn không thấy về Công Nhật Lạp, liệu có phải họ đã đến Tước Mẫu rồi không? Ban đầu, cả bọn đã hẹn sẽ tập trung ở Tước Mẫu, mà bọn gã lại chính là những kẻ vạch trần âm mưu của Quách Nhật Niệm Thanh, chắc chắn hắn sẽ không buông tha cho họ... Mẫn Mẫn giờ sao rồi? Còn Trương Lập, Nhạc Dương? Pháp sư Á La và Ba Tang? Phải tính sao đây? Giờ phải tính sao đây?
Trương Lập gửi mẹ
Nghe Tước Mẫu vương kể lại, Lữ Cánh Nam không khỏi giật mình kinh hãi, vội hỏi: “Quách Nhật Niệm Thanh ở ngay bên cạnh ông tự tiện điều động tướng lĩnh, sắp đặt thân tính của mình, vậy mà ông không hề hoài nghi hắn sao?”
Tước Mẫu vương bi thương lắc đầu: “Mấy năm nay, toàn bộ tinh lực của ta đều dồn cả vào con gái, trong lòng luôn nghĩ, ngôi báu này sớm muộn gì cũng là của Quách Nhật Niệm Thanh rồi, đương nhiên là không chú ý nhiều đến nó.”
Lữ Cánh Nam bấy giờ mới sực nghĩ đến, Quách Nhật Niệm Thanh bày kế làm mù mắt công chúa, không đơn giản chỉ vì y không muốn lấy nàng làm vợ, kẻ này dùng kế cực kỳ sâu xa, tính toán kỹ lưỡng, hoàn toàn nắm chắc nhược điểm của từng người.
Lữ Cánh Nam nhìn bộ dạng nhếch nhác thảm hại của Tước Mẫu Vương, rồi lại nhìn công chúa Lạp Mẫu đáng thương bên cạnh ông ta, thật đúng là, phượng hoàng ướt sũng không bằng gà, không khỏi lấy làm thương xót: “Các vị có dự tính gì không?”
“Dự tính?” Tước Mẫu vương cười khổ một tiếng: “Chạy trốn, chạy càng xa càng tốt, tìm một sơn thôn nào không có ai biết đến chúng ta, sống nốt cuộc đời bình lặng. Chỉ hy vọng Quách Nhật Niệm Thanh đừng quá tuyệt tình, tha cho tính mạng của hai cha con chúng tôi.”
Lữ Cánh Nam nói: “Lẽ nào dân chúng Langbu không đi theo ông chống lại Quách Nhật Niệm Thanh?”
Tước Mẫu vương cúi gằm mặt xuống, nói: “Bản vương luôn ở trong cung, ít khi ra ngoài, cũng chẳng có mấy người dân được nhìn thấy mặt. Lần gần đây nhất cũng là mười mấy năm trước, bọn họ đa số đều là những người già đức cao vọng trọng, giờ hầu như đã thành người thiên cổ cả rồi. Vả lại, mười mấy năm nay, bản vương thay đổi rất nhiều, các vị cũng biết đấy, các thôn làng ở Langbu chúng ta đa phần đều tự cấp tự túc, hơn chục năm không qua lại là chuyện rất bình thường. Giờ có thể nói, ngoài dân chúng thành Tước Mẫu, không còn ai nhận ra bản vương nữa. Đáng tiếc nhất là, lần này bỏ trốn quá vội vàng, thậm chí còn không kịp mang theo tín vật nào có thể chứng minh được thân phận của bản vương. Chẳng những thế, bao năm nay Quách Nhật Niệm Thanh luôn bôn ba bên ngoài, những người biết và ủng hộ nó ngược lại rất nhiều, chỉ cần nó khống chế được thế cục ở Tước Mẫu, thử hỏi còn ai có thể phản đối nữa đây?”
Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã nôn nóng đứng dậy, nói với Lữ Cánh Nam: “Đi thôi, chúng ta mau đi!” Gã thực sự không dám tưởng tượng, nếu bọn Mẫn Mẫn rơi vào tay Quách Nhật Niệm Thanh hậu quả sẽ như thế nào.
Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn lần cuối hai cha con bị Quách Nhật Niệm Thanh đuổi xuống khỏi vương tọa, có điều, giờ đây bản thân bọn cô cũng đang phải vùng vẫy trong vòng xoáy âm mưu của Quách Nhật Niệm Thanh, thực sự không có khả năng giúp đỡ, chỉ còn biết thầm cầu nguyện cho họ.
“Đi thôi!” Trác Mộc Cường Ba đứng bên ngoài cửa hang thúc giục, gã vốn chẳng có hảo cảm gì với vị Tước Mẫu vương. Có thể nói, tất cả kết cục này đều do lão quốc vương u mê tự chuốc lấy, gieo gió gặt bão. Chính tay ông ta đã vun đắp sức mạnh cho Quách Nhật Niệm Thanh, giờ đây, Quách Nhật Niệm Thanh dùng chính sức mạnh ấy lật đổ ông ta, lại còn tiến thêm một bước, uy hiếp những khách qua đường như bọn gã... Gã đột nhiên lại nhớ đến Mẫn Mẫn, trong lòng rối như tơ vò.
Vậy là, họ không nghỉ ngơi được chút nào ở chỗ di tích. Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba loạng choạng bắn dây móc, vội liên tiếp tung mình mấy lượt, lao lên phía trước gã, lên tiếng an ủi: “Sự việc không tệ hại như anh nghĩ đâu. Tước Mẫu xảy ra biến cố lớn như vậy, họ không thể nào không phát giác ra điều gì, đặc biệt là Ba Tang, anh ấy rất mẫn cảm với máu và chiến tranh.”
Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng chất vấn: “Vậy tại sao họ vẫn chưa trở về Công Nhật Lạp? Còn lưu lại đó làm gì?”
Lữ Cánh Nam lại nhẫn nại giải thích: “Đó là nơi chúng ta hẹn gặp, dù họ phát hiện nguy hiểm, thì cũng phải ở lại để cảnh báo cho chúng ta; một khả năng khác nữa là, trong nhóm chúng ta có người không may bị bắt, họ ở lại để nghĩ cách cứu người.”
“Vậy mà cô còn bảo tôi là không có chuyện!”
Đúng lúc ấy, hai người cùng lúc phát giác phía trước có người, vừa nấp vào một tán cây, liền nghe thấy giọng Nhạc Dương cất lên: “Cố gắng lên, anh sẽ không sao đâu mà.”
Chỉ thấy pháp sư Á La, Ba Tang, Nhạc Dương, Mẫn Mẫn lần lượt xuất hiện, Trác Mộc Cường Ba hân hoan khôn tả, kêu lên một tiếng rồi nhảy xuống.
“Nhạc Dương!” “Trương Lập!”
Liếc thấy Mẫn Mẫn không sao, Trác Mộc Cường Ba cũng yên tâm phần nào, lập tức dồn sự chú ý vào Trương Lập đang nằm phục trên lưng Ba Tang. Bọn Nhạc Dương thấy Cường Ba thiếu gia và giáo quan từ trên trời nhảy xuống, cũng vô cùng hoan hỉ, nhưng bước chân vẫn không dừng lại. Trác Mộc Cường Ba còn chưa chạm đất, đã nghe Nhạc Dương hỏi: “Cường Ba thiếu gia, pháp sư Tháp Tây đâu?”
Trác Mộc Cường Ba chạm đất, lộn một vòng cho hết đà rồi đứng dậy: “Vẫn ở thôn Công Nhật Lạp. Trương Lập sao vậy?”
Nhạc Dương giẫm chân nói: “Mau lên, vừa đi tôi vừa kể,“ rồi tấp tểnh lê bước tiến lên.
Lữ Cánh Nam thì trực tiếp đưa tay bắt mạch Trương Lập, chỉ thấy pháp sư Á La lắc đầu nói: “Là một loại cổ độc không biết tên đã thất truyền, giờ chỉ còn xem pháp sư Tháp Tây có cách gì hay không thôi.”
Sau khi chạy khỏi Tước Mẫu được một quãng không xa, Nhạc Dương tinh thần mệt mỏi, cộng với vết thương ở chân vẫn chưa hồi phục nên hành động chậm chạp hẳn, Ba Tang thấy vậy liền không nói một lời, giằng lấy Trương Lập, đặt lên lưng mình. Mới đầu, thần trí Trương Lập vẫn còn tỉnh táo, trên đường trốn chạy vẫn không quên trêu đùa cợt nhả với Nhạc Dương, nhưng chẳng bao lâu sau, anh lại rơi vào trạng thái đờ đẫn buồn ngủ. Pháp sư Á La kiểm tra trạng thái của Trương Lập, rồi lại nghe Nhạc Dương tả lại quá trình, song cũng thúc thủ không biết làm sao. Còn việc pháp sư Tháp Tây có biện pháp gì chữa trị loại cổ độc này hay không, pháp sư Á La cũng không dám chắc. Nhưng dù sao cũng cần phải nhanh chóng đến chỗ pháp sư Tháp Tây, có lẽ, lúc này ông chính là hy vọng duy nhất của Trương Lập.
Sau cả một quãng đường dài bôn ba mệt mỏi, dù Ba Tang thể lực kinh người cũng phải thở phì phò như trâu. Trác Mộc Cường Ba đi phía sau, khẽ vỗ nhẹ lên vai anh ta một cái. Ba Tang liền hơi vặn người, lưng lệch sang bên phải. Trác Mộc Cường Ba lập tức vươn tay gánh lấy Trương Lập, khẽ nhún vai, buông tay, rồi xốc mạnh, để Trương Lập bám lên lưng mình.
Thôn Công Nhật Lạp. Pháp sư Tháp Tây sau khi biết tin vội vàng quay lại. Ông ở trong phòng Trương Lập kiểm tra suốt nửa ngày trời, Trác Mộc Cường Ba trông chừng bên cạnh. Nhạc Dương vốn định vào làm trợ thủ cho pháp sư, nhưng ông chỉ liếc anh một cái, bảo ngay là thể lực không đủ.
Trong phòng, công việc của Trác Mộc Cường Ba rất đơn giản, chỉ là dịch chuyển cái ghế mỗi khi pháp sư có yêu cầu. Thời gian còn lại, pháp sư Tháp Tây hy vọng gã đừng lên tiếng, đừng đi lại, cũng đừng ngồi lên ghế ngủ thiếp đi, tốt nhất là đứng sau lưng ông, để khi nào cần là có thể lập tức di động cái ghế đến vị trí cần thiết.
Theo Trác Mộc Cường Ba quan sát, pháp sư Tháp Tây dường như chẳng làm việc gì cụ thể, chỉ sờ sờ chỗ này, nắn nắn chỗ kia, nhưng chỉ một lúc sau, đã thấy trán ông lấm tấm mồ hôi nhỏ xuống, vậy là, lau mồ hôi cho pháp sư cũng thành một công việc của gã. Trác Mộc Cường Ba thấy Trương Lập lặng lẽ nằm đó, tựa như đang ngủ say, nhưng hai mắt pháp sư Á La lại mở to, chân mày nhíu chặt, răng nghiến kèn kẹt, tựa như một vị chỉ huy quan sát hai quân đối mặt trên chiến địa, chiến cuộc đang hồi kịch liệt, thậm chí không dám thở mạnh.
Lại thêm một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba cuối cùng đã hiểu ra tại sao pháp sư Tháp Tây lại nói Nhạc Dương không đủ thể lực; cứ đứng yên tại chỗ bất động, không nói không cười, chẳng ngờ lại cũng tốn sức đến vậy. Mới đầu gã vẫn chưa thấy gì, nhưng càng lâu về sau, hai chân từ đầu gối trở xuống đến gót chân dần dần tê chồn, càng khó chịu hơn nữa là, cả người cứ như con vụ sắp sửa ngừng xoay, nửa thân trên và nửa thân dưới không thể giữ trên một đoạn thẳng, chỉ cần hơi lơ là một chút, lập tức muốn nghiêng ngả sang hai bên ngay. Nhưng chỉ có vậy thì không đủ khiến Trác Mộc Cường Ba chịu không thấu, điều thực sự khiến gã cảm thấy khó chịu là, pháp sư Tháp Tây yêu cầu gã phải như một cỗ máy luôn luôn sẵn sàng chờ lệnh 24/24. Ông đánh tay ra hiệu một cái, là Trác Mộc Cường Ba tức khắc phải phản ứng với tốc độ nhanh nhất, dịch chuyển cái ghế sang một vị trí khác. Cũng bởi vậy, Trác Mộc Cường Ba luôn phải tập trung tinh thần cao độ, chờ đợi cánh tay ông ra hiệu. Nhưng pháp sư Tháp Tây mãi không thấy có động tĩnh gì, gã phải nhìn chằm chằm vào ông chờ đợi, cảm giác ấy, như thể đang trong một trận đối kháng thuần túy tinh thần thôi vậy. Thần kinh, cơ bắp gã đều căng ra như dây đàn. Nhìn dáng ngồi bất động như núi của pháp sư Tháp Tây, Trác Mộc Cường Ba dần dần ngộ ra, chỉ một động tác đứng đơn giản thế này thôi, con người ta cũng có cực hạn chịu đựng, muốn đột phá cực hạn này, nhất thiết phải trải qua huấn luyện chuyên biệt... Mật tu!
Trác Mộc Cường Ba áng chừng đã qua khoảng hai bữa cơm, khi gã bắt đầu cảm thấy mình gần như không chịu nổi nữa, chợt thấy thân thể pháp sư Tháp Tây đung đưa như sắp ngã khỏi ghế. Trác Mộc Cường Ba vội vàng bước lên đỡ ông, nhưng chính gã cũng suýt ngã lăn ra đất. Pháp sư Tháp Tây dùng đầu ngón tay ấn mấy cái lên trán mình, nói: “Chúng ta ra ngoài thôi.” Giọng ông đột nhiên nghe già nua đi rõ rệt.
Trác Mộc Cường Ba không thể tưởng tượng nổi, một vị cao nhân trong hàng ngũ Mật tu giả, có thể mấy ngày mấy đêm liền không ăn không uống, lại mắt hoa đầu váng chỉ vì nhìn chằm chằm vào một người mấy tiếng đồng hồ, gã vội hỏi: “Trương Lập... cậu ấy... có sao không ạ?”
Câu trả lời của pháp sư Tháp Tây là: “Thật đáng sợ!”
Khi Trác Mộc Cường Ba cõng pháp sư Tháp Tây loạng choạng bước ra khỏi gian phòng ấy, mấy người Nhạc Dương, Mẫn Mẫn lập tức ùa tới vây quanh. Pháp sư Á La đỡ pháp sư Tháp Tây, Mẫn Mẫn cầm bát đưa cho Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh ăn chút gì đi.” Nhạc Dương thì luôn miệng hỏi: “Pháp sư, Trương Lập sao rồi ạ? Giờ anh ấy sao rồi?” Địch ô An Cát Mẫu và một đám dân làng cũng ở bên ngoài, tiếng người ồn ào náo động. Lữ Cánh Nam phải lên tiếng duy trì trật tự: “Mọi người yên tĩnh một chút, lùi lại hết đi.”
Trác Mộc Cường Ba nhẹ nhàng đón lấy bát thức ăn, đang định bảo giờ mình chỉ muốn nghỉ ngơi một lát, đột nhiên cảm thấy những người xung quanh đều nín lặng như tờ, gã cũng bất giác im bặt, ngoảnh đầu lại nhìn. Chỉ thấy pháp sư Tháp Tây đang nhìn chằm chằm vào Nhạc Dương, vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc, kế đó ánh mắt ông quét một vòng, lộ vẻ kinh ngạc nhìn Lữ Cánh Nam. Tiếp theo, ánh mắt pháp sư Tháp Tây lần lượt lướt qua trên người pháp sư Á La, Ba Tang, Mẫn Mẫn, Địch ô An Cát Mẫu, Mã Cát, và những dân làng... Chính ánh mắt sắc bén, pha chút giận dữ, mang lại cho người ta cảm giác rờn rợn đáng sợ ấy của ông đã khiến tất cả mọi người tức thì nín thinh không phát ra tiếng động gì nữa.
Pháp sư Tháp Tây cũng chăm chú quan sát Trác Mộc Cường Ba khoảng một phút, sau đó ông giơ bàn tay mình lên, nhìn thật kỹ một lúc lâu, tựa như lòng bàn tay mình có huyền cơ gì đó vậy. Cuối cùng, pháp sư nhắm mắt lại, thở ra một hơi dài. Nhạc Dương căng thẳng hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy? Pháp sư?”
Pháp sư Tháp Tây điềm đạm nói: “Cậu trúng cổ độc rồi, Cánh Nam cũng vậy, Á La cũng vậy, An Cát Mẫu cũng vậy, tất cả chúng ta, đều đã trúng cổ độc.” Một câu nói này của pháp sư Tháp Tây, lập tức khiến toàn bộ mọi người có mặt chấn động.
“Thế... thế là sao? Lẽ nào loại cổ độc này, còn truyền nhiễm được?” Nhạc Dương lắp bắp hỏi.
Pháp sư Tháp Tây cũng đang thầm suy đoán trong lòng, tự nhủ: “Không đúng, loại cổ độc Trương Lập trúng phải dường như không có khả năng truyền nhiễm, mà mọi người bị nhiễm độc theo con đường khác. Trong nước ư? Không, theo ghi chép trong thư tịch xưa, loại cổ độc này rất khó lây lan theo đường nước, vả lại cổ độc mỗi người trúng phải đều không giống nhau, bị truyền nhiễm từ đâu vậy nhỉ? Triệu chứng của Trác Mộc Cường Ba nặng hơn ta, hẳn là cậu ấy đã truyền nhiễm cho ta. Cậu ấy bị nhiễm lúc đi tiếp ứng bọn Nhạc Dương; trong đám người ấy, tình trạng của Nhạc Dương là nghiêm trọng nhất, nhưng dường như cậu ấy không phải người trực tiếp mang mầm bệnh, lẽ nào...” Pháp sư Tháp Tây đột nhiên thốt lên: “Đưa tôi đến chỗ Đại Địch ô Thứ Kiệt.”
Sau khi xem xét tình hình của Đại Địch ô Thứ Kiệt, pháp sư Tháp Tây ảo não lắc đầu: “Quả nhiên là vậy...”
Pháp sư Á La khẽ hỏi: “Chuyện gì thế?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Đại Địch ô Thứ Kiệt rõ ràng đã thử nghiệm rất nhiều loại cổ độc trên cơ thể mình, giống như các loài động vật thường xuyên ăn độc trùng vậy, độc tố bên trong cơ thể ông ấy tự trung hòa lẫn nhau, đạt đến một trạng thái cân bằng nhất định, bình thường thì không có gì dị thường cả. Nhưng lần này, khi Quách Nhật Niệm Thanh tra khảo ông ấy, để kéo dài sinh mạng, giữ cho Thứ Kiệt được tỉnh táo, hắn đã sử dụng một loại cổ độc khác... Mặt khác, sức sống của Thứ Kiệt giờ đây cực kỳ yếu ớt, cân bằng của môi trường bên trong cơ thể đã hoàn toàn bị phá vỡ. Bởi thế, các loại cổ độc bắt đầu cắn ngược trở lại, làm ông ấy biến thành một nguồn bệnh lớn, phàm người nào tiếp cận ông ấy, hoặc ít hoặc nhiều đều bị nhiễm phải một số cổ độc, sau đó lại lây lan truyền nhiễm cho những người khác, thành thử, người trong làng này đều đã bị nhiễm bệnh rồi.”
Pháp sư Á La lại hỏi: “Còn cứu được ông ấy không?”
Pháp sư Tháp Tây lắc đầu: “Sinh mệnh ông ấy đã đi đến điểm tận cùng, giờ đây cơ thể này đã biến thành chiến trường cho các loại cổ độc cắn xé lẫn nhau, ta cũng không thể làm gì được nữa.”
“Vậy người trong thôn làng phải tính sao?”
“Ta sẽ gắng hết sức, ta thấy tình trạng của họ không hề rõ rệt, nhưng có nặng có nhẹ, dường như không có loại nào là cổ độc chí mạng cả.”
“Còn Trương Lập?”
“...”
“Trương Lập... còn cứu được không?”
“...”
“Ừm??”
“Ta chưa từng gặp loại cổ độc nào như thế, trong thư tịch cũng không có ghi chép gì về nó.” Pháp sư Tháp Tây nói ra sự thực: “Kinh mạch trong cơ thể cậu ta dường như đã bị cải tạo, giờ đây đã hoàn toàn lệch lạc, nhiệt độ cơ thể cũng khác với người thường. Rõ ràng, đây là một loại cổ độc ảnh hưởng đến đại não, cũng là loại phức tạp nhất, khó đối phó nhất.”
Pháp sư Á La thắc mắc: “Tại sao không thể trực tiếp dùng biện pháp phẫu thuật? Giống như chữa trị cho công chúa Lạp Mẫu vậy.”
“Không giống nhau.” Pháp sư Tháp Tây lắc đầu nói: “Công chúa Lạp Mẫu, chỉ cần phẫu thuật loại bỏ u nang đè lên dây thần kinh thị giác, chỉ là dạng phẫu thuật mở hộp sọ đơn giản; còn tình huống của Trương Lập, rõ ràng là các phần trung tâm của đại não bị tổn thương, mở hộp sọ can thiệp sâu, phục hồi tổ chức não... cho dù bệnh viện hiện đại nhất thế giới cũng chưa chắc đã làm được. Giờ thảo luận chuyện này cũng vô dụng, tôi chỉ có thể cứu những người còn cứu được thôi.”
Pháp sư Á La lẳng lặng cúi đầu, trầm giọng nói: “Vậy thì, buộc phải bỏ rơi Trương Lập sao?”
Sau một hồi lâu trầm mặc, pháp sư Tháp Tây mới chậm rãi cất tiếng: “Để ta thử dùng kim châm, cố định các kinh mạch của cậu ấy lại, còn những thứ khác... chỉ còn biết nghe theo ý trời thôi vậy.”
“Ừm...” pháp sư Á La thở dài một hơi, bấy giờ mới cõng pháp sư Tháp Tây lên, nặng nề bước ra.
Hai vị pháp sư vừa bước ra bên ngoài, liền bị một đám người quây lại hỏi han. Pháp sư Tháp Tây nói với mọi người phát hiện của mình, đồng thời tỏ ý mình sẽ tận hết sức lực chữa trị, dân làng mới yên tâm phần nào. Trong suy nghĩ của bọn họ, cổ độc của Đại Địch ô Langbu, do Đại Địch ô Yaca giải trừ chắc là không vấn đề gì, vả lại, trước đó, qua Địch ô An Cát Mẫu, mọi người cũng biết pháp sư Tháp Tây chữa trị cho các bệnh nhân của Mã Cát như thế nào, nên ai nấy đều rất có lòng tin với ông.
Tối hôm ấy, Đại Địch ô Thứ Kiệt ngừng thở. Pháp sư Tháp Tây yêu cầu mọi người đào xung quanh gian phòng của vị Địch ô già một cái rãnh tròn, rồi hỏa thiêu cả gian nhà bằng đá với di thể của ông bên trong.
Ngày hôm sau, trong vương cung Tước Mẫu, Quách Nhật Niệm Thanh nói với Khước Ba Ca Nhiệt: “Hắn vẫn chưa chết.”
Khước Ba Ca Nhiệt cau mày: “Không thể nào, chẳng lẽ bọn chúng thực sự có khả năng cứu người?”
“Không.” Quách Nhật Niệm Thanh tự tin giơ mảnh giấy trong tay lên, nói: “Qua Ba Đại Địch ô đã dùng kim châm, chắc là một bí thuật đặc biệt, khiến máu tạm thời ngưng lưu thông, nên các phản ứng bên trong cơ thể đều chậm lại, từ đó kéo dài thời gian sinh tồn cho tên Trương Lập ấy!”
“Lão ta thật sự rất lợi hại!” Khước Ba Ca Nhiệt dường như vẫn rất e ngại pháp sư Tháp Tây.
“Vậy thì cũng chưa chắc, cho dù dùng kim châm, ta thấy tên Trương Lập đó sớm muộn gì cũng phải chết thôi. Tạm thời cho bọn chúng mấy ngày nghỉ ngơi, để xem lão Địch ô từ bên ngoài đến ấy có thủ đoạn gì, nói không chừng chỉ là một tên giỏi nói mà không biết làm thôi!” Nói đoạn, ánh mắt Quách Nhật Niệm Thanh lại hướng về phía tấm bản đồ. Tiếp sau đây, y sẽ rất bận rộn, cần phải tiếp tục tiến hành thanh lọc để đảm bảo chắc chắn địa vị của mình, ngoài ra còn cần phải đặt ra một loạt kế hoạch nhằm vào Yaca nữa. Nhưng rất nhanh sau đó, đợi y rảnh tay ra, thì ngày tàn của bọn Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ đến.
“Đợi đấy, hãy đợi đấy, sắp thành hiện thực, sắp thành hiện thực rồi!” Quách Nhật Niệm Thanh thầm nhủ, khóe miệng nở một nụ cười.
Nhạc Dương để ý thấy, mấy ngày sau đó, Mã Cát không hề nước mắt lã chã, cả ngày thút thít như Mẫn Mẫn. Cô không khóc, mà chỉ ở bên cạnh Trương Lập, ánh mắt từ ái như của một người mẹ chăm chú ngắm nhìn đứa con đang say ngủ. Từ khi pháp sư Tháp Tây dùng kim châm định mạch cho Trương Lập, Mã Cát luôn ở bên cạnh anh, cầu thần Phật phù hộ, chờ đợi kỳ tích xuất hiện.
Mấy ngày hôm nay, người mệt mỏi nhất là pháp sư Tháp Tây, tuy Địch ô An Cát Mẫu cũng giúp được một số việc, nhưng hiệu quả không cao, những người khác thì lại càng không cần nhắc đến. Từ thử thuốc, thử kim châm, thử các phương pháp trị liệu, tất cả mọi sự pháp sư Tháp Tây đều phải tự tay thực hiện. Cổ độc trên người Đại Địch ô Thứ Kiệt truyền nhiễm ra cực kỳ phức tạp, chủng loại vô số, lại pha trộn hỗn độn, mỗi loại đều khiến pháp sư Tháp Tây phải vắt óc suy nghĩ, hao tổn không ít tâm lực mới tìm được cách hóa giải. Chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, mái tóc ông đã từ màu đen nhánh chuyển sang lấm tấm hoa râm, rồi từ hoa râm chuyển sang bạc trắng như cước, gương mặt cũng già nua đi đáng kể.
Còn Trương Lập, mấy ngày nay lại rất an tĩnh, dẫu có triệu chứng phát cuồng thì cũng đã bị kim châm phong tỏa, không nhúc nhích gì được. Mỗi lần thấy cơ bắp anh co giật liên hồi, hai hàm răng nghiến chặt lại, Mã Cát đều nhẹ nhàng nâng bàn tay anh lên, áp vào má mình, lẩm bẩm thủ thỉ gì đó.
Nhạc Dương thường hay ở bên cạnh lẳng lặng quan sát, anh biết, Trương Lập nhất định đang cực kỳ đau đớn, đang có vô vàn con sâu độc gặm nhấm trong não bộ của anh. Mỗi lần như thế, Nhạc Dương lại cảm thấy mình thật vô dụng!
Cổ độc của Quách Nhật Niệm Thanh rốt cuộc cũng bắt đầu có tác dụng, lớp da Trương Lập dần dần chuyển sang màu nâu xỉn, rờ lên thấy có một lớp cưng cứng, có hiện tượng chuyển hóa thành chất sừng. Lật mí mắt của anh lên, liền phát hiện trên tròng trắng những sợi tơ máu tựa như xúc tu động vật đang tập trung về phía mống mắt. Còn ở xung quanh mống mắt, lại có những đốm máu lấm chấm, khiến con mắt anh thoạt trông như một viên hồng bảo thạch. Có lúc, Trương Lập còn chảy nước mắt màu đỏ nhạt. Pháp sư Tháp Tây nói, đó là kết quả khi áp lực trong hộp sọ thay đổi, khiến Trương Lập bị chảy máu dưới mắt.
Mặc dù pháp sư Tháp Tây đã nỗ lực hết sức, nhưng cơ thể Trương Lập vẫn không ngừng biến đổi hằng ngày. Họ không có hệ thống duy trì sinh mạng, mỗi ngày, Trương Lập chỉ có thể uống một chút xíu nước sạch, thân thể được rèn từ sắt thép ấy, đang mỗi lúc một khô héo tàn lụi. Tất cả mọi người đều biết, cứ tiếp tục thế này, Trương Lập kiệt quệ mà chết chỉ là chuyện sớm hay muộn, thế nhưng họ lại không nghĩ ra được bất cứ cách nào, pháp sư Tháp Tây có thể cứu trị cho tất cả mọi người ở thôn Công Nhật Lạp, duy chỉ mình Trương Lập là không...
Còn bọn Trác Mộc Cường Ba, những người đã cùng đồng cam cộng khổ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, lại chỉ có thể ngày ngày nhìn Trương Lập gầy mòn, đau đớn, giãy giụa; toàn bộ cái quá trình chậm chạp ấy đồng thời cũng giày vò hành hạ hệ thần kinh của mỗi người bọn họ. Ba Tang càng lúc càng trầm mặt ít nói, Mẫn Mẫn thì cả ngày thút thít, vẻ bất lực và bi thương hằn sâu lên gương mặt pháp sư Á La, còn Lữ Cánh Nam tuy rằng sắc mặt vẫn luôn lạnh tựa băng sương, nhưng trong ánh mắt cũng thường thấp thoáng lộ ra vẻ đau đớn xót xa.
Cuối cùng, khi pháp sư Tháp Tây phát hiện lượng nước dãi của Trương Lập bắt đầu nhiều lên, đồng thời dính kết thành dạng tơ, ông nói với mọi người, Trương Lập đang tiết ra các bào tử thông qua đường nước dãi, nếu bất cẩn bị cắn phải thì cũng sẽ trúng độc.
Ba Tang cho rằng không nên tiếp tục kéo dài như vậy nữa, bèn đề nghị để cho Trương Lập được chết một cách yên bình. Đối với anh, để Trương Lập sống mà chỉ biết có đau đớn, ngoài ra không còn bất cứ cảm giác gì khác thế này, thì có lẽ, cái chết mới là một sự giải thoát.
Nhưng Nhạc Dương kiên quyết không đồng ý, anh không đưa ra bất cứ nguyên nhân và lý do nào, chỉ nói với Trác Mộc Cường Ba một câu: “Cường Ba thiếu gia, đừng bỏ rơi Trương Lập mà...”
Câu nói ấy, đã đâm sâu vào tâm khảm của Trác Mộc Cường Ba, gã nhắm mắt lại, liền trông thấy cảnh tượng hai mươi năm về trước, trong khe núi xanh ngắt đó, tiếng cười cất lên trong veo như chuông bạc, “anh à... anh à...” câu nói em gái gã chưa nói ra, rõ ràng là “anh à, đừng bỏ rơi em mà...” Cái bóng màu xám, cú bổ nhào cuối cùng của Lang vương... bụi khói để lại sau đuôi xe... tiếng gầm rú của đàn sói...
“Trác Mộc Cường Ba tôi, sẽ không bỏ rơi bất cứ ai...”
“Cường Ba thiếu gia, nếu thực sự có một ngày như vậy, tôi hy vọng người ra tay, sẽ là anh...”
“Nhớ kỹ, người nhà, chính là, không có ai bị bỏ rơi, không có ai bị quên lãng...”
“Nếu có một ngày, người ấy đổi lại là em, anh sẽ làm thế nào...”
“Anh sẽ làm thế nào?”
“Anh sẽ làm thế nào...”
Trác Mộc Cường Ba đau đớn nhắm nghiền mắt lại. Cảnh tượng lần đầu gặp mặt Trương Lập khi trở về cao nguyên, rồi khoảnh khắc hai người trở nên hiểu nhau trong động băng ở Khả Khả Tây Lý, dáng vẻ không phục, kinh ngạc hay tò mò của anh, hay bộ mặt khi anh lo lắng, sợ hãi, lúc vui đùa... từng hình ảnh đều hiện lên rõ mồn một trong tâm trí gã.
Trác Mộc Cường Ba quay sang hỏi pháp sư Tháp Tây, liệu Trương Lập có biến thành quái vật như trong truyền thuyết nói hay không. Pháp sư Tháp Tây lắc đầu phủ định khả năng này, ông nói, cơ thể Trương Lập rất yếu ớt, không được cung cấp dinh dưỡng, dĩ nhiên cũng không lấy đâu ra năng lượng hoạt động, cho dù anh có hoàn toàn trở thành con rối của bào tử thì cũng không thể vùng bật dậy gây tổn thương cho người khác được. Pháp sư thở dài tiếc nuối bảo với gã, đây chính là phương thức sinh tồn của bào tử cổ độc, bọn chúng rất giống với virus, ký sinh lên vật chủ, chiếm dụng vật chủ, mỗi tế bào, mỗi phần dinh dưỡng vật chủ hấp thu được đều trở thành thức ăn của chúng, thân thể vật chủ biến thành chiến trường của chúng, để chúng mặc tình xâm chiếm từng chút, từng chút một, để rồi khi chúng giành được thắng lợi hoàn toàn, thì cũng cùng với vật chủ nghênh đón cái chết.
Trác Mộc Cường Ba nhìn gương mặt gầy guộc xanh xao của Trương Lập, rồi lại nhìn làn da đã trở nên thô ráp sần sùi, bảo gã phải rút đao ra với gương mặt thân thuộc ấy, gã không thể làm được, huống hồ, bên cạnh còn một gương mặt còn gầy gò hơn, một đôi mắt trong veo đến độ khiến con tim người ta phải run rẩy đang nhìn chằm chằm nữa.
Thêm ba ngày nữa trôi qua, vào một buổi chiều khi hoàng hôn gần buông xuống, Trương Lập đột nhiên tỉnh dậy, không có bất cứ triệu chứng gì báo trước. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là, không ngờ anh vẫn giữ được sự tỉnh táo, không hề mất đi bản ngã con người. Kỳ tích thình lình xuất hiện ấy khiến Nhạc Dương đờ người ra, quên cả đi báo với mọi người. Anh và Mã Cát cứ ngây ngốc nhìn chằm chằm vào Trương Lập, chỉ sợ mình vừa quay người đi, Trương Lập sẽ lại chìm vào giấc ngủ.
Trương Lập nhìn Nhạc Dương ngồi bên trái mình, rồi lại nhìn Mã Cát phía bên phải, khẽ mỉm cười, giọng nói của anh hết sức yếu ớt: “Một người là bạn tốt nhất của tôi, một người là cô gái tôi yêu thương nhất, vừa mở mắt ra đã có thể trông thấy hai người, thật tốt quá...”
“Anh đỡ chút nào chưa? Có đói không? Cảm thấy thế nào? Đau không? Có muốn ăn gì không? Anh...” Một loạt câu hỏi dồn nén trong lòng Nhạc Dương được thể ùa ra, nhưng lời ra đến miệng lại tắc nghẽn lại, không sao cất lên thành tiếng. Trương Lập tỉnh rồi, Trương Lập mở mắt rồi, Trương Lập nói được rồi, còn chuyện gì quan trọng hơn nữa đây?
Ngón tay Trương Lập khẽ nhúc nhích. Mã Cát dịu dàng quỳ một chân, nâng bàn tay Trương Lập lên, áp vào má mình, giống như mọi ngày trước. Trương Lập tiếp tục nói với giọng yếu ớt hư nhược: “Tôi mơ một giấc mơ rất dài, trong mơ, tôi đã trở về mái nhà xưa ở quê, rải đá xanh, lợp ngói xanh, cơn mưa lâm thâm rơi mãi không ngừng. Tôi mơ thấy mình nằm trong cái nôi đan bằng thân tre, mẹ vừa đưa nôi, vừa cầm tay tôi, miệng gọi “con ơi, con ời“. Mẹ nói với tôi rất nhiều, nhưng tôi không nghe thấy gì cả...”
Một cảm giác chua xót đớn đau dâng trào ngập tràn tâm trí Nhạc Dương, anh đột nhiên nghẹn ngào, khó nhọc lắm mới cất được lời: “Đừng nói nữa.”
Trương Lập tựa hồ như không nghe thấy, âm thanh lơ lửng nhẹ bẫng, được được mất mất đó vẫn vang lên: “Tôi mơ thấy mẹ già rồi, nếp nhăn trên mắt cũng nhiều hơn, lưng còng rồi, tóc bạc trắng như cước; tôi mơ thấy mình gọi điện về nhà, báo tôi đã xuất ngũ, sắp chuyển ngành, sắp về nhà rồi, mẹ tôi mừng lắm... mẹ muốn ra ga xe lửa đón tôi. Cậu chưa đến quê tôi đúng không, nơi ấy cách ga xe lửa mấy chục dặm đường, phải băng qua hai triền núi, rồi qua ba con suối cơ. Trời chưa sáng, mẹ đã thức dậy, đi đôi giày vải, cầm ngọn đèn dầu, bước thấp bước cao trên con đường núi. Dọc đường không gặp một ai, trên trời cũng chỉ có mấy ngôi sao thoắt ẩn thoắt hiện, tôi dường như ở ngay phía sau mẹ, ngóng nhìn theo bóng lưng của bà, ánh đèn vàng vọt, chiếu hắt lên gương mặt mẹ...”
Nhạc Dương không sao kìm được dòng nước mắt, nói như đang khẩn cầu: “Anh, đừng nói nữa!”
Hai mắt Trương Lập ngước nhìn lên trần nhà, cơ hồ đang hồi tưởng lại chuyện gì đó, tiếp tục lẩm bẩm: “Từ nhỏ tới lớn, tôi tự vấn lương tâm thấy mình không nợ bất cứ ai, ngoài mẹ tôi ra. Cả đời này, tôi đều nợ mẹ. Từ ngày sinh ra trên đời, đã làm mẹ cảm thấy đau đớn, hồi nhỏ lại lắm bệnh, khiến mẹ chẳng ngủ được một giấc yên. Hồi đi học lại không cố gắng, hay đánh nhau, trốn học, suốt thời ấu thơ, tôi chưa từng làm điều gì khiến mẹ có thể tự hào... cho tới khi tôi nhập ngũ, mẹ lại may lót giày cho tôi, từng đường kim mũi chỉ đều thật chặt, thật khít...”
Nhạc Dương bật dậy nắm chặt cánh tay đã cứng như cành củi khô của Trương Lập, tưởng như gào lên: “Cầu xin anh đấy, đừng nói nữa!”
Trương Lập chầm chậm quay đầu lại, dùng đôi mắt hõm sâu, đỏ như hồng bảo thạch ấy, chăm chú nhìn Nhạc Dương, thở dài: “Tôi nghĩ, chắc mình không thể đến Bạc Ba La thần miếu nữa rồi, nếu mọi người tìm được, nếu có thể ra khỏi đây, cậu...”
Nhạc Dương vừa rơi lệ, vừa nghiến răng nói: “Anh nói bậy gì đó! Anh không sao cả... chỉ là... chỉ cần điều dưỡng mấy ngày là khỏe lại ngay thôi, chúng tôi đều đang đợi anh, đợi anh khỏe lại, chúng ta sẽ tiếp tục lên đường!”
Trương Lập nở một nụ cười đau đớn, lắc đầu nói: “Cậu đâu có biết diễn kịch, suy luận còn được, chứ nói dối thì thực không ổn lắm đâu, làm gì có ai vừa khóc vừa báo tin mừng cho người ta như thế chứ.” Nhạc Dương còn đang định nói gì, Trương Lập đã tiếp lời: “Được rồi, tôi nhớ lại cả rồi, Quách Nhật Niệm Thanh hạ cổ độc lên người tôi, con sâu tởm lợm ấy đang ở trong bụng tôi rồi, hình như, tôi sẽ biến thành quái vật đúng không?”
“Không đâu,“ Cơ mặt căng ra, Nhạc Dương gượng cười nói: “Anh xem, bây giờ chẳng phải anh vẫn đang rất ổn đó sao, sao lại biến thành quái vật được?”
Trương Lập khép hờ đôi mắt, nói: “Thực ra, tôi luôn cảm nhận được, bọn chúng đang ở trong đầu mình, cậu không thể nào hiểu được cảm giác ấy đâu, giống như... trong não cậu có một ổ gián, bọn chúng bò khắp người, thậm chí tôi còn nghe thấy tiếng chúng ăn “rột rột rột” nữa cơ, tôi cũng muốn dũng cảm một chút, nhưng mà, thật sự, thật sự, rất đau đớn!”
“Không có chuyện đó đâu!” Nhạc Dương gắng giữ nụ cười cứng nhắc ấy trên môi, kiềm chế không cho nước mắt chảy ra nữa, lại nói: “Pháp sư Tháp Tây đã nghĩ ra cách rồi, nói cho anh biết nhé, ông ấy đã trị bệnh cho tất cả mọi người trong thôn Công Nhật Lạp đấy...”
Đôi mắt màu đỏ sậm của Trương Lập phảng phất như đã nhìn thấu tâm can Nhạc Dương, anh ngước về phía xa xăm, giọng nói đượm đầy vẻ mệt mỏi và hụt hẫng: “Xem ra, tôi chỉ có thể mang theo tiếc nuối...” Lời còn chưa dứt, bàn tay Nhạc Dương đang nắm lấy cánh tay anh đã bóp mạnh, dứt khoát ngắt lời: “Anh nghe tôi nói...”
Ánh mắt Trương Lập dường như thu lại, chăm chú nhìn Nhạc Dương. Nhạc Dương cũng nhìn thẳng vào mắt anh, mặt đối mặt hồi lâu, mới nghe Nhạc Dương chầm chậm nói từng chữ một: “Mẹ của anh, chính là mẹ của tôi!”
Nước mắt đỏ tươi nhuộm thắm cả gò má Trương Lập, anh lật tay lại, nắm chặt bàn tay Nhạc Dương. Nhạc Dương đặt bàn tay kia lên mu bàn tay Trương Lập. Trương Lập cũng rút tay phải ra khỏi tay Mã Cát, khó nhọc đặt lên mu bàn tay Nhạc Dương: “Anh em tốt, người anh em tốt của tôi!”
Hai người bốn mắt nhìn nhau, bốn bàn tay nắm chặt, không nói một lời nào, bốn hàng nước mắt chầm chậm chảy xuống theo gò má.
Số mệnh của pháp sư Tháp Tây
Trong vương cung Tước Mẫu.
“Lão ta thật chẳng ra sao, ngài[xi] nói đúng, lão chỉ giỏi nói mồm, khi bắt tay vào làm thì giống như đứa trẻ mới học dùng cổ độc vậy. Hừ, một chút cổ độc của Thứ Kiệt lây lan ra trước khi chết đã khiến lão phải bươu đầu mẻ trán rồi, kiểu truyền nhiễm đó, ta chẳng cần đến nửa ngày là có thể hoàn toàn hóa giải toàn bộ, tạm không nói đến việc lão tốn mấy ngày vẫn chưa giải quyết xong, sao lại còn phải nghĩ đến bạc cả đầu ra như thế chứ. Trình độ này, cũng xứng làm Đại Địch ô hay sao!” Khước Ba Ca Nhiệt phẫn nộ nói, nước bọt bay tung tóe: “Sớm biết trình độ sử dụng và phá giải cổ độc của lão kém cỏi như vậy, ta chỉ cần nhích ngón tay một chút là bóp chết lão rồi. Để ta đi cho, Tước Mẫu vương!”
Liếc mắt về phía Khước Ba Ca Nhiệt đang nhìn chăm chăm vào mình, Quách Nhật Niệm Thanh khẽ nhếch mép khinh bỉ. Mấy hôm nay, Khước Ba Ca Nhiệt đã nhao nhao đòi xuất trận mấy lần rồi, xem ra lão rất muốn báo mối thù bị pháp sư Tháp Tây đánh bại ở Yaca. “Câm miệng!” Quách Nhật Niệm Thanh mắng: “Trước khi chết, cổ độc trong người Đại Địch ô sẽ cắn ngược trở lại, lại còn có thể truyền nhiễm cho những người xung quanh, tại sao ngươi chưa bao giờ nhắc đến chuyện này? Không ngờ đã lây nhiễm cho tất cả dân làng Công Nhật Lạp của ta, ta còn chưa trị ngươi cái tội đó đấy!”
Khước Ba Ca Nhiệt kinh hoảng nói: “Ta... ta cũng chỉ nghe sư phụ nhắc tới một lần, nhưng khi sư phụ ta chết đâu có bị như vậy chứ. Vả lại, ta nghĩ, cổ độc của Langbu và cổ độc của Yaca chúng ta, ít nhiều cũng có điểm khác nhau mà. Thật sự ta không cố ý đâu, chúng ta cũng đâu có ngờ bọn chúng sẽ cứu luôn cả Đại Địch ô Thứ Kiệt đi chứ! Vốn từ đầu chẳng phải ngài cũng chỉ định dùng tên Trương Lập để thử lão già cụt chân kia thôi sao?” Thấy sắc mặt Quách Nhật Niệm Thanh đã dịu xuống, Khước Ba Ca Nhiệt lại nói: “Giờ đây lão già cụt chân ấy đã sức cùng lực kiệt, tinh thần kiệt quệ yếu ớt nhất, ta nghe nói lão ta vì nghĩ cách giải độc mà suốt hai ngày hai đêm không chợp mắt, chỉ có lúc này hạ cổ độc lên người thì lão mới không thể phòng bị. Tuy nói kỹ thuật sử dụng cổ độc của lão ta rất kém cỏi, nhưng bình thường, muốn tiếp cận lão già ấy thực là một chuyện khó hơn lên trời đó.”
“Đợi thêm nữa đi,“ Quách Nhật Niệm Thanh dứt khoát nói: “Ta đã bảo rồi, không nhất định phải dùng cổ độc đối phó lão ta, ta chỉ muốn xem thử coi lão già ấy có hiểu biết nhiều về cổ độc hay không, có thể gây tổn thất cho chúng ta lớn đến mức nào mà thôi, giờ xem ra, sức phá hoại của lão cũng không lớn lắm.”
“Nhưng mà...” Khước Ba Ca Nhiệt bị Quách Nhật Niệm Thanh trừng mắt một cái, liền câm ngay miệng lại, song ngọn lửa thù hận trong mắt lão vẫn cháy lên hừng hực.
Nhìn bộ dạng phẫn nộ bỏ đi của Khước Ba Ca Nhiệt, Quách Nhật Niệm Thanh gọi một tên thân binh đến: “Theo dõi hắn kỹ vào.”
Hôm đó, Trương Lập đột nhiên tỉnh lại, nói chuyện với Nhạc Dương được vài câu. Sau đó, Nhạc Dương thấy dường như anh còn lời muốn nói với Mã Cát, bèn ra ngoài trước, rồi tức thì mang tin tức này báo với bọn Trác Mộc Cường Ba. Nhưng khi Trác Mộc Cường Ba và những người khác chạy đến, Trương Lập đã lại chìm vào giấc ngủ sâu, họ chỉ trông thấy Mã Cát đang đắm đuối nhìn anh với ánh mắt đầy yêu thương.
Không ai biết họ đã nói với nhau những gì, Mã Cát vẫn không rơi nước mắt vì Trương Lập, nhưng vẻ mặt điềm tĩnh ấy, ánh mắt nhìn chăm chú cùng nụ cười mỉm trên môi ấy, lại càng khiến trái tim người ta tan nát. Mã Cát bảo với mọi người, Trương Lập nói anh muốn ở lại đây, rồi đưa cho Nhạc Dương một ít tóc, móng tay và một tổ hợp sáu chữ số, cuối cùng Mã Cát nói, Trương Lập hy vọng mọi người có thể nhanh chóng rời khỏi đây...
Sau đó Mã Cát và Địch ô An Cát Mẫu nói chuyện một lúc rất lâu, dường như đã xảy ra tranh cãi gì đó, rồi Mã Cát rời khỏi phòng của Địch ô An Cát Mẫu, thái độ rất kiên quyết. Sau khi sự việc xảy ra, bọn Trác Mộc Cường Ba mới biết, Mã Cát có ý muốn được chung vạc với Trương Lập. Địch ô An Cát Mẫu giải thích, đó là tập tục bồi táng của làng này, người chồng chết vợ hay người vợ chết chồng, mà không có con nối dõi thì đều có thể đưa ra đề nghị được bồi táng cho người kia. Nhạc Dương hỏi đi hỏi lại mấy lượt, họ mới hiểu, “chung vạc” có nghĩa là dùng cái nồi sắt lớn ở cổng thôn đun một nồi nước sôi, bỏ hai người vào đấy luộc chín. Đối với người dân ở thôn Công Nhật Lạp, đó là cảnh giới cao nhất của sự dung hợp linh hồn và thể xác, sau khi chết, linh hồn hai người sẽ hợp nhất, vĩnh viễn chẳng bao giờ phân ly.
Nghe có tập tục như thế, bọn Trác Mộc Cường Ba đều vừa kinh hãi vừa rợn hết cả người, xem ra Mã Cát đã chấp nhận sự thực và chuẩn bị sẵn sàng cả rồi, còn họ thì sao, đến giờ phút này, họ vẫn chưa thể chấp nhận sự thực rằng Trương Lập sắp sửa phải rời khỏi đội ngũ. Đặc biệt là Nhạc Dương, anh liên tục bày tỏ với Trác Mộc Cường Ba, chỉ cần Trương Lập còn một hơi thở, tim anh còn đập, thì anh vẫn còn là một thành viên trong đội, không thể bỏ rơi anh được. Trác Mộc Cường Ba cũng nhìn ra được, mọi người đều rất đau xót, ai nấy đều ôm một tia hy vọng mong manh và chờ đợi. Có điều, thêm một hai ngày nữa, pháp sư Tháp Tây sẽ giải trừ được hết cổ độc nhiễm lên dân làng Công Nhật Lạp, đến lúc ấy, họ sẽ phải lựa chọn thế nào đây? Trong lòng Trác Mộc Cường Ba tột cùng mâu thuẫn.
Chẳng những vậy, từ khi Trương Lập tỉnh lại, pháp sư Tháp Tây phát hiện tốc độ suy kiệt của anh nhanh hơn trước rất nhiều, tựa hồ đã không còn chút ý niệm cầu sinh nào nữa. “Có lẽ, trước khi tôi chữa xong bệnh cho dân làng, cậu ấy đã...” pháp sư Tháp Tây hết sức lo lắng.
Cuối cùng, pháp sư Tháp Tây cũng đã chữa khỏi cho người dân cuối cùng. Khi ra khỏi gian nhà nhỏ, sắc mặt tái nhợt như thể vừa ốm nặng một trận, ông ngồi trên ghế mà đung đưa như muốn ngã. Trác Mộc Cường Ba và những người khác muốn để ông nghỉ ngơi giây lát, song pháp sư kiên trì đòi đến kiểm tra lại cho Trương Lập một lần nữa.
Lúc này, hơi thở của Trương Lập đã mong manh như đường tơ, tim đập chậm chạp yếu ớt, lớp da đã hoàn toàn chuyển sang dạng sừng, pháp sư Tháp Tây căn bản không thể bắt được mạch cho anh. Kiểm tra xong xuôi, pháp sư Tháp Tây đau xót nói với mọi người, theo tính toán lạc quan nhất, người đồng đội Trương Lập của họ sẽ rời khỏi đội ngũ vào khoảng sáng sớm hôm sau.
Pháp sư Tháp Tây khó nhọc lắm mới nói được hết câu, rồi được pháp sư Á La đưa đi nghỉ, những người còn lại đều hoang mang không biết phải làm sao, chỉ còn biết chờ đợi mà chẳng thể kháng cự vòng quay của bánh xe vận mệnh.
Trong vương cung Tước Mẫu, Quách Nhật Niệm Thanh đang nghe một tên binh sĩ báo cáo, nét mặt sa sầm. Khước Ba Ca Nhiệt đã biến mất, có lẽ lão ta lén lút bỏ đi từ tối hôm qua. Quách Nhật Niệm Thanh biết Khước Ba Ca Nhiệt định làm gì, đồng thời cũng biết lão ta sẽ làm như thế nào. “Lão ta sẽ chết thôi.” Quách Nhật Niệm Thanh nói với tên binh sĩ ấy: “Ở Yaca lão đã không đối phó nổi Tháp Tây, ở Langbu này, lão cũng không thể làm được. Tuy cái chết của lão không ảnh hưởng gì xấu đến việc thống nhất Yaca của ta, nhưng chết lúc này thì vô giá trị quá. Vẫn còn rất nhiều việc ta yêu cầu mà lão chưa hoàn thành được.”
“Vậy, chúng ta có cần đuổi theo lão không ạ?”
“Lão đi được một đêm rồi, giờ có đuổi theo cũng quá muộn.” Quách Nhật Niệm Thanh đưa tay chống lên đầu, trầm ngâm suy nghĩ: “Phải nghĩ cách gì đó, để cái chết của lão ta giá trị hơn mới được...”
Pháp sư Tháp Tây thực sự đã quá mệt mỏi, dù là người trải qua huấn luyện Mật tu nghiêm khắc, rốt cuộc, ông cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Nửa đêm, không gian tĩnh lặng, dân làng đều đang say giấc nồng, pháp sư Á La vẫn luôn canh chừng bên ngoài gian phòng pháp sư Tháp Tây nghỉ ngơi đột nhiên bật dậy, thấp giọng hỏi: “Ai?”
Nhạc Dương khẽ nói: “Cháu đây, pháp sư Tháp Tây tỉnh dậy chưa ạ?”
Pháp sư Á La lắc đầu: “Ông ấy vẫn đang ngủ, có gì không?”
Nhạc Dương nói: “Trương Lập hình như, lại có biến đổi, cháu muốn nhờ pháp sư...”
Pháp sư Á La nói: “Tôi đi xem thử, để pháp sư Tháp Tây ngủ thêm một lúc nữa. Cậu đi gọi người nào đến đây trông chừng đi, giờ ông ấy đang ngủ say lắm.” Pháp sư Á La hiểu rõ, các Mật tu giả sau khi mệt mỏi cực độ, sẽ rơi vào trạng thái ngủ sâu, hoàn toàn cắt đứt mọi quan hệ với thế giới xung quanh, dù có súng nổ bên tai cũng không giật mình, bên ngoài sấm sét đùng đùng cũng không tỉnh.
“Để cháu gọi anh Ba Tang đến.”
Ba Tang ở phòng ngoài canh gác chừng gần mười phút, đột nhiên nắm chặt thanh đao trong tay, xông vào phòng pháp sư Tháp Tây, đảo mắt quét một vòng, thầm kinh hãi tự nhủ: “Kỳ lạ thật, cảm giác vừa nãy, hình như là nhắm vào mình?” Anh rón rén nhẹ nhàng đi một vòng xung quanh, không phát hiện ra điều gì lạ, bèn quay trở ra phòng ngoài.
Toàn thân Khước Ba Ca Nhiệt núp trong chiếc áo choàng đen kịt, lão đang tức tối thầm nhủ: “Khó khăn lắm mới đẩy được lão già kia đi chỗ khác, không ngờ tên khốn này cũng cảnh giác cao như vậy, cả thứ vô hình vô sắc này cũng tránh được.” Đang nghĩ ngợi, lại nghe thấy tiếng Ba Tang trở về chỗ lúc nãy nằm, Khước Ba Ca Nhiệt không khỏi cả mừng: “Thì ra không phải hắn phát hiện ra điều gì, mà chỉ nhờ vào trực giác tránh khỏi thôi, lần này có cơ hội rồi! Tháp Tây, ngươi đã cướp vị trí của ta, lại phá hoại âm mưu của ta, khiến ta không chốn dung thân ở Yaca nữa, thù cũ hận mới lần này chúng ta tính hết một lượt đi vậy!”
Trong phòng Trương Lập.
“Hơi thở gấp gáp hơn à?” pháp sư Á La vừa bước vào phòng đã phát hiện Trương Lập có điều bất ổn.
“Thế nào ạ? Có phải là dấu hiệu hồi phục không?” Nhạc Dương vẫn tràn trề hy vọng.
“Không,“ pháp sư Á La lắc đầu: “Đúng như pháp sư Tháp Tây đã nói, đây là dấu hiệu sinh mạng cậu ấy đã đến hồi kết.” Nói đoạn, ông nhớ lại lời dặn của pháp sư Tháp Tây trước lúc chìm vào giấc ngủ: “Nếu ta không lầm, trước khi Trương Lập chết, hơi thở sẽ trở nên gấp gáp, tim đập nhanh hơn, vượt quá mức độ của người bình thường có thể chịu đựng. Trạng thái từ cực chậm chuyển sang cực nhanh này là do bào tử sinh sôi quá độ, một lượng lớn độc tố xâm nhập cơ thể gây nên. Hô hấp quá nhanh, quá dồn dập sẽ khiến cơ thể không đủ ôxy, môi trường đầy axit trong cơ thể sẽ làm cho cơ bắp bị co rút, sau đó... toàn bộ năng lượng sống sẽ tiêu hao, tất cả đều dừng lại...”
Mã Cát đứng dậy, bình tĩnh bước tới bên cạnh pháp sư Á La, nói: “Anh ấy sắp chết rồi phải không ạ?”
“Ừm...” pháp sư Á La chỉ “ậm ừ” một tiếng, coi như đã trả lời.
“Anh ấy có còn tỉnh lại nữa không?” Mã Cát lại hỏi.
“Ờ...” pháp sư Á La chau mày, rồi lại nhớ đến lời pháp sư Tháp Tây: “Một khi nhịp thở tăng nhanh, dưỡng khí không đủ, trúng độc axit, ý thức cậu ấy sẽ hoàn toàn rơi vào trạng thái mơ hồ, muốn tỉnh táo lại gần như là không thể.”
Nhìn ra được câu trả lời trên nét mặt pháp sư Á La, Mã Cát gật đầu cảm tạ: “Cháu biết rồi, cám ơn, cám ơn mọi người.” Nói đoạn, cô bước ra khỏi gian phòng ấy.
Mẫn Mẫn nói: “Để em đi xem.” Chỉ lát sau cô đã tái mặt quay lại, nói với mọi người: “Mã Cát, Mã Cát... cô ấy đốt lửa dưới cái nồi lớn ngoài cổng thôn rồi!” Ai nấy đều cúi đầu trầm mặc.
Pháp sư Tháp Tây đột nhiên tỉnh dậy khỏi giấc ngủ sâu, tức khắc phát hiện, trong phòng lan tỏa một thứ mùi vị bất an, ông thử nhúc nhích ngón tay, thấy hơi cưng cứng, hơi tê tê, ông lại thử điều chỉnh lại nội tức, liền sực hiểu, vội kéo một mảnh chăn lên che kín mũi miệng.
“Kha kha kha...” tiếng cười của Khước Ba Ca Nhiệt cất lên trong một góc tối tăm của gian phòng: “Vô dụng thôi! Ta nghĩ chắc ngươi cũng hiểu rõ, độc tố đã xâm nhập vào cốt tủy rồi, dù ngươi có tài mấy cũng chẳng thể làm gì được nữa đâu.”
Pháp sư Tháp Tây cảm giác mắt mình hoa lên, chỉ thấy một cái bóng mơ hồ lấp loáng, rồi nghe Khước Ba Ca Nhiệt bước lại gần hơn, nói: “Giờ hẳn là ngươi không nhìn rõ được nữa rồi, đúng không? Ngươi nói xem, cổ độc, dùng để giết người, hay là để cứu người?”
Kiểm tra lại một lượt các triệu chứng khắp toàn thân, pháp sư Tháp Tây ngược lại còn bình tĩnh hơn, ông nhắm mắt lại: “Khước Ba Ca Nhiệt, ta thừa nhận, kỹ thuật dùng cổ độc của ta không bằng ngươi, loại cổ độc mà Quách Nhật Niệm Thanh hạ vào người Trương Lập, cũng là do ngươi truyền cho phải không?”
Khước Ba Ca Nhiệt đắc ý cười khùng khục: “Kha kha kha... đúng thế, ngươi cũng không thể không thừa nhận, ngươi hoàn toàn bó tay với loại cổ độc đó rồi chứ!”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Loại cổ độc ấy, vốn không thể nào hóa giải, ngươi cũng chỉ biết nuôi dưỡng và cấy nó lên người kẻ khác, chứ căn bản không thể giải trừ, đúng không?”
Khước Ba Ca Nhiệt lại đáp: “Hừ, ngươi tưởng ta không nhận ra ngươi đang khích tướng chắc? Ta cũng không ngại nói cho ngươi biết, tương truyền rằng, loại cổ độc này chỉ cần trải qua nghi thức phượng hoàng tắm lửa, hồi sinh trong tro bụi là có thể trị khỏi. Tức là, bỏ tên đó lên giàn lửa thiêu đốt, nói không chừng sẽ tự khỏi đó, có muốn thử hay không? Hà, đáng tiếc, ngươi không còn cơ hội nữa rồi.” Lão nhớ lại những thí nghiệm mình làm trước đây, lớp da của người trúng cổ độc trở nên thô ráp cứng rắn, thoạt nhìn hình như không sợ nhiệt độ cao, có thể trực tiếp dùng lửa đốt, nhưng khi vật thí nghiệm sắp hồi phục sự tỉnh táo, lúc đó thì tài thánh cũng chẳng cứu nổi. Nếu đối phương thực sự đem tên đó đi nướng trên lửa, nói không chừng còn chết nhanh hơn cũng nên. Nghĩ tới đây, lão lại càng đắc ý: “Lẽ nào ngươi không nhìn ra, ta cố ý nói chuyện với ngươi, để cổ độc tiến vào sâu hơn, đầu lưỡi ngươi, phải chăng bắt đầu có cảm giác tê liệt rồi?”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Ngươi cho rằng, mình thắng rồi ư?”
“Ngươi có ý gì?” Khước Ba Ca Nhiệt căng thẳng lui lại một bước, rồi lập tức cười khẩy nói: “Chết đến nơi rồi vẫn còn muốn dọa người, ngươi bây giờ, tay chân đã tê cứng không nhúc nhích được nữa, ngươi lấy gì ra đối phó với ta chứ? Dùng ánh mắt chắc?” Lão vừa dứt lời, bỗng chợt thấy phía trước như có một tia sáng trắng lóe lên, đang nghi hoặc: “Vừa nãy ta nhìn thấy gì vậy?” đột nhiên toàn thân đã như bị điện giật, sau cơn co rút, lập tức cứng đờ. Khước Ba Ca Nhiệt điên cuồng gào lên trong tâm thức: “Không thể hô hấp, không thể nhúc nhích! Rốt cuộc là thứ gì vậy? Lão ta làm thế nào vậy?” Sau đó, lão cảm thấy dường như có thứ gì cưa đứt xương chân, xương ngón tay, xương ngực mình... cảm giác đau đớn khủng khiếp khiến lão phải rú lên thê thảm, tiếng hét kinh hoàng vừa thốt ra, liền như bị người ta ấn đầu xuống nước, biến thành những âm thanh ùng ục.
Pháp sư Tháp Tây cuộn đầu lưỡi, trên mặt lưỡi liền xuất hiện một mũi kim châm, “phụt”, mũi kim đâm vào chỗ khuỷu tay ông, ngón tay vốn đã không còn tri giác khẽ nhúc nhích một cái. Kế đó pháp sư lại cựa quậy tay trái, rút ra mấy mũi kim châm đâm vào các huyệt đạo khác nhau, chầm chậm vịn vào mép giường ngồi dậy. Pháp sư đưa tay day day lên huyệt Thái dương, mở mắt nhìn Khước Ba Ca Nhiệt dưới đất, điềm đạm nói: “Có biết tại sao ngươi thua ta không? Lẽ ra ngươi không nên xuất hiện trong khoảng năm mươi bước xung quanh ta mới phải!”
Tiếng rít ngắn ngủi của Khước Ba Ca Nhiệt bị một nhóm người khác nghe thấy, “Ở chỗ pháp sư Tháp Tây!” Pháp sư Á La xoay người chạy đi luôn, Lữ Cánh Nam vội bám sát theo sau.
Nhạc Dương đưa mắt nhìn Trương Lập một cái, rồi nói: “Anh Ba Tang ở đó!” Anh ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba quyết định: “Chúng ta qua đó xem sao. Mẫn Mẫn trông chừng Trương Lập, có chuyện gì lập tức kêu lên nhé.” Mẫn Mẫn ngoan ngoãn gật gật đầu.
Lúc pháp sư Á La chạy đến, pháp sư Tháp Tây vừa rút mấy mũi kim châm ra khỏi người Ba Tang, gương mặt nở ra một nụ cười hiền hòa: “Gián tiếp trúng phải một loại thuốc mê gì đó, cậu ấy không sao đâu.”
Lữ Cánh Nam vừa bước vào phòng liền trông thấy Khước Ba Ca Nhiệt co quắp nơi góc phòng, miệng sùi bọt mép trắng xóa. Cô nói: “Khước Ba Ca Nhiệt!”
Pháp sư Tháp Tây nói: “Đừng chạm vào hắn, tôi đã dùng thuốc cách ly hắn với gian phòng này rồi.”
Pháp sư Á La bước lên hỏi: “Ngài không sao chứ? Pháp sư Tháp Tây!” Vừa nói, ông vừa định đỡ pháp sư Tháp Tây lên.
Pháp sư Tháp Tây vội ngăn lại: “Cũng đừng chạm vào tôi, nói chuyện ở khoảng cách quá gần, cũng có khả năng trúng phải cổ độc! Khiêng cậu ấy ra ngoài.” Nói đoạn, ông chỉ vào Ba Tang. Pháp sư Á La liền y lời kéo Ba Tang ra đến cửa, chợt thấy khóe mắt pháp sư Tháp Tây rỉ ra một tia máu, nhưng khác với thứ nước mắt màu đỏ của Trương Lập, đôi mắt pháp sư Tháp Tây đang chảy ra máu tươi.
Lữ Cánh Nam kinh hãi thốt lên: “Pháp sư Tháp Tây, ngài...”
Pháp sư Tháp Tây miễn cưỡng nở một nụ cười, nói: “Xem ra, không kiềm chế nổi nữa rồi!” Ông vừa dứt lời, lỗ mũi, khóe miệng cũng có máu chảy, giống như một đàn sâu màu đỏ ngoằn ngoèo chui ra ngoài vậy.
Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba vừa bước vào cửa phòng, liền trông thấy pháp sư Tháp Tây thất khiếu chảy máu, kế đó lại phát hiện ra Khước Ba Ca Nhiệt nằm lăn dưới đất. Đột nhiên, Nhạc Dương như nắm bắt được gì đó, bộ óc đang chìm đắm trong nỗi đau tức thì xoay chuyển cực nhanh. Từ khi Trương Lập trúng phải cổ độc, Đại Địch ô Thứ Kiệt bị giam giữ, rồi họ được giải cứu, không có truy binh... tất cả những sự việc ấy... anh đã nắm được sợi dây vô hình xâu chuỗi chúng lại với nhau, hiểu cả rồi, rốt cuộc đã hiểu rồi, anh lẩm bẩm: “Pháp sư Tháp Tây... là pháp sư Tháp Tây!”
Pháp sư Tháp Tây thoáng động lòng, lập tức hiểu ý Nhạc Dương muốn nói gì. Ông chắp hai tay trước ngực, khẽ cúi đầu, điềm đạm nhẹ nhàng nói: “Cường Ba thiếu gia, trong chiếc áo ở đầu giường tôi, có một tấm bản đồ, là bản đồ Yaca tôi vẽ lại theo ký ức. Sau khi tôi đi, mọi người hãy xử lý giống như với Đại Địch ô Thứ Kiệt, đốt cả căn nhà này, rồi mang theo bản đồ lập tức rời khỏi Tước Mẫu!”
Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào vị pháp sư già, không trả lời ông. Ai nấy đều cực kỳ phẫn nộ, Nhạc Dương lại lẩm bẩm nói một mình: “Không, không thể đi như vậy được...” Pháp sư Tháp Tây chậm rãi khuyên giải: “Mục đích của chúng ta, là tìm được Bạc Ba La thần miếu, lỡ làng ở đây đã quá lâu, không thể để bọn Merkin đến đó trước được... sau khi rời khỏi đây, mọi người phải cố gắng ít tiếp xúc với các bộ lạc ở Yaca, đội ngũ của chúng ta, không thể nào chịu được thêm tổn thất nữa đâu.”
Lữ Cánh Nam không kìm được, buột miệng hỏi: “Còn Quách Nhật...”
Pháp sư Tháp Tây thở dài nói: “Đây cũng chính là nguyên nhân mọi người phải lập tức rời khỏi Tước Mẫu. Mọi người không đấu lại Quách Nhật Niệm Thanh đâu, tất cả chúng ta, đều không phải là đối thủ của hắn. Hắn đã từ bỏ lương tâm của một con người, hắn sẽ lợi dụng nhược điểm của nhân tính, lần lượt đánh bại từng người trong chúng ta. Đó là một tên ác ma, một tên ác ma có trí tuệ của loài ma quỷ, tất cả mọi người đều nằm trong tính toán của hắn cả...” Nói tới đây, ông đưa mắt nhìn về phía Nhạc Dương.
Lữ Cánh Nam quay đầu lại hỏi: “Thế là thế nào?”
Nhạc Dương cúi đầu nói: “Người Quách Nhật Niệm Thanh thực sự muốn đối phó, là pháp sư Tháp Tây, chứ không phải Trương Lập, cũng không phải là đội trưởng Hồ Dương. Trương Lập trúng cổ độc và cái chết của đội trưởng Hồ Dương, đều là quân cờ do Quách Nhật Niệm Thanh sắp đặt. Kỳ thực, hắn ta lập kế làm mù mắt công chúa Lạp Mẫu, rồi ngấm ngầm bắt tay với Khước Ba Ca Nhiệt, mục đích không chỉ là muốn chiếm lấy vương quyền ở Tước Mẫu, mà dã tâm của hắn là thống nhất toàn bộ Thánh vực. Với thân phận Đại Địch ô mới của Yaca, pháp sư Tháp Tây mới là chướng ngại vật lớn nhất trên con đường thống nhất ấy. Có thể mới ban đầu, Quách Nhật Niệm Thanh chỉ muốn giết chết Trương Lập, nhưng vì hắn nhìn ra được chúng ta là một thể thống nhất, vả lại khi ấy, hắn cũng chưa lên kế hoạch công chiếm vương cung Tước Mẫu, thực lực vẫn đang bị Tước Mẫu vương và Đại Địch ô Thứ Kiệt kiềm chế, thế nên mới dùng kế khiến chúng ta tách nhau ra, rồi sau khi giết chết đội trưởng Hồ Dương, lại giả bộ đào tẩu. Ngay sau đấy, hắn lại lợi dụng lúc chúng ta đang phẫn nộ, đầu óc hồ đồ mà sắp đặt một cạm bẫy, nhân lúc chúng ta lơ là đề phòng tấn công chiếm lấy Tước Mẫu, bắt tôi và Trương Lập. Lúc đó hắn nhất định đã biết quan hệ giữa chúng ta và pháp sư Tháp Tây, vì vậy mới không giết Trương Lập luôn, mà hạ cổ độc lên người anh ấy, đồng thời nhốt chúng tôi chung với Đại Địch ô Thứ Kiệt. Ngay từ khi ấy, hắn đã tính toán đến khả năng chúng tôi được giải cứu rồi, nhưng mục đích thực sự của hắn, chính là muốn xem vị tân nhiệm Đại Địch ô của Yaca rốt cuộc hiểu biết về cổ độc như thế nào. Vì mục đích này, hắn cũng bất chấp dùng tính mạng của toàn bộ dân làng ra thử nghiệm. Nhất định là hắn có mạng lưới tình báo rất hoàn chỉnh, nhất cử nhất động của chúng ta đều nằm trong tầm khống chế, thế nên khi pháp sư Tháp Tây cạn kiệt tinh lực vì giải độc cho dân làng, hắn liền phái ngay Khước Ba Ca Nhiệt đến hạ thủ. Trong cuộc chiến giữa hai người này, bất kể là ai chết ai bị thương, đối với hắn cũng đều chỉ có lợi mà không có hại. Đây chính là đặc điểm mưu kế của Quách Nhật Niệm Thanh, lúc ra tay với đội trưởng Hồ Dương đã như vậy, lúc lợi dụng Merkin cũng vậy, lúc nhốt tôi và Trương Lập cũng vậy nốt, cho dù xuất hiện tình huống gì, kết quả như thế nào, đối với hắn cũng chỉ luôn luôn có lợi, mà không có hại! Vả lại, tất cả những mưu kế này, đều được hắn nghĩ ra chỉ trong chớp mắt, dựa trên sự biến hóa của toàn cục mà không ngừng biến hóa... Quách Nhật Niệm Thanh, tên Quách Nhật Niệm Thanh... thực sự quá đáng sợ, tôi không thể tính toán được như hắn, không thể đoán biết hắn đang nghĩ gì, song hắn lại nắm rõ suy nghĩ của chúng ta như lòng bàn tay vậy. Những gì chúng ta có thể nghĩ đến, hắn cũng có thể nghĩ đến, thậm chí cả những gì chúng ta không nghĩ đến, hắn cũng đã tính toán đâu đó xong xuôi rồi. Hắn muốn chúng ta thương tâm, chúng ta liền phải thương tâm. Hắn muốn chúng ta bi phẫn, chúng ta liền trở nên bi phẫn. Hoàn toàn từ đầu chí cuối, chúng ta đều bị hắn dắt mũi kéo đi... Quách Nhật Niệm Thanh, hắn là ma quỷ chứ không phải con người nữa...”
Gặp lại nhé, Trương Lập
Giọng Nhạc Dương nhỏ dần nhỏ dần, lúc này anh mới nhớ lại lời Địch ô An Cát Mẫu từng nói: “Đối với kẻ địch, ông ta chính là ma quỷ, nhưng đối với dân chúng Langbu chúng tôi, ông ấy lại như thiên thần hộ mệnh vậy.” Trong lòng anh đang bi phẫn gào lên: “Tại sao? Tại sao chúng ta lại gặp phải một kẻ đáng sợ như tên Quách Nhật Niệm Thanh đó? Lẽ nào số phận đã định sẵn rồi? Nếu Trương Lập không gặp Mã Cát... nếu pháp sư Tháp Tây không phải Đại Địch ô của Yaca...”
Lúc này, lại nghe pháp sư Tháp Tây nói tiếp: “Nghĩ kỹ lại đi, dù chúng ta giết chết Quách Nhật Niệm Thanh, thử hỏi có chứng minh được điều gì chứ? Chính nghĩa nhất định chiến thắng tà ác sao? Giải phóng cho dân chúng Tước Mẫu sao? Họ đã sinh sống ở đây hơn một nghìn năm, nếu không có sự xâm nhập của văn minh ngoại lai, họ sẽ vẫn tiếp tục sống như vậy, rồi họ sẽ có Tước Mẫu vương mới. Chúng ta chẳng thể thay đổi được gì cả, ngược lại, sẽ chỉ càng mất mát và tổn thất nhiều hơn. Đi đi, đến tầng bình đài thứ ba, nơi ấy mới là mục tiêu và hy vọng của chúng ta. Mau lên, Khước Ba Ca Nhiệt đã đến rồi, có người sẽ mang tình hình ở đây báo với Quách Nhật Niệm Thanh, chậm một bước là không kịp nữa đâu...”
Nhìn ánh mắt hừng hực của pháp sư Tháp Tây, Trác Mộc Cường Ba suy đi tính lại, cuối cùng cũng gật đầu nói: “Tôi biết rồi, pháp sư.”
Pháp sư Tháp Tây hài lòng gật nhẹ đầu, rồi từ từ nhắm mắt lại, miệng lẩm nhẩm niệm một bài kệ: “Mọi thứ ở trên đời, như bọt bóng mộng mơ, như sương rơi điện chớp, hãy suy ngẫm lại coi.”[xii] m thanh trầm thấp khó nghe, đột nhiên mỗi người trong phòng đều dâng lên một cảm giác kỳ dị, tựa hồ như có mối liên hệ nào đó vừa bị cắt đứt từ đây.
Pháp sư Á La chắp tay trước ngực, cúi mình thật sâu vái một vái, đoạn nói: “Đắm mình trong giấc tử sinh, kiếp này chẳng biết bao giờ mới ra.[xiii] Pháp sư Tháp Tây đã tự đoạn tâm mạch, lìa xa chúng ta rồi.”
Ai nấy thảy đều kinh hãi, nhưng ngay sau đó lại nhìn thấy dáng ngồi bình thản của pháp sư Tháp Tây, cơn sóng trong lòng dần dần lắng xuống, đột nhiên phía sau có người cất tiếng: “Mọi người... a!”
Trác Mộc Cường Ba quay đầu, trông thấy Mẫn Mẫn hai mắt đỏ lựng, liền hỏi: “Sao vậy em?”
Mẫn Mẫn nói: “Mau đến xem Trương Lập đi... cậu ấy, hình như không ổn rồi...” “Không!” Nhạc Dương lao vút ra như một cơn gió.
Trác Mộc Cường Ba thu dọn lại y áo của pháp sư Tháp Tây, rồi bước ra khỏi gian phòng ấy sau cùng, chợt thấy một cơn gió lạnh ùa về, ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời đêm tăm tối không trăng không sao, bốn bề tĩnh mịch như tờ, vạn vật không cất tiếng, chỉ có một đốm lửa bùng lên ở phía xa xa. Phải rồi, Mã Cát đã đốt lửa ở cái vạc lớn đó lên, ngọn lửa bập bùng, tựa một tinh linh của đêm tối đang nhảy một vũ điệu bi thương mà đơn độc.
Sau khi dặn dò Mẫn Mẫn trông chừng Ba Tang, gã cùng Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La đến gian phòng Trương Lập đang nằm, chỉ thấy Nhạc Dương đang đứng bên cạnh anh, miệng lẩm nhẩm: “Mười bốn, mười năm... phù...”, rồi hít sâu một hơi, ngẩng đầu lên, hai tay chồng lên nhau đặt trên ngực Trương Lập, bắt đầu đếm: “Một, hai, ba....” Thì ra từ nãy giờ, anh vẫn xoa bóp ngoài lồng ngực cho Trương Lập.
Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba bước vào, Nhạc Dương ngước mắt nhìn lên đầy kỳ vọng, miệng nhoẻn cười nói: “Cường Ba thiếu gia, giáo quan, Trương Lập vẫn chưa chết, anh ấy vẫn còn thở.” Miệng nói, nhưng tay anh vẫn không hề ngừng lại.
Cánh tay Trác Mộc Cường Ba run lên, một cảm giác đau buốt từ ngón vô danh chạy thẳng đến tận sâu trong tim gã. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La tách ra bước đến nắm lấy tay trái và tay phải của Trương Lập, nhìn vẻ mặt của họ, rõ ràng Trương Lập đã ngưng thở, chỉ là Nhạc Dương vẫn không chịu thừa nhận, không chịu bỏ cuộc mà thôi. Không khí trong cả gian phòng tựa hồ nặng trĩu, cơn gió lành lạnh nhẹ nhàng phất lên cơ thể mỗi người, trong không gian chỉ còn lại tiếng thở gấp gáp nặng nề của Nhạc Dương: “Một, hai, ba, bốn... ha... hu...”
Màu của đêm đen từ đậm đặc chuyển sang nhạt dần, Nhạc Dương cứ lặp đi lặp lại một cách máy móc những động tác ấy, Trương Lập vẫn lặng lẽ nằm yên, không khí trong phòng đặc quánh, Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy mình sắp tắc thở đến nơi. Lúc này, cửa phòng bật mở, Mẫn Mẫn kinh hoảng chạy vào: “Anh Cường Ba, anh Ba Tang, anh Ba Tang...”
Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình: “Ba Tang sao rồi? Anh ấy xảy ra chuyện gì hả?”
Mẫn Mẫn thở gấp nói: “Anh Ba Tang, anh ấy chạy mất rồi..., em, em... không ngăn kịp!” Thì ra, Ba Tang tỉnh lại, liền hỏi Mẫn Mẫn xem có chuyện gì xảy ra. Sau khi nghe cô kể rõ ngọn ngành, Ba Tang giận dữ vô cùng, liền xông ra đòi đi tìm Quách Nhật Niệm Thanh liều mạng. Mẫn Mẫn muốn ngăn cản, nhưng làm sao giữ nổi, cô liền vội vàng chạy đi báo cho Trác Mộc Cường Ba.
Tuy rằng Ba Tang tinh thông kỹ thuật giết người, nhưng bọn họ đã hết sạch đạn dược, nếu phải đối mặt với đội quân phòng ngự nghiêm mật của Quách Nhật Niệm Thanh, kiến nhiều còn cắn chết voi, dù là pháp sư Á La đến Tước Mẫu cũng phải dè dặt từng bước một, phen này Ba Tang đi tìm Quách Nhật Niệm Thanh báo thù, thử hỏi có khác nào đâm đầu vào chỗ chết không chứ? Với tốc độ của Ba Tang, muốn đuổi kịp anh ta sợ rằng rất khó, vả lại, còn Trương Lập ở đây thì tính sao? Trác Mộc Cường Ba muốn đưa ra quyết định, nhưng chỉ thấy các suy nghĩ trong đầu mình bùng nhùng trộn lẫn như một đống bột hồ, lại thấy ngâm ngẩm đau nhói lên.
Gã còn đang suy tính, chợt thấy Ba Tang quay về, mặt mũi và hai tay đẫm máu tươi, hai mắt đỏ rực, dưới ánh nến trông lại càng điên cuồng dễ sợ hơn bội phần, anh trầm giọng nói: “Có người thả chim ở đầu thôn, bị tôi bắt gặp, giết chết hai tên rồi. Còn một tên đã chạy mất, chim cũng bay mất rồi.”
Địch ô An Cát Mẫu cũng ở đâu chạy tới nói: “Các vị mau đi đi, nếu Quách Nhật Niệm Thanh đến đây thì không ai đi được đâu, sợ rằng còn liên lụy đến cả thôn Công Nhật Lạp này nữa đó.”
Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn người ra, Lữ Cánh Nam vội lên tiếng nhắc nhở: “Đã đến lúc phải hạ quyết tâm rồi!”
Quách Nhật Niệm Thanh nhận được tin tức, nhất định sẽ dẫn quân vây công, chạy trốn hay đào tẩu, giờ phút này bọn gã cần phải có mục tiêu xác định. Ngoại trừ Nhạc Dương, ánh mắt của những người còn lại đều hướng về phía Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba nhớ lại lời pháp sư Tháp Tây nói trước lúc lâm chung, cuối cùng cũng quyết định: “Mọi người thu dọn hành trang, trước khi trời sáng chúng ta sẽ rời khỏi đây!”
Cơ hồ như đã ước định từ trước, cả bọn bước tới trước giường Trương Lập quây thành một vòng, cúi đầu lẩm nhẩm hoặc thầm nói với Trương Lập mấy câu, sau đó lần lượt bước ra ngoài. Trác Mộc Cường Ba là người cuối cùng, gã nói với Nhạc Dương: “Nhạc Dương, chúng ta phải đi rồi.”
Nhạc Dương vẫn nhìn Trác Mộc Cường Ba bằng ánh mắt đầy kỳ vọng ấy, nhoẻn miệng cười nói: “Cường Ba thiếu gia, anh ấy chưa chết, vẫn còn thở mà.”
Trác Mộc Cường Ba không dám nhìn thẳng vào mắt Nhạc Dương, chầm chậm bước ra cửa, nói: “Tôi sẽ thu dọn hành trang giúp cậu.”
Đột nhiên nghe Nhạc Dương phía sau gầm lên: “Cường Ba thiếu gia, đừng bỏ rơi Trương Lập mà!”
Trác Mộc Cường Ba tức thì cảm thấy tim mình co thắt lại, cổ họng mặn chát, gã cố đè nén xuống, nín chặt hơi thở, nhẫn nhịn không quay đầu lại, luồng oán khí từ từ tích tụ lại trên cánh tay. Thình lình, gã đấm mạnh một cú lên tường, cả gian phòng bằng đá khẽ rung lên một chặp.
Khi cả bọn đã thu dọn hành trang, quay lại gian phòng, Nhạc Dương vẫn không chịu bỏ cuộc, vẫn chuyên chú nhẩm đếm: “Mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm... hít... hà... hít... hà... hít... hà... một, hai, ba, bốn...”
Lữ Cánh Nam đang định bước lên ngăn Nhạc Dương lại, chợt cảm thấy ngoài cửa ùa vào một cơn gió nhẹ, mùi hương thoang thoảng trong không gian tựa như một dòng nước ấm, bao bọc lấy mỗi trái tim băng lạnh của họ. Ngoảnh đầu, cô liền thấy Mã Cát.
Mã Cát mặc đồ trắng, trông rất nhã nhặn, tóc dài phủ vai, đôi chân để trần, dáng vẻ nghiêm trang lạ thường. Tất cả mọi người có mặt tại đó đều sinh ra một ảo giác, tựa như Mã Cát không còn là tinh linh giữa chốn nhân gian này nữa, mà đã biến thành nữ thần trên trời, thân thể tắm trong một quầng sáng màu trắng sữa, trang nghiêm và bất khả xâm phạm. Họ đều tự giác lùi lại nhường lối cho cô. Mã Cát đến bên Nhạc Dương, chỉ một cái liếc nhìn, đã khiến Nhạc Dương dừng lại. Cô chầm chậm nói: “Để anh ấy cho em đi.”
Nhạc Dương hoảng hốt nói: “Mã Cát, Mã Cát, cô xem, cô xem, anh ấy vẫn còn thở, để tôi thử lại lần nữa, anh ấy có thể tỉnh lại mà.”
Đôi mắt Mã Cát vẫn bình tĩnh như thế, Nhạc Dương lại càng cuống hơn, chỉ nghe cô lặp lại: “Để anh ấy cho em đi.” Ngữ điệu nhẹ nhàng, song lại toát lên một thứ uy nghiêm không gì kháng cự nổi. Nhạc Dương không trả lời, Mã Cát vươn hai tay ra, ôm Trương Lập lên khỏi giường, xoay người, thân mình hơi trầm xuống, sém chút nữa đã gục xuống đất, nhưng cô vẫn nghiến răng, ôm chặt lấy Trương Lập, khó nhọc bước ra bên ngoài. Bạn đang đọc truyện tại Truyện YY - https://truyenfull.vn
Nhạc Dương ngơ ngẩn nhìn theo: cô vươn tay ra, cô ôm lấy Trương Lập, cô xoay người, cô bước đi, cô ra khỏi cánh cửa ấy, bóng hình mỗi lúc một xa dần... anh phảng phất như trúng phải phép định thân, không chớp mắt, không hít thở, cứ ngây ngây ngốc ngốc đứng yên ở đó.
Lữ Cánh Nam bước lên, khẽ vuốt nhẹ lên đầu Nhạc Dương: “Nhạc Dương, cậu đã gắng hết sức rồi.”
Nhạc Dương mới như người vừa bừng tỉnh khỏi cơn mộng, khóc òa, bổ vào lòng Lữ Cánh Nam, thút thít như trẻ con: “Giáo quan, không phải đã nói là sẽ đồng sinh cộng tử hay sao, tại sao anh ấy lại rời bỏ chúng ta? Tại sao chứ...”
Lữ Cánh Nam ôm chặt đứa trẻ còn cao lớn hơn mình ấy, lần đầu tiên, khóe mắt cô rỉ ra một hàng lệ long lanh, Ba Tang cũng hơi ngoảnh đầu sang hướng khác.
Sáng sớm tờ mờ, thôn Công Nhật Lạp vẫn bao trùm trong màn đêm xám xịt, hai đống lửa cháy bừng bừng như điềm trời cảnh báo thế nhân, ngọn lửa điên cuồng nhảy múa. Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Mẫn Mẫn, Nhạc Dương, Ba Tang sáu người xếp thành hàng ngang, đeo trên lưng những chiếc ba lô nặng nề, lặng lẽ chăm chú nhìn ngọn lửa hừng hực, phát ra những âm thanh lách tách.
Chúng tôi đi đây, Trương Lập...
Chúng tôi đi đây, pháp sư Tháp Tây...
Chúng tôi nhất định sẽ tìm được Bạc Ba La thần miếu, chúng tôi sẽ mang theo lời chúc phúc của hai người...
Căn nhà nhỏ đặt di thể của pháp sư Tháp Tây đã hoàn toàn bị ngọn lửa nhấn chìm, dân làng Công Nhật Lạp được Địch ô An Cát Mẫu dặn dò không được ra ngoài đều ở sau cửa ra vào, cửa sổ nhìn ngó, hệt như lần đầu tiên bọn họ đến ngôi làng nhỏ này vậy.
Lưỡi lửa bên dưới chiếc vạc lớn bập bùng bất định, hơi nước nghi ngút phủ che phía trên, dường như còn nghe thấy cả tiếng nước đang sôi ùng ục, Mã Cát ôm chặt Trương Lập, từng bước từng bước nhích lên bậc thang bằng đá, bên trong thân hình gầy guộc mong manh ấy, tưởng chừng ẩn chứa sức mạnh vô cùng vô tận. Trong màn hơi nước vẩn vít, Mã Cát nhẹ nhàng cởi bỏ mọi vật bên ngoài của mình và Trương Lập, trở về với hình thái nguyên thủy nhất của loài người khi giáng sinh xuống thế gian này. Tựa như hài nhi sơ sinh, thân thể trần truồng của cô ẩn hiện giữa màn khói lan tỏa, hai mắt cô nhìn thẳng về phía trước, miệng nói lớn: “Con! Mã Cát A Mễ, là vợ của Trương Lập! Trương Lập, là người chồng duy nhất của con! Con yêu chàng, tôn trọng chàng, phục tùng chàng, chàng là toàn bộ sinh mệnh của con! Giờ đây trời giáng điềm lành, hồn chàng đã trở về cõi trung ấm, con nguyện đi theo chàng, mong chư thần đoái thương, để linh hồn chúng con được hợp nhất làm một, vĩnh viễn chẳng bao giờ phân ly!”
Nói xong, Mã Cát ôm Trương Lập nhảy vào bên trong chiếc vạc khổng lồ ấy, “tủm” một tiếng, nước bắn tóe lên, trong làn khói mờ mờ, thấp thoáng trông thấy làn da trắng bóc như ngà voi. Vẻ thanh khiết của cô khiến người ta không dám nhìn thẳng, càng nhìn càng thấy hổ thẹn trong lòng. Mã Cát đứng trong vạc nước sôi, chỉ lộ ra hai vai và đầu, phía dưới, ngọn lửa vẫn cháy hừng hực, hơi nước dâng lên mỗi lúc một nồng đậm. Đứng giữa vạc nước sôi sùng sục ấy, mà cô tựa như hoàn toàn không cảm thấy gì. Trương Lập tựa hồ đang nằm trên mặt nước, còn Mã Cát thì như người mẹ đang tắm cho con thơ, dùng ánh mắt từ ái, dịu dàng, chăm chú nhìn vào gương mặt người yêu, chăm chú nhìn làn da của người yêu...
Từ lúc Mã Cát bế ngang Trương Lập đứng ở mép vạc nước sôi ấy, mọi người đã không nỡ nhìn thêm, ai nấy đều chầm chậm ngoảnh mặt đi. Cùng với lời thề văng vẳng của Mã Cát, họ nặng nề cất bước chân, rời xa khỏi ngôi làng nhỏ thanh bình ấy, chỉ nghe phía sau vang lên tiếng “tũm tũm”, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều như bị trúng đạn, người khẽ run lên, song không ai quay đầu lại, họ không dám quay đầu... người nào người nấy đều nghiến chặt răng, nuốt nước mắt, càng đi càng xa, càng đi càng xa dần...
Họ cũng không thể trông thấy, vạc nước sôi ấy “ục ục ục” nổi lên vô số bọt khí, một đôi mắt đỏ ngầu đột nhiên mở bừng ra, “Sáng quá...”
Khi chim đưa thư truyền tin đến chỗ Quách Nhật Niệm Thanh, thì đã gần trưa.
“Loảng xoảng!” Tiếng đổ vỡ ầm ĩ làm tên lính đưa tin giật bắn mình, chỉ thấy hai tay Quách Nhật Niệm Thanh nắm chặt mảnh giấy đó, không ngừng run rẩy. Tên binh sĩ ấy vô cùng kinh ngạc, không biết đã xảy ra chuyện gì mà khiến vị Tước Mẫu vương dù có núi đổ ngay trước mặt cũng không biến sắc này trở nên như vậy.
“Lập tức chuẩn bị mười con ngựa... à không! Tự ta sẽ đi!” Quách Nhật Niệm Thanh lao ra như một cơn gió, tên binh sĩ vẫn còn đang ngẩn người, ngây ngốc nhìn chén trà vỡ dưới đất.
“Không... không xong rồi...” Một tên trong đội thân vệ của Quách Nhật Niệm Thanh kinh hãi kêu toáng lên, “Đại vương... đại vương đã xông thẳng vào khu rừng có người Lỗ Mặc!”
“Thiết kỵ đội! Mau, đuổi theo...” Viên đội trưởng tức khắc hạ lệnh: “Bảo vệ đại vương!”
“Đuổi kịp được không? Đại vương dắt theo những con ngựa tốt nhất rồi!” “Không kịp cũng phải đuổi!”
“Cát Mã đốt lửa, muốn tuẫn táng.” Từng chữ như nhuốm máu, không ngừng lớn lên trước mắt Quách Nhật Niệm Thanh.
“Nhất định phải ngăn nàng lại! Nhất định phải đợi ta đến!” Quách Nhật Niệm Thanh thúc ngựa lao như điên cuồng, cành lá trong rừng vướng vào, khiến khắp mình mẩy y toàn là thương tích. Y đã không thể nào ngăn được cơn thác lũ tình cảm trào dâng lên trong tâm khảm mình nữa: “Mã Cát, nàng là đồ ngốc, sao nàng lại ngốc vậy! Những kẻ từ bên ngoài đến, đều là lũ xấu xa lừa đảo, không đáng để nàng chết vì chúng đâu!”
“Ta đưa nàng đến thôn Công Nhật Lạp, hy vọng nàng có thể sống một cách bình yên hạnh phúc... ta không dám mong rằng sau này sẽ gặp lại nàng... nhưng trời rủ lòng thương, không ngờ chúng ta lại được trùng phúc... Mã Cát, nàng có biết trong lòng ta nhớ nhung nàng biết bao nhiêu không? Nàng sớm đã chiếm toàn bộ trái tim này của ta rồi... đừng chết... dù thế nào, ta cũng tha thứ cho nàng...”
“Ba năm rồi, ta vẫn lẳng lặng ẩn nhẫn, không dám nói với bất cứ ai, chỉ sợ lộ ra phong thanh, để cho đối thủ biết được, ta không thể để nàng bị cuốn vào vòng xoáy đấu tranh này được. Trước nay luôn có người của ta ngấm ngầm bảo vệ nàng, nàng có biết không, ta vẫn luôn ở trong bóng tối, lẳng lặng bảo vệ cho nàng...”
“Mười năm rồi... từ ngày chúng ta ly biệt, không đêm nào là ta không mơ thấy nàng... khi ta đói khát đến nỗi phải ăn cả rễ cỏ mọc hoang, khi ta đau đớn không sao ngủ nổi, khi ta bị ném vào đống người chết vì tật bệnh... chỉ cần nghĩ đến gương mặt nàng, nghĩ đến nụ cười của nàng, là ta lại có dũng khí để tiếp tục sinh tồn..., nguyện vọng của Mã Cát còn chưa thành hiện thực, ta nhất định phải sống... nàng là lý do duy nhất để ta tiếp tục tồn tại trên cõi đời này!”
Vó ngựa đi qua đâu, bùn đất tung tóe lên tới đó...
Khi Quách Nhật Niệm Thanh xông vào thôn Công Nhật Lạp, mười mấy con chiến mã đều đã bị y bỏ lại hết dọc đường, chỉ còn một con duy nhất y đang cưỡi. Giống như y, mình mẩy con ngựa cũng đẫm máu tươi. Con người máu ấy nhảy xuống khỏi lưng ngựa, chiến mã liền hí dài một tiếng, mệt mỏi gục xuống. Người máu guồng chân chạy thẳng đến cổng thôn, thật khó mà tin nổi, một thân thể như thế, lại chạy được với tốc độ nhanh nhường ấy.
Từ xa, y đã thấy ánh lửa hừng hực, sáng chói rực rỡ trên màn trời đang ngả về đêm, một luồng khí nóng lan tỏa đi khắp bốn xung quanh. Trước vạc lớn, chỉ có một người đang ngồi. Quách Nhật Niệm Thanh chẳng buồn để ý đó là ai, gầm lên, chỉ tay quát lớn: “Dập tắt ngay!”
Địch ô An Cát Mẫu bỗng nhiên nghe thấy một tiếng gầm lớn, không khỏi giật thót mình, chỉ thấy trong ánh chiều tà, dường như có một con dã thú trọng thương đang lao bổ về phía mình. Khi cái bóng ấy đến gần, ông mới nhìn rõ hóa ra là một người toàn thân đẫm máu tươi, đợi khi nhìn rõ chiều cao và thể hình của người ấy, Địch ô An Cát Mẫu lại càng thêm kinh hãi! Từ đây đến Tước Mẫu, chim bay cũng phải mất hơn nửa ngày, nếu cưỡi ngựa phóng đến, thời gian quyết không thể nào dưới một ngày được, vị... vị Tước Mẫu vương này, lẽ nào đã bay đến đây?
Ông chưa kịp nghĩ gì, Quách Nhật Niệm Thanh đã xông đến trước cái vạc lớn ấy, liên tục quát lên: “Dập tắt mau! Dập tắt mau!...” Thấy xung quanh không có công cụ gì để dập lửa, y liền nhấc một tảng đá lớn, ném thẳng vào giữa đống lửa, hoa lửa bắn tung tóe, sém chút nữa thì cháy cả râu tóc và y phục của Địch ô An Cát Mẫu. Quách Nhật Niệm Thanh vẫn không dừng tay, lại nhấc một tảng đá lớn hơn, giơ cao quá đầu, tương thẳng vào cái vạc, phát ra những tiếng “oang oang oang”, sau hai ba lượt như thế, chỉ nghe “rắc” một tiếng, cái vạc đã nứt toác, nước sôi sùng sục liền theo khe nứt bắn túa ra ngoài. Nước đổ xuống lửa, kêu lên “xèo xèo”, khói trắng ngùn ngụt bốc lên. Quách Nhật Niệm Thanh lách sang một bên, cánh tay bị nước sôi bắn trúng, mà như hoàn toàn không có cảm giác gì, vẫn cứ tiếp tục ném đá, đoạn nhấc bổng Địch ô An Cát Mẫu vẫn chưa hết hoảng hồn lên, gằn giọng hỏi: “Nói đi, chưa từng xảy ra chuyện gì! Chưa từng xảy ra chuyện gì, có đúng không!”
Địch ô An Cát Mẫu nhìn vị Tước Mẫu vương tân nhiệm trước mặt mình với ánh mắt xót xa, cúi đầu đáp: “Đại vương, ngài... chậm mất rồi!”
“Nói bậy!” Quách Nhật Niệm Thanh gầm lên một tiếng, nhấc bổng cả Địch ô An Cát Mẫu vốn cao hơn mình rất nhiều lên không trung, nhìn bộ dạng như thể sắp ném ông già vào trong vạc nước. Nhưng rồi y lại thoáng chần chừ, vung tay đập mạnh Địch ô An Cát Mẫu xuống đất, chỉ tay vào ông gằn giọng quát lên: “Ngươi gạt ta!” Đôi mắt y, tựa hồ đã gồ hẳn ra ngoài. Y bước hai bước lại chỗ cái vạc, rồi lại quay đầu, khản giọng hét lên: “Ngươi gạt ta!”
Nói đoạn, y bước thẳng đến chỗ cái vạc lớn ấy. Lúc này, ngọn lửa bên dưới vẫn chưa tắt hẳn, vẫn đang âm ỉ cháy, nhưng nước trong vạc thì đã chảy hết. Quách Nhật Niệm Thanh không nói một lời, ôm lấy một chân vạc, mùi thịt cháy khét lẹt cùng làn khói xanh lập tức bốc lên nồng nặc.
Địch ô An Cát Mẫu lớn tiếng kêu lên: “Đừng làm vậy, đại vương!”
Quách Nhật Niệm Thanh như không nghe thấy tiếng gọi của ông, dường như cũng quên cả đau đớn, cơ thịt cuồn cuộn gồ lên trên thân thể lùn ngủn, dồn ra sức mạnh kinh người. “A...” cùng với tiếng hét của y, cái vạc lớn không ngờ đã từ từ nghiêng hẳn sang một phía. Cơ bắp Quách Nhật Niệm Thanh căng cứng, lực đạo chuyển từ gạt sang nâng, rồi từ nâng sang đẩy, từ đẩy sang nhấc, cuối cùng đã hất đổ cả cái vạc lớn.
Một tiếng “Ầm!” vang lên, cái vạc lăn lông lốc mấy vòng dưới đất, chầm chậm dừng lại. Quách Nhật Niệm Thanh run rẩy bước đi mấy bước, rồi mới từ từ trụ vững thân hình, chậm rãi lại gần. Các thứ bên trong vạc đã bị đun suốt một ngày trời, da thịt sớm đã tan chảy thành nước, giờ bên trong, chỉ còn lại một đống xương trắng mà thôi.
“Không!” Hai đầu gối Quách Nhật Niệm Thanh run run, quỳ gục xuống bên cạnh, “Không! Không! Không! Không!...” Y giống như kẻ đã phát cuồng, đột nhiên đập mạnh đầu vào cái vạc sắt. Địch ô An Cát Mẫu thấy vậy, vội vàng đứng lên ngăn cản Quách Nhật Niệm Thanh: “Đừng làm vậy... đại vương, đừng làm vậy!” Quách Nhật Niệm Thanh đứng phắt dậy, chỉ thấy mặt mũi y đầm đìa những máu, từ ngực đến đùi cháy đen khét lẹt, lại có máu tươi rỉ ra, càng nhìn càng thấy khiếp hãi. Y chỉ vào đống xương trắng trong vạc, quát lên: “Xương cốt của Mã Cát đâu, lọc ra cho ta!”
“A...” Địch ô An Cát Mẫu lộ vẻ khó xử.
Hai mắt Quách Nhật Niệm Thanh đỏ ngầu, khóe miệng rỉ máu: “Chết rồi cũng không thể để chúng ở bên nhau được, phân ra cho ta!” Không để Địch ô An Cát Mẫu kịp nói gì, y lại nói tiếp: “Đám Địch ô các ngươi, rất hiểu biết về xương cốt con người cơ mà! Không phân biệt được... ta sẽ khiến ngươi sống không bằng chết!” Nói đoạn, y cởi chiếc áo đã rách bươm, nhuốm đầy máu tươi của mình ra, cẩn thận trải xuống đất, rồi bắt Địch ô An Cát Mẫu đặt xương cốt của Mã Cát lên trên.
Địch ô An Cát Mẫu không biết làm sao, chỉ đành nhặt từng khúc từng khúc xương lên một, miệng lẩm nhẩm: “Đây là của A Mễ... đây là... của Trương Lập...”
Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cạnh, đờ đẫn quan sát. Bóng đêm sắp bao trùm cả mặt đất, một người mặt mũi lấm lem chạy đến, chính là Tô Lang, người đưa tin đến Tước Mẫu bị Ba Tang chặn lại ở dưới chân thành, cũng chính là tai mắt của Quách Nhật Niệm Thanh gài lại đây. Y bổ nhào tới, quỳ trước mặt Quách Nhật Niệm Thanh, khóc lóc van vỉ: “Đại vương, tiểu nhân vô dụng, không thể ngăn Mã Cát lại được...”
Quách Nhật Niệm Thanh vẫn thẫn thờ nhìn đống xương trắng, hờ hững hỏi: “Ngươi đã đi đâu?”
Tô Lang lắp bắp đáp: “Lúc bọn tiểu nhân truyền tin cho đại vương, bị đám người ấy phát hiện, liền nổi giận giết chết hai người kia rồi, tiểu nhân... tiểu nhân...”
“Vì vậy ngươi bỏ trốn, phải không?” Giọng Quách Nhật Niệm Thanh lạnh như băng đá.
“Tiểu nhân có tội, tiểu nhân... tiểu nhân đáng chết... đáng chết...” Tô Lang đập đầu lia lịa xuống đất.
“Vậy thì ngươi chết đi.” Quách Nhật Niệm Thanh vung tay một cái, máu tươi đã tóe lên.
Địch ô An Cát Mẫu kinh ngạc phát hiện, cổ Tô Lang như thể vừa bị một lưỡi đao sắc bén lia qua, để lại một vết cắt bằng phẳng, nhưng mà... nhưng... trong tay đại vương, đâu có thứ gì chứ!
Ông mới thoáng ngây người, ánh mắt Quách Nhật Niệm Thanh đã quét đến: “Ai bảo ngươi dừng tay lại! Tiếp tục cho ta!”
Địch ô An Cát Mẫu không dám chậm trễ, vội ngoan ngoãn chia đống xương ra làm hai. Quách Nhật Niệm Thanh cẩn thận nâng phần xương cốt của Mã Cát lên, vung chân đá tung bộ xương của Trương Lập vương vãi tung tóe, rồi sải bước chân đi về phía Đông ngôi làng.
Địch ô An Cát Mẫu nhìn theo bóng lưng đi xa dần của Quách Nhật Niệm Thanh, nhặt cái đầu lâu có tám chín phần giống của con người lăn lông lốc dưới chân mình lên, lắc đầu thở dài: “Đại vương, tôi không cố ý gạt ngài đâu, xin hãy lượng thứ cho thân già này.” Dứt lời, ông ném cái xương sọ ấy sang một bên, bước tới cạnh thi thể của Tô Lang. Địch ô An Cát Mẫu định an táng cho y, dẫu sao thì cũng cùng sống chung trong thôn Công Nhật Lạp này mấy năm rồi.
Cái chết của Quách Nhật Niệm Thanh
Quách Nhật Niệm Thanh cẩn trọng ôm đống xương cốt, đi thẳng ra bãi cỏ bên bờ hồ. Lúc ấy, trời đang chuyển sang sẩm tối, bầu trời hình con rắn của Thánh vực vặn vẹo, lóe lên những sắc màu mê ảo.
Quách Nhật Niệm Thanh cởi túm áo ra, cầm cái đầu lâu lên, hôn thật sâu, sau đó hướng hốc mắt của cái hộp sọ đó ra phía bãi cỏ, dịu dàng nói: “Mã Cát, nàng còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta đã gặp nàng ở đây...”
“Ủa, có một cô bé, cô bé này sắp chết rồi ư?”
“Nè... nè... tỉnh lại đi, sao lại ngủ ở đây? Em sẽ bị độc trùng cắn đó, sẽ bị người Lỗ Mặc ăn thịt đó.”
Cô bé ấy mở mắt, ánh mắt thương tâm ấy, nỗi ai oán mà bất lực ấy, tức thì khiến trái tim đứa bé trai đau nhói.
“Nào, uống chút nước đi...”
“Em tên là gì?”
“A Mễ, Mã Cát A Mễ...”
“Bố mẹ em đâu?”
“A, có phải cũng giống anh, bố mẹ đều chết trong chiến tranh rồi không...”
“Mã Cát, từ hôm nay, anh sẽ là anh trai em, em sẽ là em gái anh. Dù phía trước có bao khó khăn, dù chiến tranh có kéo dài chừng nào chăng nữa, chúng ta cũng phải dũng cảm tiếp tục sống, bố mẹ trên trời sẽ dõi theo chúng ta, sẽ bảo vệ cho chúng ta.”
“Mã Cát, chúng ta phải đi tiếp về phía Đông, người trong làng đều chạy hết cả rồi, quân đội Yaca có thể đánh tới đây bất cứ lúc nào, em có sợ không?”
“Không sợ, có anh trai ở đây, thì không sợ.”
...
“Hi hi... hi hi... anh ơi! Xem kìa... đó là gì...”
Đó là âm thanh đã vô số lần xuất hiện trong cơn mộng mị, in hằn vào sâu trong ký ức của Quách Nhật Niệm Thanh.
Bấy giờ, bãi cỏ này cũng vàng rực như ngày hôm nay. Những ngày tháng ấy sao mà tươi đẹp thế. Mỗi khi đến buổi hoàng hôn, lũ tằm diên trong đám cỏ lau sẽ bắt đầu phát sáng, quầng sáng màu trắng sữa nhấp nháy như trân châu, dùng tay chạm khẽ một cái, từng đám từng đám tằm diên liền bay vút lên, tựa như những vạt hoa tuyết đung đưa theo gió, rải xuống những âm thanh trong vắt ngân nga.
“A... đẹp quá!”
“Đó là tinh linh tuyết, chúng đang nhảy múa. Trên chiến trường, những đứa trẻ bị mất cha mất mẹ, sau khi chết đi, đều hóa thành tinh linh tuyết, chúng sẽ bảo vệ, chúc phúc cho những người bạn may mắn sống sót của mình. Em gái, em có biết không, khi tinh linh tuyết bay lên nhảy múa, năm ấy, mùa màng nhất định sẽ bội thu.”
“Ưm, em biết rồi, anh à.”
Tiếng ngâm vĩnh hằng không đổi khi tằm diên giao phối ấy, là bài hát của tinh linh, người nào nghe qua một lần sẽ mãi mãi không thể nào quên; là khúc hợp xướng ngợi ca sự sống; là sự ấm áp như được ôm trong vòng tay mẹ. Khi hai đứa bé tay nắm tay, đắm mình trong vũ điệu của tinh linh tuyết, khoảnh khắc ấy đã trở thành vĩnh hằng. Trong lòng bàn tay chúng, là thế giới nhỏ của riêng mình.
...
Đi giữa chiến trường khói lửa, đi trên mặt đất bị vó sắt giày xéo, xuyên qua những đống thây người chồng chất, hai đứa bé vẫn tay nắm tay, mang theo khao khát cầu sinh, đi từ ngôi làng không người này đến ngôi làng không người khác.
“Anh ơi...”
“Ừ...”
“Tại sao phải đánh trận thế?”
“Ừm, không biết nữa, đó là chuyện của người lớn. Anh nhớ cha từng nói, nơi nào có người, là nơi ấy có tranh chấp, tranh chấp lớn dần, rồi biến thành chiến tranh. Ừm, vì vậy, cứ nơi nào có người, là sẽ có chiến tranh.”
“Vậy... có nơi nào không có chiến tranh không? A Mễ không cần chiến tranh, A Mễ ghét chiến tranh lắm...”
“Đợi anh lớn lên rồi, nhất định sẽ khiến chiến tranh phải kết thúc, cho Mã Cát một Thánh vực không có chiến tranh...”
“Hay quá, anh à, chúc ta móc ngoéo nhé!”
...
Quách Nhật Niệm Thanh ôm chặt cái đầu lâu đó vào lòng, thấp giọng lẩm nhẩm: “Mã Cát, nàng có biết không, ta vẫn luôn cố gắng để kết thúc chiến tranh, chỉ cần ta thống nhất được Thánh vực, thì sẽ không còn chiến tranh nữa. Chẳng phải nàng cũng đã đáp ứng, chỉ cần ta có thể khiến cho Langbu và Yaca không còn chiến tranh nữa, nàng sẽ đợi chờ ta, trở thành vợ ta hay sao? Sao nàng lại quên mất?”
Quách Nhật Niệm Thanh ngẩng đầu lên, bầu trời hình rắn vẫn đang vùng vẫy, ánh sáng chưa chịu tan đi, phía chân trời ánh lên một vạt đỏ máu, như vầng tàn nguyệt, như làn mi cong vút. Quách Nhật Niệm Thanh như đang nhìn về quá khứ, khi ấy, có hai đứa bé vai kề vai, cùng ngắm nhìn tia sáng cuối cùng của một ngày...
“Anh à...”
“Ừm...”
“Tại sao, bầu trời Thánh vực lại như thế kia?”
“Vì có núi, thần núi Niệm Thanh Đường Cổ Lạp đã kéo hai bên rặng núi lớn quây lại, để bảo vệ chúng ta, như thế, người khác sẽ không tìm được chúng ta nữa.”
“Tại sao phải làm cho những người khác không tìm thấy chúng ta?”
“Truyền thuyết kể rằng, rất lâu, rất lâu trước đây, chiến tranh ở bên ngoài kia còn nhiều hơn, dữ dội hơn nơi này bội phần, tổ tiên chúng ta vì chạy trốn chiến tranh nên mới tới đây, chỉ là giờ đây... nơi này cũng trở nên như thế rồi.”
“Vậy thì thế giới ở bên ngoài kia, có còn chiến tranh không?”
“Ai biết được chứ, đó chỉ là truyền thuyết mà thôi, rốt cuộc có thế giới bên ngoài kia hay không, cũng không ai biết cả.”
“Anh à, anh à, có phải chỉ cần vượt qua ngọn núi lớn, là đã ra đến bên ngoài không”
“Không. Trong truyền thuyết, bên ngoài rặng núi lớn, vẫn là núi non, những ngọn núi này đều rất cao, tuyết phủ trắng xóa, giống như những cánh hoa sen, tầng tầng lớp lớp bọc lấy nơi này. Phải vượt qua vô số núi cao, mới có thể ra được bên ngoài. Còn phía dưới kia, là biển lớn mênh mông vô tận, phải đi đến tận cùng của biển lớn, mới là thế giới bên ngoài. Nơi chúng ta cư trú đây, chia làm ba tầng, trên, giữa và dưới, mỗi tầng lại có thể chia làm hai tầng nhỏ, tổng cộng là sáu tầng trời. Thấp nhất, ở nơi nối liền với biển, là Ngạ quỷ, trên một chút nữa là Súc sinh và Dã thú, hai tầng ở giữa là nơi loài người chúng ta sinh sống, tầng trên cùng, nơi liền kề với núi tuyết là chốn của Thần thánh. Đi lên trên, mà không được sự chỉ dẫn và cho phép của thần linh, thì không thể tìm thấy đường ra bên ngoài; nếu đi xuống, ắt sẽ bị Ngạ quỷ và Dã thú ăn thịt. Tổ tiên của chúng ta tới nơi này không biết đã bao nhiêu năm rồi, vậy mà vẫn chưa từng có người nào đi ra khỏi đây cả.”
“Bên ngoài... sẽ như thế nào nhỉ?”
“Chắc là, chắc là cũng không khác chỗ chúng ta là mấy, có núi có sông, có bầu trời, có biển lớn...”
“Em muốn đi xem nơi đó quá, biết đâu bên ngoài lại không có chiến tranh nữa thì sao!”
“Không thể nào. Chỉ cần là nơi có con người, thì sẽ có chiến tranh, đây là quy luật vĩnh viễn không thể nào thay đổi.”
“Em à, em phải kiên trì lên, phía trước có khói bếp, nhất định là có người, chúng ta đã hứa với nhau rồi mà, phải cùng dũng cảm tiếp tục sống...”
“Bà ơi, cháu xin bà, hãy cứu em gái cháu, cháu đập đầu lạy bà...” “Bốp, bốp, bốp...”
“Đứa bé trai kia là ai?”
“Là thằng bé Trác Ngõa nhận nuôi, còn dẫn theo một đứa bé gái nữa. Em gái nó sắp chết rồi, đến tìm Trác Ngõa trị bệnh... Con bé ấy bệnh lắm, xem chừng chẳng sống được lâu nữa đâu...”
“Ừm, đang lúc chiến tranh loạn lạc, bản thân Trác Ngõa còn chẳng đủ ăn, phải nuôi thêm hai đứa trẻ nữa, sợ là sẽ chết đói cả thôi...”
“Ài, ai bảo chứ...”
...
“Binh sĩ Yaca đánh đến rồi, mọi người mau chạy đi...”
“Bà ơi, bà dẫn em gái nấp vào khu rừng đá bên phải kia đi, quân lính Yaca cưỡi ngựa, bọn chúng sẽ đi theo đường lớn, bên đó không có dã thú, mấy ngày nay cháu đều đến xem xét rồi, an toàn lắm.”
“Còn cháu thì sao?”
“Cháu sẽ dụ bọn lính Yaca đi theo hướng khác! Bà ơi, nếu cháu không quay lại, thì sợ rằng cháu không thể quay lại nữa rồi. Xin bà hãy nói với em cháu, anh trai nó phải đến một nơi rất xa, thế nhưng, sẽ có một ngày, anh trai sẽ quay lại đón nó. Xin bà nói với Mã Cát rằng, anh trai nhất định sẽ thực hiện lời hứa lúc xưa!”
“Cháu, cháu đừng...”
...
“Ta sắp chết rồi sao? Bàn tay ai vậy, ấm áp quá...”
“Đừng cử động, nằm yên đấy, để tôi lấy cho ông ít nước.”
“Giọng nói này, êm ái như tiên nữ vậy, lẽ nào tiên nữ trên trời hạ xuống nhân gian để cứu vớt kẻ vừa bò ra khỏi địa ngục như ta đây?”
“Nào, uống chầm chậm thôi, đừng vội...”
“Cô gái này là ai? Thân thiết quá, nụ cười ấy, dường như chỉ mẹ ta mới có...”
“Cẩn thận nào, ghé đầu lên chân tôi này, như vậy sẽ đỡ hơn. Xin lỗi, mắt trái của ông hỏng mất rồi...”
“Cô gái, tại sao nàng phải đau buồn, nàng đang đau buồn vì ta đấy ư? Nàng là ai?”
“Nàng... nàng là ai... có thể nói với ta, tên của... của nàng không?”
“Tôi tên là Mã Cát A Mễ.”
...
Cỏ lau vàng ruộm lay động theo gió, phất qua thân thể Quách Nhật Niệm Thanh như từng đợt sóng xô bờ. Để mặc cho con sóng ấy lướt qua kẽ tay, Quách Nhật Niệm Thanh vuốt ve chiếc đầu lâu, lại tự nói một mình: “Lúc đó, ta vẫn còn rất nhiều lời muốn nói với nàng, ta vẫn cứ nghĩ rằng... sẽ có... sẽ có cơ hội...” Sau đó, y cúi xuống, ghé miệng sát vào chỗ mang tai của chiếc đầu lâu, khẽ hỏi, như đã từng hỏi vô vàn lần trong mộng: “Nàng gả cho ta nhé?”
“Nàng gả cho ta nhé?” Người cưỡi trên lưng ngựa thình lình buông ra một câu.
“Ưm?”
“Mã Cát A Mễ, nàng là cô gái xinh đẹp nhất ta từng gặp trên đời này, nàng không chỉ cứu lấy tính mạng ta, mà còn mang cả trái tim ta đi nữa. Ta lấy tư cách người nắm giữ vương quyền tương lai của Tước Mẫu, xin thề, cả cuộc đời này, ta sẽ bảo vệ nàng như bảo vệ con ngươi mắt mình. Gả cho ta nhé, ta sẽ thỏa mãn bất cứ yêu cầu nào của nàng...”
“Ông có thể làm cuộc chiến tranh này ngừng lại không?”
“Chuyện này không thành vấn đề, ta sẽ kết thúc cuộc chiến tranh này...”
“Ông có thể khiến Thánh vực trở lại phồn vinh như thời vương triều Thái Dương trong truyền thuyết không?”
“... Ta...”
“Ông có thể đưa Mã Cát rời khỏi nơi này, đi xem thế giới bên ngoài kia như thế nào không... Khi ông làm được những việc ấy, hãy đến tìm Mã Cát. Nếu khi đó, Mã Cát còn chưa gả cho ai, tôi sẽ suy nghĩ.”
“Vì nàng, ta sẽ bất chấp tất cả, hãy đợi ta!” Con ngựa tung vó lao vút đi, mang theo một trái tim hân hoan, để lại một cô gái mơ màng man mác.
“Thật sự... có thể làm được không?” Cô hoang mang lắc lắc đầu...
“Mã Cát, nàng vẫn hệt như hồi nhỏ, không thay đổi một chút nào, mộng tưởng ấy của nàng, hãy để ta thực hiện cho nhé!”
...
Một cơn gió lướt qua, Quách Nhật Niệm Thanh hơi se mình, tựa hồ như thấy lạnh, phải rồi, đã chảy quá nhiều máu, những vết bỏng kia vẫn đang rỉ nước vàng. Cảm giác này sao mà quen thuộc, khiến y nhớ lại quãng thời gian ở tầng bình đài thứ ba, vương quốc của tuyết trắng, vùng đất lạnh giá ấy. Đột nhiên, y nhớ đến giọng nói của một người, liền cúi nhìn chiếc đầu lâu trong lòng mình, không khỏi nở một nụ cười thảm thiết: “Sư phụ, đây chính là thứ còn quý trọng hơn cả mạng sống mà người nói đến đó sao?”
...
“Tiểu tử lùn, tại sao ngươi lại đến đây?”
“Tôi muốn tìm đường ra ngoài, muốn đi xuyên qua lãnh địa của người Thượng Qua Ba.”
“Nếu họ ngăn cản ngươi thì sao?”
“Tiêu diệt bọn họ!”
“Ha ha ha... khá lắm, có chí khí. Tiểu tử lùn, ta nói cho ngươi biết, tầng bình đài thứ ba này vốn chẳng có người Thượng Qua Ba gì cả...”
“Suy nghĩ của ngươi ngây thơ quá, các người không thể vượt qua được nơi bọn chúng canh giữ đâu, với lực lượng của các ngươi, muốn tiêu diệt bọn chúng, về cơ bản... là rất khó. Đặc biệt là lúc này, chúng đã có vua của mình, đến cả ta, cũng chỉ có thể lén lút nấp từ xa mà thôi. Muốn qua được nơi ấy, hãy đợi một hai chục năm nữa, khi nó chết già... ừm, nói không chừng lại có vua mới được sinh ra, vẫn không thể qua được đâu!”
“Quách Nhật Niệm Thanh, cho dù thây chất thành núi, máu chảy thành sông, con cũng nhất định phải tìm được đường ra bên ngoài ư? Được lắm, ta có thể truyền cho con trí tuệ của ma quỷ, nhưng trước hết, con phải có quyết tâm vứt bỏ được tất cả mọi thứ của con người, con phải chấp nhận mất đi thứ còn quý trọng hơn cả mạng sống của mình, có làm được không?”
“Con không cha không mẹ, trên cõi đời này chỉ còn lại một thân một mình, có gì mà không buông bỏ được chứ? Sư phụ, xin người dạy con thuật quyền mưu, đợi khi thống nhất được Yaca và Langbu, con nhất định sẽ dẫn theo đại quân, đạp bằng nơi này, mở ra một con đường thông với thế giới bên ngoài kia.”
“Nói không chừng đến lúc đó... cũng được, kha kha kha... chúng ta bắt đầu nói từ tính người nhé...”
...
Màn đêm nồng đậm chầm chậm xâm chiếm không gian, tựa như dòng mực đổ vào làn nước, gió cũng dừng lại, bãi cỏ sắc vàng trở nên tĩnh lặng, chỉ là không còn lũ tằm diên bay lên nhảy múa và âm thanh trong vắt ấy nữa. Quách Nhật Niệm Thanh không ngừng lải nhải, lẩm bẩm một mình bên mép nước, lúc cười lớn, khi lại rơi nước mắt, “Nàng muốn ta thành Tước Mẫu vương, ta liền trở thành Tước Mẫu vương; nàng muốn ta kết thúc chiến tranh, ta liền vì nàng mà thống nhất Thánh vực, kết thúc chiến tranh; nàng muốn rời khỏi nơi đây, ta sẽ dẫn đầu toàn bộ binh sĩ ở Thánh vực này, mở ra một con đường máu... Sao nàng lại ngốc như vậy, sao lại không chịu đợi ta... Ta sắp làm được rồi... Chỉ cần vì nàng, không có việc gì mà ta không thể làm được! Nhưng không có nàng, tất cả những thứ ấy còn ý nghĩa gì nữa đâu?”
“Nếu không có nàng, tất cả những thứ này còn ý nghĩa gì nữa...” Tiếng gầm như sấm của Quách Nhật Niệm Thanh vang lên trong đêm đen tĩnh mịch, dội đi dội lại giữa bãi cỏ không bóng người.
Khi sắc vàng trên bãi cỏ dần lui đi, Quách Nhật Niệm Thanh kiên quyết đứng thẳng dậy, cẩn thận nâng gói xương cốt, từng bước từng bước đi về phía giữa hồ nước. Làn nước lạnh dịu dàng như bàn tay tình nhân... bao bọc lấy bàn chân y, hai đầu gối, rồi thắt lưng, rồi vai, rồi... ngập cả đầu y, một tràng bọt khí nổi lên ùng ục. Quách Nhật Niệm Thanh và gói xương cốt ấy, không trồi lên nữa. Bầu trời Thánh vực cuối cùng cũng bị bóng đêm nuốt chửng, bốn phía tĩnh mịch như tờ, vạn vật đều lặng lẽ...