Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba dừng lại, đăm đăm nhìn về phía xa, gã chợt không kìm được tự hỏi: “Đây là sự thật sao, không phải mình đang nằm mơ đấy chứ?”
Cỏ xanh biêng biếc, ngọn cao không quá gối, ngọn thấp không lấp gót giày, kết thành một tấm thảm, bên trên điểm xuyết những bông hoa trắng nhỏ li ti như hạt gạo. Một vùng thảo nguyên mênh mông trải đến tận chân trời. Cơn gió phất qua, gợn lên những đợt sóng nhẹ lăn tăn lan xa tít tắp, tựa như từng nhánh cỏ, từng bông hoa đều đang vẫy tay với gã, reo lên, hân hoan: “Trở về rồi... trở về rồi...trở về rồi...”
... Gió nơi này êm dịu như hơi thở tình nhân, khiến người ta thực tình không phân biệt nổi, đó là cơn gió thổi ùa vào mặt mình, hay chỉ là dòng không khí do cơ thể mình chuyển động gây ra. Mấy cây cột đá khổng lồ nghiêng nghiêng trên bãi cỏ, khiến không gian tĩnh lặng yên bình ấy thêm phần trang nghiêm. Mấy chú chim ngậm hoa bay đến, đậu trên cột đá, mắt láo liên nhìn khắp xung quanh rồi lại theo nhau cất cánh tung bay chao liệng. Trên không trung như có ai đó đang tấu lên giai điệu sonate Ánh Trăng. Gió thổi hiu hiu, chim ca ríu rít, mặt đất hơi dập dềnh uốn lượn, phác lên những đường cong tuyệt đẹp như đường nét trên thân thể người thiếu nữ. Vườn Địa đàng trong Truyền thuyết chắc hẳn cũng chỉ thế này thôi, đó là ấn tượng đầu tiên của Trác Mộc Cường Ba về cảnh tượng trước mắt.
Sau đó gã phát hiện, mình đang ở một lối ra giống như cái hốc, phía trước là thảo nguyên bát ngát, nhưng tầm nhìn sau lưng gã lại bị bức tường đá chắn mất. Gã bước ra ngoài, xoay người lại, phát hiện kiến trúc nơi này như một chiếc thùng thư khổng lồ, còn mình thì như vừa chui ra khỏi lỗ nhét thư. Lùi lại thêm mấy bước nữa, gã trông thấy một bức tường cao, lùi nữa, lủi nữa... lùi một mạch ra đến tận thảo nguyên, giẫm chân lên thảm cỏ mềm mại, gã mới nhìn rõ toàn bộ diện mạo của nơi này. Đó là một kiến trúc thoạt trông như thể viên lâm của hoàng gia, có tường cao vây quanh. Bức tường chạy dài miên man không thấy điểm cuối, những viên gạch khổng lồ màu đen xám loang lổ xếp thành vô số hình tượng phong cách mosaic, dây leo quấn chằng chịt quanh mương dẫn nước trên cao. Những cột đá cao to chống đỡ cho hành lang chìa ra phía ngoài thoạt nhìn như một sạn đạo cheo leo lưng chừng núi.
Tường thành cao lớn chắc chắn, có vô số cửa sổ to như ô cầu vòm, những bậc thang dài thoai thoải dần lên cao, trên bậc thang cuối cùng sừng sững một cánh cửa nguy nga. Ngoài tường thành rải rác vài kiến trúc nhỏ, có chỗ như rừng tháp sau các chùa chiền, có cái như nắp quan tài, cũng có kiến trúc giống ngôi miếu nhỏ hay thần điện Hy Lạp cổ đại, Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ gặp quần thể kiến trúc nào quái dị đến thế, nhưng những bức bích họa khổng lồ trên tường thành kia thì gã nhận ra khá nhiều. Phần lớn các bức tranh bắt nguồn từ thần thoại Ấn Độ cổ: Brahma nhảy múa, Shiva cầm kiếm, vô số Thiên nữ, Thiên phi vây quanh. Ngoài ra, còn có rất nhiều thần linh của Bản giáo cổ đại. Phong cách hội họa này rất giống các tranh tượng bọn gã thấy trong Đảo Huyền Không tự.
Trác Mộc Cường Ba không khỏi hít sâu một hơi, thầm nhủ: “Lẽ nào mình đã đến nơi rồi?” Có điều tòa thành lại mang đến cho gã một cảm giác rất quái dị. Nơi này hoàn toàn không giống thánh địa được miêu tả trong các loại điển tịch, mà như một công trường đang thi công dở dang thì bị bỏ hoang. Dường như, cổ nhân từ nghìn năm trước đang xây dựng một tòa thành hoặc một kiến trúc vĩ đại nào đó, chưa hoàn công thì đã từ bỏ, khí thế tuy hùng vĩ nguy nga thực đấy, nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp tàn khuyết mà tang thương, mà dùng cụm từ “vườn Địa đàng bị bỏ quên” để hình dung nơi này có lẽ là chính xác nhất.
Sói Hai và Sói Út cũng chui ra, ngửa mặt nhìn trời xanh mây trắng, hú lên một tiếng khoan khoái, chạy vù tới chỗ bậc thang đá leo tót lên, tiếng hú còn văng vẳng trong không trung, phảng phất như đang nhấn đi nhấn lại: “Trở về rồi, trở về rồi, trở về rồi...”
Trác Mộc Cường Ba cũng theo hai anh em sói xám bước lên cầu thang. Đi được nửa đường, gã ngoảng đầu đưa mắt nhìn lại hướng mình vừa đến, chỉ thấy thảm cỏ xanh trải dài đến tận chân núi, mây mù sương khói mờ mịt. Ở cuối chân trời là một bức tường mây trắng dày đặc, càng gần mặt đất tầng mây càng dày hơn, nặng như chì. Phải chăng, xuất phát điểm của bọn gã chính là từ trong tầng mây ấy? Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra khái niệm hệ thống tuần hoàn khí lưu mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến. Lẽ nào chính là hệ thống tuần hoàn khí lưu đã khiến sương mù trong không khí hình thành một vòng vây, tựa như một cơn bão bao quanh toàn bộ vùng đất Shangri-la, còn ở vùng tâm bão trái lại không có sương mù, nên mới thấy được trời xanh? Hoặc giả, hãy còn nguyên nhân gì khác?
Còn một điểm nữa khiến Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu là nơi đây thực sự rất nóng, cảm giác oi bức như gã đang ở giữa rừng rậm nhiệt đới vậy. Chỗ này chẳng phải ở độ cao sáu bảy nghìn mét so với mực nước biển hay sao? Nhưng khi mang theo nghi vấn ấy lên đến cái cổng khổng lồ phía trên, gã cảm thấy mình đã tìm thấy đáp án. Bên trong bức tường thành khổng lồ không ngờ là một hồ nước lớn, nước hồ phản chiếu nền trời xanh, gờn gợn những vảy vàng lấp lánh. Mặt hồ, từ giữa ra đến ven bờ, lần lượt hiện lên các màu lam, vàng, lục và xanh biếc, chẳng những vậy, thoạt nhìn đã biết ngay là một hồ nước nhân tạo. Hồ hình tròn, những đường kênh dẫn nước tỏa từ tâm ra khắp bốn phương tám hướng, kết cấu rất giống thôn Công Bố ở tầng dưới, các công trình kiến trúc dành cho dân cư nằm ở khu vực hình rẻ quạt.
Sở dĩ Trác Mộc Cường Ba cho rằng mình tìm thấy đáp án, là bởi từ xa gã đã trông thấy mặt hồ bốc lên những làn khí nóng mỏng mảnh. Sói Hai và Sói Út đã chạy đến bên cạnh một dòng kênh khoan khoái vục mõm xuống uống nước. Trác Mộc Cường Ba thử kiểm tra nhiệt độ nước, thấy hơi rát tay, nhưng cũng không đến nỗi không thể ngâm mình xuống được. Nhiệt độ nước vào khoảng 450C, thoang thoảng có mùi lưu huỳnh. Địa nhiệt, đúng như những gì gã và bọn Nhạc Dương đã thảo luận trong rừng rậm Amazon, nguồn gốc của nhiệt lượng ở nơi này, chính là địa nhiệt!
Người Qua Ba đã dẫn nước tan chảy trên núi tuyết vào cái hồ nhân tạo này, sau đó, không hiểu họ dùng cách gì để lợi dụng địa nhiệt làm tăng nhiệt độ của nước, đồng thời giữ ở mức xấp xỉ 450C. Nơi này kẹp giữa hai ngọn núi lớn, về cơ bản là một không gian kín, vì vậy toàn bộ Shangri-la đều được hun nóng, giống như ở trong phòng tắm hơi vậy. Nhờ hơi nóng ấy, một khu vực khí hậu riêng đã dần hình thành, tạo thành vòng tuần hoàn khí lưu trên tầng bình đài thứ ba, ngăn cản không khí lạnh bên ngoài ùa vào. Đồng thời, các khí thể độc hại cũng theo hơi nóng bốc ra ngoài, ôxy được hút vào bên trong, giữ cho bầu không khí luôn thanh tân tươi mới. Trác Mộc Cường Ba hiểu, ở những chỗ mình chưa đặt chân đến, nhất định vẫn còn các kiến trúc hùng vĩ khác, muốn tạo ra cả một vùng khí hậu như vậy, tuyệt đối không phải một việc dễ dàng mà thực hiện được.
Sói Hai và Sói Út không nghĩ ngợi nhiều như Trác Mộc Cường Ba, bọn chúng cẩn thận thử nhiệt độ nước, chầm chậm dầm mình xuống, rồi từ từ bơi lội nhẹ nhàng trong làn nước. Sau hành trình bôn ba vất vả qua vùng băng giá, tắm nước nóng một cái, thực sự cũng khá dễ chịu. Sói Út táp táp chân trước làm bắn lên những đóa hoa nước nhỏ, ý chừng muốn rủ Trác Mộc Cường Ba cùng xuống nước đùa chơi với nó.
Lúc mới xuống, nước hơi nóng rát, nhưng chẳng bao lâu sau gã đã thích ứng được. Một điều khiến Trác Mộc Cường Ba hết sức kinh ngạc là, trong hồ nước nóng giữa vùng núi tuyết này, không ngờ lại có những con cá nhỏ bơi lội tung tăng và cả một loài thực vật màu xanh lục không biết tên. Chính kỳ tích khó tin của sự sống ấy, đã khiến hồ nước nóng đến 450C này tràn đầy sức sống.
Ngâm mình trong làn nước ấm áp, ngửa đầu đếm những sợi mây trên bầu không xanh thăm thẳm, so với lúc trước phải đội gió đạp tuyết đi trong sương mù mờ mịt, thật không khác nào thiên đường với địa ngục. Trác Mộc Cường Ba duỗi cả tứ chi, nằm ngửa trong làn nước, chẳng muốn nhúc nhích gì nữa.
Chẳng rõ ngâm mình dưới nước được bao lâu, mọi mệt mỏi trong người đều đã tan biến, Trác Mộc Cường Ba mới đứng dậy. Chỉ thấy kênh dẫn nước hình tròn đó dường như được thiết kế theo đường trôn ốc từ trên xuống dưới, dòng chảy tuôn trào, hoa nước bắn tung. Còn gã, khi đứng dưới nước, ngước mắt lên nhìn những căn nhà dân tạo hình kỳ dị nhưng lại theo một quy cách thống nhất, chợt có cảm giác như thể mình đang ở vùng sông nước Giang Nam, phong cảnh nên thơ như họa. Chỉ là... làn gió ấm thổi qua, lại mang đến một hơi thở xa xăm cổ lão.
Trác Mộc Cường Ba men theo con đường nhỏ, đi từ căn nhà này sang căn nhà khác. Kiểu dáng của các kiến trúc ấy vẫn giữ được khá hoàn hảo, dù cũng có khá nhiều căn bị mưa gió bào mòn hay cây cối mọc lên phá hoại, nhưng đại đa số đều là các căn nhà hoàn chỉnh. Chỉ có điều, người ở đây đâu hết cả rồi?
Trác Mộc Cường Ba đang định bước vào một căn nhà thì bị Sói Út chắn phía trước mặt, miệng nó gầm gừ: “Không được vào đó.”
Trác Mộc Cường Ba thân với Sói Út nhất, nghe tiếng kêu cảnh báo ấy của nó, gã liền ngồi xổm xuống, nâng cằm Sói Út lên nói: “Không vào được à? Bên trong có thứ gì đó bất lợi cho tao, đúng không?”
Sói Út nửa hiểu nửa không, gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba cũng khẽ gật đầu nói: “Tao biết rồi.” Gã bèn từ bỏ ý định vào nhà, chỉ đứng ngoài cửa quan sát. Đồ đạc bên trong vẫn còn nguyên vẹn hoàn hảo, làm gã càng thêm nghi hoặc. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, khiến cho tòa thành khổng lồ này trở nên vườn không nhà trống, tĩnh lặng như một vùng đất chết thế này!
Đi giữa con đường vắng tanh, nghe tiếng nước chảy rào rào, nhìn những cây cầu nhỏ bắc qua kênh dẫn nước, bức tường cao xây bằng đá xanh, trong lòng Trác Mộc Cường Ba bất chợt dấy lên một tia sợ hãi.
Nhện giăng tơ trong góc tường, các loài sinh vật nhỏ giống như chuột, thỏ hay thằn lằn luồn lách vun vút như thoi đưa. Chỉ là, không có người... không có một người nào... tòa thành trống rỗng yên tĩnh một cách bất thường. Gã thậm chí còn không phát hiện ra một bộ xương khô nào cả. Thế nhưng, những kiến trúc được bảo tồn hoàn chỉnh kia lại tựa như đang rủ rỉ kể với gã, một người khách xa lạ, về sự phồn vinh của nơi này trong một quá khứ không quá xa xôi.
Phía trên những căn nhà, đều là các bức tượng với tạo hình khác nhau, có tượng tiên nữ tà áo tung bay, có tượng Kim Cương nộ mục trừng mắt nhìn khắp tứ phương, có tượng thú lành đạp mây bay đến, có nhà lại chạm khắc một lũ tiểu quỷ bò khắp trên tường. Những hình tượng ấy hoặc lớn hoặc nhỏ, thảy đều sống động như thật. Trước cửa, bốn vách tường, ngay cả dưới hàng hiên cũng treo từng chuỗi từng chuỗi tiểu quỷ trông như chùm nho chín.
Đây là kiến trúc thời kỳ nào? Quần thể kiến trúc hình tròn này được thiết kế dựa trên tư tưởng của thời kỳ nào? Ai đã kiến tạo nên chúng? Chủ nhân nơi này đã đi đâu mất rồi? Trác Mộc Cường Ba ôm đầy bụng nghi vấn, thở dài một tiếng, khoảng mười phút sau, gã bỗng chợt nghe thấy một tiếng thở dài khác.
Gã nghi hoặc dừng bước chân thầm nhủ, “Lẽ nào nơi này có người?”
Bỗng nhiên, Sói Út đi bên cạnh gã ngửa mặt hú một tiếng dài. Mấy phút sau, hình như đâu đó phía sau lưng gã lại vang lên tiếng hú của Sói Út. Con sói nhe răng, nhìn Trác Mộc Cường Ba cười khùng khục đắc ý, như đang nói: “Thần kỳ không.”
Thì ra, trong quần thể kiến trúc hình cung này đã hình thành nên một thứ tương tự như vách phản âm, âm thanh vang lên, không hiểu được chuyển hướng vòng vèo thế nào, lại từ phía sau vẳng trở lại. Đây là một sự vận dụng âm học của cổ nhân, Trác Mộc Cường Ba cũng chẳng có thời gian đâu mà tìm hiểu cho rõ ràng. Sói Hai khẽ kêu lên một tiếng cảnh báo: “Đi thôi, phải rời khỏi nơi này trước khi trời tối.”
Không biết đến tối ở đây sẽ có thứ gì xuất hiện, có lẽ là lũ gián khổng lồ kia chăng? Trác Mộc Cường Ba cũng không hơi đâu đi tìm hiểu, gã chỉ lấy làm lạ, nơi đây chỉ có tòa thành trống không, thoạt trông thì dường như đã từng có một độ phồn hoa đô hội, lẽ nào đây không phải Shangri-la? Gã thầm tính toán một hồi lâu, rồi mới phát ra tiếng hú, hỏi Sói Út: “Nhà còn cách đây xa không?” Sói Út nheo mắt nhìn về phía xa xăm, vầng tịch dương đã biến mất, nhưng sắc trời vẫn một màu xanh lam thăm thẳm, ráng mây cuối trời đỏ ối như ngọn lửa: “Hẵng còn xa lắm.”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn lại đám mây dày đặc bao phủ khoảng không gian này, nơi bị sương mù dày đặc che phủ phía đằng kia, lúc này hẳn đã chìm vào bóng tối rồi chứ nhỉ?
Trên thảo nguyên, các chủng loại sinh vật dần trở nên phong phú đa dạng hơn. Không lâu sau, Sói Hai và Sói Út cắp về vài sinh vật có sừng, trông khá giống con thỏ, cả bọn ăn no rồi lấy đất làm giường, trời làm chăn, ngửa mặt nhìn mây trôi lãng đãng, dòng sông Ngân từ từ hiện lên trên bầu không lồng lộng. Bầu trời tựa như một mái vòm khổng lồ, bao trùm lên tất thảy, cảm giác mênh mông vươn ra khắp bốn phương tám hướng, dòng suy nghĩ của Trác Mộc Cường Ba dường như cũng bay vút ra ngoài xa nghìn dặm.
Bọn Trác Mộc Cường Ba lại đi thêm hai ngày nữa, cỏ dưới chân ngày một um tùm tươi tốt, cây cối bắt đầu mọc san sát thành rừng. Từ thảo nguyên, gã đi vào rừng rậm, những gốc cây khổng lồ che kín cả ánh mặt trời, cành lá thân rễ chằng chịt quấn vào nhau như bầy quái thú đang không ngừng vật lộn. Sói Hai và Sói Út chỉ cần rùn mình một chút là có thể dễ dàng chui qua khe hở giữa những thân cây, chỉ khổ cho Trác Mộc Cường Ba, muốn chen qua những chỗ cây lá rậm rạp thì phải lách người thật khéo, hoặc phải leo lên trèo xuống một hồi. Cứ đi mãi đi mãi, cuối cùng gã cũng trông thấy tòa thành thứ hai... Hay đó là một ngôi miếu?
Ngôi miếu lớn quá! Trác Mộc Cường Ba đứng trên ngọn một cây cổ thụ khổng lồ, từ đằng xa chỉ trông thấy những đường ngang dọc giao nhau giữa trời đất, bố cục tựa như bàn cờ. Lại gần hơn, gã mới phát hiện những đường vạch ấy hết sức vuông vắn, quây thành vô số hình chữ nhật đồng tâm dạng chữ “hồi”(1); đến gần hơn nữa, khi chui ra khỏi hàng cây rậm rạp cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn thấy toàn bộ diện mạo của những đường vạch ấy.
Chính giữa khu rừng, xuất hiện một cái hồ vuông vức. Chu vi hồ phải dài mấy cây số. Giữa hồ chính là ngôi miếu đó! Những đường vạch ngang dọc mà gã nhìn thấy lúc nãy đều là tường bao của ngôi miếu, hoặc từng hàng từng hàng tháp cao như những cây thông mọc san sát nhau tạo thành. Trác Mộc Cường Ba đứng ở rìa hồ nước, nhìn ngôi miếu, trong lòng trào lên một thứ cảm giác không chân thực, tựa như đó không phải là thứ thuộc về cõi nhân gian vậy.
Mầu nhiệm ở chỗ, cái hồ nước nhân tạo này được đánh bóng mài nhẵn gần như tuyệt đối. Mặt nước không lăn tăn dù chỉ một gợn sóng, trông như mặt gương. Nhìn xuống mặt hồ, có thể thấy rõ ràng mây trắng trên trời đang chầm chậm trôi qua trong làn nước, bởi thế, thoáng nhìn qua, ngôi miếu ở giữa hồ như thể đang trôi nổi bập bềnh trên không trung.
Toàn bộ con đường nhỏ thông đến ngôi miếu đều được chạm khắc thành hình dạng như lá sen, bước lên trên đó, cảm giác như chuồn chuồn điểm nước vậy. Không hiểu mặt nước hồ ấy phẳng lặng đến độ nào, mà lúc Trác Mộc Cường Ba bước trên những lá sen nhân tạo, lại có cảm giác hoa mắt chóng mặt, chỉ sợ bước hụt một bước là sẽ sẩy chân rơi xuống cõi phàm trần.
Sói Hai và Sói Út dường như không có thứ ảo giác ấy, vẫn có thể nhảy nhót đùa nghịch trên những lá sen, chạy một mạch sang phía cuối đường.
Rốt cuộc Trác Mộc Cường Ba cũng bước đến thềm phía trước của ngôi miếu, để rồi lại thêm một lần nữa bị cảnh tượng trước mắt làm cho chấn động hoàn toàn. Ngôi miếu này, không ngờ lại được cấu thành từ muôn vạn tượng Phật, tượng ác quỷ... Có thể hình dung thế này, cổ nhân đã dùng những bức tượng hết sức sinh động với muôn vàn tư thái khác nhau làm gạch làm ngói để xây dựng nên ngôi miếu; hoặc giả, người xưa đã đẽo gọt cả ngọn núi thành một hình lập phương khổng lồ, rồi từ hình lập phương ấy lại đục ra hình dạng đại thể của ngôi miếu, cuối cùng, mới chạm trổ, điêu khắc mái hiên, hành lang, xà, cột, tường, cửa, bậu cửa, cửa sổ, bậc cấp, lan can... của ngôi miếu ấy thành vô số tượng thần Phật và ác quỷ. Nhìn xa xa cứ ngỡ mặt tường bằng phẳng, lại gần mới thấy chỗ lồi chỗ lõm, bởi những bức tường ấy toàn bộ đều do những bức tượng nhỏ bằng lòng bàn tay chen vai thích cánh xếp chồng lên nhau tạo thành. Số lượng tượng trong cả ngôi miếu này, e rằng phải lên đến con số triệu, quả là một công trình vĩ đại!
Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ vuốt nhè nhẹ lên những bức tượng nhỏ. Tượng thần, tượng ác quỷ, tượng Phật, tượng chim bay thú chạy, côn trùng sâu kiến, lại có cả cây cối hoa lá, dường như hết thảy mọi sinh mạng có tồn tại hay không tồn tại trên cõi thế gian đều được điêu khắc cả trong ngôi miếu rồi vậy. Những bức tượng nhỏ này chính là cơ sở để tạo nên những kiến trúc lớn hơn. Mấy trăm nghìn tượng nhỏ đứng chen chúc chồng lên nhau, tổ hợp lại thành một tượng Phật khổng lồ; mấy trăm nghìn tượng nhỏ khác, ghép lại thành ký hiệu văn tự khổng lồ nổi trên mặt tường; những rừng tháp kia, cũng do mấy trăm mấy trăm nghìn bức tượng nhỏ chồng lên nhau mà thành; đến cả nền đá xanh dưới chân gã, cũng được điêu tạc thành hình tượng biển dục, có ức vạn tượng người nhỏ giơ tay gào thét giữa biển dục, vùng vẫy muốn thoát ra khỏi đó. Nếu ngồi xuống xem kỹ, liền thấy rõ nét mặt khác nhau của mỗi bức tượng: hoặc phẫn nộ, hoặc tuyệt vọng, hoặc bi thương, hoặc cuồng loạn... Hai chân Trác Mộc Cường Ba giẫm lên biển dục vọng, mỗi lần nhấc chân lên đặt chân xuống, đều có mấy chục người nhỏ giơ cao cánh tay, đau đớn kêu gào. Ngước mắt nhìn lên trên, gã liền trông thấy đỉnh vòm, có vô số tiên nữ đang trút bi thương trụy lạc xuống nhân gian, những ống tay áo của họ vung lên tựa như muốn bám lấy những áng mây hờ hững trôi trên không trung, nhưng chỉ uổng công vô ích. Còn trên bốn vách tường, lại là những tượng Phật đầu đội vòng hào quang, biểu hiện trên mặt giống nhau một cách dị thường, trong những ánh mắt ấy, chừng như chứa đựng lòng từ, lẫn cả nét nghiêm nghị lạnh lùng, như thể cảm thấy bi thương cho nhân loại, song cũng tức giận thay cho sự đớn hèn không tranh đấu của họ. Nhìn lướt qua một lượt, Trác Mộc Cường Ba chợt có cảm giác nặng nề đè nén, “Những ánh mắt ấy, dường như đều toát lên một niềm u uất khó tả thành lời!”
Giẫm đạp lên đám người đau đớn vật vã giữa biển dục, đi xuyên qua những vị thần minh cúi nhìn chúng sinh, Trác Mộc Cường Ba tiến vào bên trong bức tường. Gã lập tức có một cảm giác hoàn toàn khác biệt!
Tĩnh! Thích nghĩa ảo diệu nhất của Thiền trong Phật đạo.
Ngôi miếu vuông vắn cấu tạo từ những bức tượng nhỏ bằng bàn tay này, không ngờ lại yên tĩnh đến thế, không có một âm thanh nhỏ nào. Trác Mộc Cường Ba nín thở, chăm chú lắng nghe, nhưng vẫn không phát hiện ra bất cứ âm thanh nào; tiếng động duy nhất ở nơi đây chính là do bọn họ mang đến: tiếng chân của gã, của lũ sói, tiếng thở của gã, tiếng thở của sói... Không chỉ là yên tĩnh, Trác Mộc Cường Ba có cảm giác như mình đã đến một thế giới khác, một thế giới bị niêm phong trong khối thủy tinh trong suốt. Dường như, một khối lập phương hình thành từ khí ôxy bao bọc trọn lấy tòa kiến trúc, chính hơi thở của gã đã làm rối loạn sự lưu động của không khí nơi đây, bằng không, tất thảy mọi thứ chắc hẳn đều vẫn ở trong trạng thái tĩnh tại.
Mặt nước phẳng lặng, như một tấm gương lưu ly sáng bóng; không khí đứng yên, dưỡng khí nồng đậm đến độ chừng như đã hóa thành thực thể, Trác Mộc Cường Ba có thể cảm nhận một cách rõ ràng những luồng khí chảy vào lồng ngực, tuôn vào phổi, rồi hóa thành muôn ngàn sợi tơ tản đi khắp tứ chi bách cốt. Một chiếc lá rụng xuống, nhưng không xoay vòng vòng trên không trung như bị gió thổi rơi, mà chỉ nhẹ nhàng rơi thẳng xuống. Nếu chăm chú nhìn xuống nước, sẽ thấy một chiếc lá dưới đáy nước chầm chậm nổi lên.
Sau khi phát hiện mọi thứ ở nơi này dường như đều im lìm bất động, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn lại những bức tượng đủ tư thái kỳ dị trên bốn vách tường và dưới sàn, trong lòng lập tức cảm thấy dường như có một dòng điện chạy đi khắp cơ thể. Những bức tượng vốn đã cố định hình thái, lẽ ra phải tĩnh tại thì lại dường như đang chuyển động! Những chúng sinh trong biển dục, phảng phất như đang thực sự sục sôi vùng vẫy, quay cuồng giẫm đạp lên nhau giữa biển máu, hết đợt này đến đợt khác ùa lên, dường như muốn đeo bám leo lên gót chân gã; thần Phật trên bốn bức vách thì chầm chậm tiến lên dọc theo hành lang như nước chảy mây trôi, ánh mắt hờ hững như thể mọi thứ đều chẳng hề liên quan đến mình, có vẻ như họ đang hành hương về cõi thánh, hoặc muốn rời xa cõi phàm tục đầy rẫy những tranh chấp này; tiên nữ trên trời mặc dầu không mệt mỏi cố gắng bay lên, song vẫn chầm chậm rơi xuống biển dục bên dưới với một tốc độ khiến người ta phát rầu vì sốt ruột.
Cảm giác ấy thật khó tả, tựa như gã là một tồn tại đã thoát ra ngoài tam giới, đang ở trên cao nhìn xuống quan sát muôn nghìn chúng sinh, thần Phật đều quy về một tay, vũ trụ nằm trong lồng ngực. Chỉ có điều, cảm giác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba cực kỳ khó chịu, gã biết, cổ nhân phải nắm bắt và vận dụng các hiện tượng âm thanh, ánh sáng, không khí, thị giác đến trình độ cực cao mới có thể tạo ra thứ ảo giác khiến người ta thấy mình đã siêu việt hết thảy thần Phật, trong tay nắm giữ cả vũ trụ như thế. Cả đời Trác Mộc Cường Ba, chưa bao giờ gặp qua kiến trúc nào giống ngôi miếu này. Đồng thời, thứ cảm giác siêu thoát ngoại vật này, không hề khiến cho gã phiêu bồng lâng lâng, mà chỉ thấy một nỗi sợ hãi khôn cùng. Trong mắt Trác Mộc Cường Ba, đây là một ngôi miếu ma quỷ, ẩn giấu vô số điều kỳ dị bên trong lớp vỏ ngoài hùng vĩ ngút trời. Gã không sao chịu đựng nổi nữa, thậm chí không xem hết cả quảng trường đầu tiên và chính điện, đã gọi hai anh em sói xám vội vã rời đi.
Khi Trác Mộc Cường Ba đang loanh quanh trong các thành bang bị bỏ hoang phế của Shangri-la, thì bọn Merkin cũng đã đến được mép tầng bình đài thứ ba. Không như Trác Mộc Cường Ba có Sói Hai và Sói Út dẫn đường đi xuống thông đạo ngầm dưới lòng đất, bọn y phải men theo mép bình đài mà lần mò tiến lên phía trước.
Ngày hôm đó, cả bọn vẫn xếp đội hình hành quân giữa một vùng băng tuyết mênh mông, đột nhiên phát hiện ra phía trước có mây mù mờ mịt. Lúc đầu, trong khoảng năm chục mét vẫn còn thấy thấp thoáng bóng người, nhưng càng đi tiếp, tầm nhìn xa rút xuống chỉ còn chưa đầy mười mét; tiếp tục tiến lên, hơi mù lại càng lúc càng dày đặc, chỉ thấy một vùng trắng xóa, như thể cả bọn đang len vào giữa một đống sợi bông khổng lồ, thậm chí giơ thẳng cánh tay ra là đã không thấy mười ngón đâu.
Merkin vừa hạ lệnh cho cả đám chuyển sang chế độ quan sát hồng ngoại, chợt nghe bọn lính đánh thuê hét lên ầm ĩ, dường như đã phát hiện ra điều gì đó. Y và Soares cũng lần lượt lấy mũ đội lên, chuyển đổi chế độ quan sát.
“Đó là gì vậy, ông chủ, chúng ta đến núi lửa rồi ạ?” Max đi bên cạnh kêu toáng lên.
Nhìn qua mắt kính hồng ngoại gắn trên mũ, Merkin thấy rất rõ ràng, cách bọn họ chưa đầy hai trăm mét, dường như có mấy chục con quái thú đang phun ra những luồng khí nóng đỏ hừng hực như lưỡi lửa.
“Hay quá, chúng ta đến rồi, cuối cùng cũng đến nơi rồi.” Merkin mừng rỡ reo ầm lên, cũng chẳng buồn để ý đến hình tượng uy nghiêm của mình nữa. Đám lính đánh thuê nghe được tin tức ấy, cũng lập tức hoan hô vang dội. Có mấy tên nóng nảy đã bất chấp tất thảy lao lên phía trước, liền bị Merkin gọi giật lại.
“Ở đây à?” Soares hỏi: “Phía trước là gì thế?”
Merkin đáp: “Trong nửa quyển sau của Cổ Cách kim thư có chép rằng, muốn đến được Bạc Ba La thần miếu, trước tiên phải đến Bức Tường Than Thở đã. Theo những ghi chép đó, bức tường ấy dày mấy nghìn thước, bên trong có lỗ, nuốt mây nhả mù, như là có người đang than vắn thở dài, vậy nên mới có tên là Bức Tường Than Thở. Bức tường này không chỉ ngăn cách Bạc Ba La thần miếu với thế giới bên ngoài, mà còn khiến cả tầng bình đài thứ ba này bao bọc trong sương mù nữa.”
“Nuốt mây nhả mù? Ý anh là, sương mù khắp tầng bình đài thứ ba này, đều bắt nguồn từ đây sao?” Soares lấy làm khó hiểu.
Merkin bèn gỡ chiếc mũ trên đầu xuống, dẫn Soares lùi lại chừng trăm mét, chỉ tay ra phía trước nói: “Anh nhìn mây mù kia, thấy có gì khác biệt không?”
Soares dõi mắt nhìn ra phía trước, quả nhiên, tuy bọn y đang ở giữa một vùng sương mù trắng xóa mênh mang, nhưng sương mù ở phía trước lại như khói trắng tỏa ra từ những nhà xưởng lớn, ngùn ngụt không ngớt, cuồn cuộn điệp trùng như đã hóa thành thực thể. Sương khói phun trào ra như lũ xả qua đập, bốc lên cao mấy trăm mét, rồi tỏa lan đi khắp cả tầng bình đài, tràn về phía bọn y. Thật không ngờ, sương mù che phủ khắp cả một vùng không gian rộng lớn này, lại do con người tạo ra!
Soares phóng tầm mắt ra xa hơn, chỉ thấy biển mây mù trào dâng liên miên bất tuyệt, phỏng chừng Bức Tường Than Thở đã chặn ngang cả tầng bình đài thứ ba, tạo ra hiệu quả thần kỳ như thế. Trước khi tới đây, Soares vẫn luôn nghĩ rằng, sương khói mây mù là những hiện tượng thần kỳ chỉ thiên nhiên vĩ đại mới sở hữu, thật chẳng ngờ hôm nay lại có thể thấy được sương mù nhân tạo! Đây không phải chỉ là những cột khói nhỏ bé bốc lên từ các nhà máy, mà là sương mù dày đặc che phủ diện tích khổng lồ lên đến mấy trăm cây số vuông!
“Làm... làm sao có thể...?” Nếu ở Đảo Huyền Không tự, Soares còn có thể nhận định đó là kỳ quan nhân tạo, nhưng còn màn sương khói mù mịt khắp đất trời này thì y thực sự không hiểu nổi, bằng cách nào mà cổ nhân có thể tạo ra hiệu quả kinh người đến thế, huống hồ lại kéo dài đến cả nghìn năm vẫn không dứt.
Merkin nghiêm nghị nói: “Trước đây, tôi cũng nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra lời giải đáp. Sau này, nghe Ba Tang nói bọn hắn đã đến một nơi giống như rừng rậm nhiệt đới, tôi mới có một chút liên tưởng, thêm vào địa mạo núi lửa nguyên thủy ở nơi này, có thể nói, suy nghĩ của tôi đã được chứng thực.”
“Đừng vòng vo tam quốc nữa, mau nói suy nghĩ của anh ra đi.” Soares đã hơi sốt ruột.
Merkin thong dong giải thích: “Bạc Ba La thần miếu và các thành bang nằm rải rác xung quanh nó được xây dựng trên một ngọn núi lửa đang hoạt động, có lẽ là một ngọn núi lửa cổ đã có từ trăm triệu năm trước, thuở trái đất mới hình thành. Nghìn năm trước, nó vẫn phun trào dung nham một cách không định kỳ. Những người Qua Ba kia chọn nơi này để xây dựng thần miếu, chính là để lợi dụng năng lượng thiên nhiên của núi lửa, sử dụng hơi nóng của nham thạch nóng chảy trong lòng đất. Bức Tường Than Thở kia, ngăn cách Bạc Ba La thần miếu với thế giới bên ngoài, hình thành nên một không gian độc lập, cũng giống như chúng ta xây nhà rồi lắp máy điều hòa nhiệt độ trong phòng vậy thôi. Nhiệt độ bên ngoài có thể xuống đến mấy chục độ âm, nhưng trong nhà lại vẫn ấm áp, giữ ở mức 300C. Chỉ có điều, gian phòng này rất lớn, diện tích phải tính bằng đơn vị hàng trăm cây số vuông. Đây chính là kỳ tích do người Qua Ba sáng tạo nên! Họ đã lợi dụng hoàn cảnh địa lý độc đáo cùng với nguồn năng lượng kỳ lạ, tạo lập nên một kỳ tích mà đám người đang sống trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như chúng ta đây cũng không dám tưởng tượng đến! Họ đã dùng sức người, để thay đổi môi trường tự nhiên của cả một khu vực rộng mấy trăm cây số vuông đấy!”
Merkin vung tay chỉ ra, giọng nói vang vang mạnh mẽ: “Những cái lỗ trên Bức Tường Than Thở kia, có lẽ chính là lỗ thoát khí của những cỗ máy cỡ lớn đang hoạt động dưới lòng đất sâu mấy nghìn mét, chúng phun ra những luồng khí nhiệt độ cực cao, sau khi va chạm với không khí nhiệt độ cực thấp bên ngoài, liền tạo nên một màn sương mù dày đặc. Người Qua Ba không bao giờ bỏ qua bất cứ tài nguyên nào có thể lợi dụng. Bức tường này nhất định đã được thiết kế sẵn từ trước rồi. Sương mù phun ra vừa khéo bao bọc toàn bộ Bạc Ba La thần miếu và các thành bang vệ tinh của nó.”
“Nhưng mà, nó đã hoạt động suốt một nghìn năm rồi?” Soares vẫn không thể tin nổi, tạo ra một cái máy điều hòa không khí có thể thay đổi nhiệt độ của cả khu vực rộng mấy trăm cây số vuông, trí tuệ của cổ nhân từ một nghìn năm trước là vậy ư?
“Anh có biết tại sao không thể chế tạo được động cơ vĩnh cửu không?” Merkin đột nhiên hỏi, rồi lại tự mình giải đáp: “Bởi vì năng lượng luôn tiêu hao, vả lại không thể sinh ra từ cõi hư vô được. Cùng với sự phát triển không ngừng của máy móc tự động hóa, những phần phụ tùng tiêu hao hư tổn đều có thể dùng máy móc tự động thay thế, vậy thì, động cơ vĩnh cửu chỉ còn cần một nguồn năng lượng vĩnh cửu nữa mà thôi. Mà trên thực tế, thiên nhiên đã cung cấp cho chúng ta vô số nguồn năng lượng gần như vĩnh cửu rồi: ánh sáng mặt trời, thủy triều, nước, gió, chỉ cần lợi dụng một cách thích đáng những nguồn năng lượng ấy, việc tạo ra một động cơ vĩnh cửu cũng là điều khả thi thôi. Người bộ tộc Qua Ba chính là đã lợi dụng năng lượng của núi lửa. Một nghìn năm nay, núi lửa không tắt, cỗ máy đó cũng hoạt động không ngừng, cho dù không có người thao tác, nó cũng sẽ tiếp tục hoạt động cho đến khi tất cả phụ tùng linh kiện đều hao mòn hư tổn đến mức không thể sử dụng nữa mới thôi. Đó chính là trí tuệ của cổ nhân từ nghìn năm trước, thật may mắn là trí tuệ ấy đã bị chiến tranh vùi lấp, bằng không, tôi thật không dám tưởng tượng trình độ phát triển của phương Đông ngày nay sẽ như thế nào nữa!”
“Nếu bức tường ấy phun ra các luồng khí nhiệt độ cực cao như thế, chúng ta làm sao vượt qua được?” Sau khi nghe Merkin cảm khái một hồi, Soares lại nghĩ đến một vấn đề khác.
“Yên tâm, sẽ có lúc nó tạm dừng lại. Căng rồi lại chùng, chùng rồi lại căng, đây chính là tư duy triết học truyền thống của Trung Quốc cổ đại, cũng chỉ có thế, những cỗ máy kia mới có thể hoạt động cả nghìn năm mà không hư hỏng.” Merkin tự tin đáp.
Merkin nói không sai, một lúc sau, luồng khí nóng ngùn ngụt dần dần lắng xuống. Đội ngũ lính đánh thuê của bọn y liền nhanh chóng tiến lên, sử dụng các công cụ hiện đại leo lên Bức Tường Than Thở. Bức tường thành dày đến cả trăm mét đó, có thể coi như một quảng trường lớn, đứng bên trên đưa mắt nhìn trong ngoài thành, thật đúng là hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Bên ngoài sương trắng mênh mang, còn bên trong lại là thảm cỏ xanh ngắt trải dài đến tận chân trời tít tắp. Nhìn sắc xanh ngút cả tầm mắt ấy, Merkin mỉm cười thốt lên: “Chúng ta... rốt cuộc cũng đến nơi rồi!”
Trên tường thành lập tức vang dội tiếng hoan hô, đám lính đánh thuê cũng tạm thời quên đi những bực bội tích tụ trong lòng. Dù là ai chăng nữa, sau mấy tháng đi giữa trời băng đất tuyết, đột nhiên trông thấy một ốc đảo xanh tươi ấm áp, tâm trạng cũng đều vui vẻ thoải mái vô cùng. Cả bọn lần lượt cởi bỏ mũ bảo hiểm trên đầu, há miệng hít hà bầu không khí thanh tân, cảm giác như thể chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là có thể trông thấy Bạc Ba La thần miếu rồi, thế nhưng, tất cả đều không hay biết, con đường phía trước vẫn còn xa xăm và gian khổ. Ở nơi đó, cái chết đang chờ đợi bọn chúng.
VƯƠNG QUỐC CỦA SÓI
Khi bọn Merkin đặt chân lên bức tường thành, trông thấy cảnh tượng xanh tươi mơn mởn bừng bừng sức sống thì Trác Mộc Cường Ba đang chầm chậm thả bước tản bộ ở một tòa thành khác. Những ngày này, gã đã thấy đủ các loại kiến trúc khác nhau, cơ hồ mỗi loại đều khiến gã phải kinh ngạc và thán phục mãi không thôi. Mỗi lần đều có những rung động mới, cuối cùng, sau khi trải qua rất nhiều rất nhiều rung động, gã bắt đầu thấy tê liệt trước những kiến trúc kỳ lạ ấy. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, mỗi một tòa thành hiện lên trước mắt mình đây, đều là độc nhất vô nhị, mỗi một công trình kiến trúc đều nằm ngoài tầm tưởng tượng của gã. Trong rừng rậm, có vô số loài sinh vật cổ quái, có khi Sói Hai và Sói Út sẽ chạy đi săn bắt làm thức ăn, cũng có lúc bọn chúng lại dẫn gã đi đường vòng để tránh né, thế nhưng... cả tầng bình đài này, trong mọi tòa thành mà bọn gã đi qua, đều không có bóng dáng con người! Một người cũng không! Mọi dấu tích chứng tỏ sự tồn tại của con người đều đã bị thời gian bào mòn, dần dà biến mất!
Từng tòa thành tinh chuẩn, đẹp đẽ tuyệt luân, những kiến trúc hình học hoàn mỹ, tựa hồ từ trên trời rơi xuống, giống như... giống như những thành bang Maya kia vậy, lặng lẽ nằm giữa rừng sâu, không biết đã trải qua mấy nghìn mấy vạn năm, chỉ đợi hậu nhân ở thế giới văn minh đến mà phát hiện, mà kinh hãi thán phục trước khả năng của tiền nhân.
Đi từ tòa thành này đến tòa thành khác, ngắm những công trình kiến trúc đẹp đẽ tuyệt trần nằm giữa cây rừng, bị dây leo quấn quanh chằng chịt, nhìn những loài động vật nhỏ không biết tên kết thành đàn làm tổ, chạy nhảy nô đùa khắp chốn trong thành, rõ ràng là có làn gió ấm thổi qua, song Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy lạnh lẽo thê lương khó tả. Trác Mộc Cường Ba bước theo dấu chân Sói Hai và Sói Út, quan sát vẻ phồn hoa ấy với thân phận của một người xa lạ, sâu thẳm trong lòng gã chợt dấy lên cảm giác cô độc thấu vào tâm can phế phủ. Gã đã tự hỏi mình không chỉ một lần, tại sao, tại sao lại không có người? Những người Qua Ba ấy, đã đi đâu rồi?
Dần dần, Trác Mộc Cường Ba phát hiện ra nhiều đầu mối hơn. Sói Hai và Sói Út không dẫn gã đi theo đường thẳng, mà vạch một đường vòng cung trong rừng rậm, cũng có nghĩa là, bọn họ vẫn luôn ở khu vục ngoại vi của vùng đất thần bí này. Nếu nói Shangri-la là một đồ thị phồn hoa, vậy thì những tòa thành gã đã đi qua, hẳn chính là các thành phố vệ tinh của nó. Người xưa đã đào kênh dẫn nước đọng trên núi tuyết xuống, tụ lại thành một đầm nước ngọt, sau đó xây dựng các khu dân cư xung quanh đầm nước này, kế đó lại dùng khu dân cư làm cơ sở, chất lên từng tầng từng tầng một, cuối cùng hình thành nên những thành thị lập thể kết cấu phức tạp, tạo hình mỗi nơi mỗi khác. Mỗi tòa thành lại có một phong cách khác nhau, người Qua Ba xưa phỏng chừng đang tiến hành một thí nghiệm, bọn họ... hình như dự định xây dựng một tòa thành tự động hóa cao độ, song lại có thể hòa nhập vào tự nhiên một cách hoàn mỹ nhất. Những tòa thành vệ tinh này chính là các vật mẫu của họ, vì vậy mới xuất hiện nhiều mô thức kiến trúc mang màu sắc tôn giáo, cơ khí hóa, tự nhiên hóa như thế.
Sau khi Sói Hai và Sói Út dẫn Trác Mộc Cường Ba tham quan xong tòa thành vệ tinh cuối cùng, bọn chúng lại theo đường cũ trở về. Trác Mộc Cường Ba để ý hành động của hai con sói, thấy chúng dừng lại rất ít, cơ hồ đang tránh né thứ gì đố. Gã níu Sói Út lại, chỉ tay vào điểm trung tâm đối ứng của đường vòng cung họ vừa đi qua, hỏi: “Nơi đó, có phải là nơi chúng ta sẽ đến không?”
Sói Út dường như bị gã dọa cho giật thót mình, nghển đầu lắc lắc, cảnh giác đảo mắt một vòng khắp bốn phía chung quanh rồi đột nhiên rón rén buớc đi, bộ dạng lén lút như chuột. Nó dẫn Trác Mộc Cường Ba đến dưới một gốc cây lớn, lật hòn đá ở gốc cây lên, lập tức có mùi nồng nặc xộc vào lỗ mũi. Trác Mộc Cuờng Ba ngây người, dĩ nhiên, gã biết đó là ký hiệu đánh dấu của lũ sói, phía trước dấu hiệu ấy là lãnh địa của một đàn sói khác. Chỉ là, mùi nồng như vậy, không hiểu rốt cuộc gia tộc sói này có bao nhiêu con?
Trác Mộc Cường Ba đã hiểu, chỉ cần bước qua đường đánh dấu vô hình này, bọn họ sẽ tiến vào lãnh địa của một đàn sói khác. Những ngày này, Sói Hai và Sói Út đã dẫn gã đi xuyên qua vùng đệm nằm giữa lãnh địa của các đàn sói khác nhau. Bọn họ chỉ là một nhóm lẻ cô độc, hai con sói không biết có được những đàn sói kia chấp nhận hay không, mà bài học của vô số lần thất bại trong quá khứ đã để lại trong chúng những dấu vết không thể xóa nhòa, chúng đã bị xua đuổi, bị lùa đến vùng đất cực hàn giá lạnh. Trác Mộc Cường Ba đồng thời cũng hiểu, gã chính là sói đầu đàn của chúng, nếu gã bước qua đường ranh giới này, Sói Hai và Sói út sẽ bước qua. Chỉ là, Sói Hai và Sói Út dường như không thể được đàn sói chấp nhận và tiếp nạp, bản thân gã liệu có thể làm được không? Gã đang do dự chưa đưa ra đưọc quyết định, thì Sói Hai từ phía sau tiến lên, phát ra mấy tiếng ngắn cảnh báo, có vẻ như họ đã bị thứ gì đó phát hiện rồi.
Trác Mộc Cường Ba vừa đứng thẳng người dậy, trong rừng liền vang lên tiếng sột soạt, một đàn chín con sói lừng lững xuất hiện ở phía bên kia đường ranh giới. Sói út ư ử họng, cúp cái đuôi xuống chỉ còn một nửa bước lên giao thiệp nhưng đối phương dường như chẳng buồn tiếp nhận lời chào hỏi của nó, phát ra tín hiệu chuẩn bị tấn công. Thấy không hiệu quả, Sói út liền lập tức chạy trở về, nấp sau lưng Trác Mộc Cường Ba, chỉ lộ ra nửa cái đầu, gác một chân trước lên chân Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang nói: “Đây là lão đại của tôi, có gì thì cứ tìm anh ấy.”
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt vũ khí trong tay, gã hoàn toàn không có lòng tin một lúc đối đầu với chín con sói, chỉ là trong chốn rừng rậm này, có chạy cũng không thoát khỏi lũ sói, phải làm sao đây? Gã bỗng nhớ ra món lợi khí duy nhất có thể đẩy lùi kẻ địch trong tay mình, cây sáo xương! Trác Mộc Cường Ba lập tức lấy ra, đặt lên môi, thổi khe khẽ...
Nào ngờ, lần này bọn sói lại không rút đi, mà chỉ châu đầu ghé tai vào nhau, ánh mắt thấp thoáng vẻ nghi hoặc. Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hơi cuống, lại thổi thêm một đợt nữa, đến lúc cảm thấy có người kéo kéo chiếc “váy da” của mình, gã mới ngoảnh đầu lại. Chỉ thấy Sói Hai đang chằm chằm nhìn gã, khẽ lắc đầu, tựa như muốn nhắc gã đừng thổi nữa.
Thủ lĩnh của đám chín con sói ấy đứng ra, khẽ rít lên một tiếng với bọn Trác Mộc Cường Ba. Câu này thì Trác Mộc Cường Ba hiểu được, đó là một lời mời, hoặc cũng có thể coi là mệnh lệnh: “Đi theo chúng ta.”
Trác Mộc Cường Ba còn đang do dự thì Sói Hai và Sói Út đã lộ vẻ xốn xang náo nức không thôi, không ngừng thúc giục gã tiến bước. Trác Mộc Cường Ba khẽ xoa đầu Sói Út, cảm nhận được khát vọng và quyết tâm về nhà của chúng, bấy giờ mới cất bước đi theo đàn sói kia.
Dọc đường, Sói Hai không ngừng lặp đi lặp lại một từ với con sói thủ lĩnh, theo lý giải của Trác Mộc Cường Ba, chắc từ ấy có hàm ý “thủ lĩnh” hoặc “lãnh đạo”, ngữ điệu toát lên vẻ kính sợ, chỉ khi một con sói có địa vị thấp đối thoại với một con sói địa vị cao hơn mới phát ra những âm thanh như thế. Nhưng trông thần sắc của chúng, kẻ được nhắc đến trong cuộc đàm luận rõ ràng không phải con sói đứng đầu đàn chín con này, còn nữa, rốt cuộc bọn chúng định dẫn gã đi đâu đây?
Vốn tưởng chỉ là một hành trình ngắn, không ngờ lại đi mất tận hai ngày trời, bọn Trác Mộc Cường Ba đã tiến sâu vào khu vực trung tâm rừng rậm, mọi thứ xung quanh đều gần như hoàn mỹ, trên đầu lá cây xanh mướt, trùng trùng điệp điệp; bên cạnh dây leo chằng chịt uốn lượn quanh co, cỏ cao ngang người; dưới chân, rễ cây cổ thụ ngoằn ngoèo đan thành lưới. Lũ côn trùng có cánh bay vo ve lượn lờ xuyên qua những khe hẹp giữa hoa lá cỏ cây, thi thoảng giữa tán lá cây rậm rạp có bóng dáng những con thú nhỏ nhanh nhẹn chạy vù qua; lũ kiến kết thành từng đàn, bận rộn chạy đi chạy lại trên những đám rêu và lá cây dày như đụn tuyết.
Hương hoa dìu dịu quẩn quanh, đâu đó ở những chỗ không thấy được trong rừng róc rách tiếng suối reo. Gió ấm thổi qua, cánh rừng gợn lên những đợt sóng lá rào rạt, trập trùng dâng lên hụp xuống, làm rớt ra những giọt sương trong nắng ban mai. Ánh mặt trời chiếu xạ qua nhiều tầng, tạo thành những đốm bông rực rỡ sắc màu, hạt sương đọng trên lá tỏa ra quầng sáng bảy màu như pha lê lấp lánh.
Trác Mộc Cường Ba giẫm lên những cành cây mềm xốp, phát hiện ra mọi thứ xung quanh mình đều thật hài hòa. Động vật, thực vật ở nơi này tạo thành một thế giới độc lập, sinh sôi không ngừng, luân phiên trao đổi một cách hoàn mỹ. Gã thậm chí còn có cảm giác mình có thể vươn tay ra chạm vào những nốt nhạc vui vẻ đang nhảy nhót trên không trung. So với những kiến trúc nguy nga tựa như của đấng siêu nhiên tạo dựng kia, nơi này còn khiến người ta sinh lòng kính phục hơn bội phần, cảm xúc tuôn trào mãnh liệt sau vẻ ngoài tĩnh lặng. Tự nhiên, bản thân tự nhiên đã là một kỳ tích vĩ đại rồi.
Chính ở trong khu rừng kỳ tích này, một kỳ tích khác lặng lẽ hiện lên trước mắt Trác Mộc Cường Ba.
Tuy nói là cùng trong một khu rừng, nhưng khung cảnh nơi này hoàn toàn khác với xung quanh. Giữa rừng cây rậm rạp san sát che ngút cả bầu trời bỗng nhiên xuất hiện một khoảng đất rộng lớn, cỏ xanh mơn mởn như một tấm thảm, những cây cao chọc trời quây xung quanh, mặt hồ phẳng lặng như gương phản chiếu trời xanh mây trắng, vô số kiến trúc nhân tạo hùng vĩ chẳng khác nào thần điện chốn Thiên cung nằm rải rác trên thảm cỏ mênh mông ấy. Giữa các tòa thần điện, rất nhiều cái bóng nối gót nhau thành hàng, qua lại vun vút, không hề ngừng nghỉ, từ xa nhìn lại rất giống những con kiến thợ không bao giờ ngơi việc trong vương quốc của loài kiến, lại cũng giống cảnh tượng hàng nghìn hàng vạn nô lệ đang vắt sức xây dựng một công trình kiến trúc khổng lồ ở một thời đại nào đó trong lịch sử. Lúc đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới kinh ngạc nhận ra, những cái bóng ấy hóa ra là sói, còn cả chó ngao nữa, bọn chúng ở lẫn với nhau, song lại hết sức hài hòa trật tự, chẳng khác nào các loại xe khác nhau đang đi dọc trên đường phố giữa một đô thị phồn hoa.
Cả đời Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ trông thấy nhiều sói và chó ngao ở chung một chỗ thế này, tuy gã đã quen nhìn cảnh đẹp khắp nơi, thậm chí có thể hờ hững với những kiến trúc tựa như thần tích kia, song gã không thể nào không chấn động trước vô số con sói thình lình xuất hiện ngay trước mắt mình như thế. Giáo sư Phương Tân nói không sai, nơi này có một vương quốc của loài sói, lũ sói ở đây đã tiến vào hình thái xã hội phát triển mức độ cao rồi, chúng có sự phân công lao động và địa vị xã hội nghiêm ngặt. Kết cấu xã hội này đã vượt trên cả thời kỳ xã hội thị tộc của loài người, phỏng chừng, đã đạt đến trình độ của xã hội nô lệ, hoặc thậm chí là một hình thái xã hội ở mức độ cao hơn.
Bọn chúng có đội tuần biên, bảo vệ an toàn lãnh địa; đằng xa, có một con mồi khổng lồ đang được kéo về, chúng có đội săn riêng; trên trảng cỏ rộng lớn ở phía Nam, từng đàn từng đàn cừu xếp thành hàng lối chỉnh tề bước đi, lũ sói này có cả khu chăn nuôi, chẳng trách trên núi Tư Tất Kiệt Mạc, đàn sói do ba anh em sói xám tổ chức lại cũng có thể chăn cừu, chuyện này đối với chúng xem ra thật dễ như cơm bữa.
Lời của giáo sư Phương Tân phảng phất như vang vọng bên tai gã, khi đàn sói di trú đạt đến số lượng nhất định, đột phá được điểm thắt cổ chai, thu thập đủ thực phẩm, bọn chúng sẽ có thể sản sinh ra một kết cấu xã hội riêng của mình, hoàn toàn có thể so sánh với xã hội loài người. Từ hình thái xã hội ấy, sẽ xuất hiện sự phân công lao động hợp lý, tồn tại và phát triển theo một mô thức giống như thị tộc hoặc quốc gia. Bọn chúng... sẽ lựa chọn vị vương của mình! Một vị vương chân chính!
Nhưng con sói đội trưởng của đội tuần biên kia thì không để Trác Mộc Cưởng Ba có thời gian đứng đó mà cảm khái bồi hồi, nó thúc giục gã đi nhanh về phía trước. Sói Hai và Sói Út cũng thu lại tính cách ngang ngạnh thường ngày, ngoan ngoãn đi theo sau nó, còn khẽ đẩy Trác Mộc Cưửng Ba, chừng như nhắc gã chớ nên làm trái ý con sói kia.
Bấy giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu ra thân phận thực sự của mình, bọn họ không phải vị khách được mời đến vương quốc của loài sói này, mà bị coi như tù binh, hoặc một loại nghi phạm, bị đưa đến một nơi nào đó để thẩm vấn, chỉ vậy mà thôi. Trác Mộc Cường Ba thầm cười khổ, nhưng vẫn đi theo con sói đội trưởng, có thể trông thấy một quần thể kiến trúc khí thế ngút sơn hà thế này, lại được tận mắt mục kích vương quốc do mấy vạn, thậm chí mấy chục vạn con sói và chó ngao tụ tập lại mà thành, cho dù ngày sau đây có phải chết đi, gã cũng chẳng còn gì hối hận.
Thoạt trông, những kiến trúc tuởng như ở rất gần, nhưng bọn gã đi mãi mà chưa thấy đến, điều này chỉ có thể chứng tỏ một vấn đề... những kiến trúc đó quá lớn! Khi bọn Trác Mộc Cuờng Ba thực sự tiến vào giữa quần thể kiến trúc ấy, gã bất giác sinh lòng nghi hoặc, nơi này có phải một tòa thành hay không? Nhìn từ đằng xa, rõ ràng trông thấy toàn những tòa kiến trúc khổng lồ, nhưng đến gần mới phát hiện, những kiến trúc ấy đều được phủ lên một lớp áo bằng cây 1á. Rễ cây tựa như quần áo bao bọc lấy cả quần thể kiến trúc bằng gạch đá, hoặc không thì bên trong đại sảnh hoặc gian chính của kiến trúc mọc đầy thực vật hoa cỏ, chim rừng làm tổ, sóc chuột xây hang... nhìn tổng thể, những kiến trúc gạch đá và cả thiên nhiên xung quanh đã hoàn toàn dung nhập thành một thể thống nhất rồi.
Trác Mộc Cường Ba thầm thắc mắc, những khối đá đã được mài nhẵn này, những công trình thích hợp cho loài người cư trú này, không phải do lũ sói ở đây xây dựng đấy chứ? Chắc hẳn bọn chúng vẫn còn những vị chủ nhân thật sự, chỉ có điều, những vị chủ nhân ấy rốt cuộc đã đi đâu rồi? Tại sao nơi này lại trở thành thủ đô của vương quốc loài sói và thiên đường của các loài động vật hoang dã như thế?
Con sói đội trưởng đội tuần biên đưa bọn Trác Mộc Cường Ba đến gần một kiến trúc trông tựa như một thư viện nhỏ thì dừng lại. Nó quay sang đối thoại với một con sói trẻ, sau đó, con sói kia chạy biến đi, chẳng bao lâu lại dẫn về một con sói già, hên cạnh còn có bốn năm con sói trung niên, trông bộ dạng có vẻ rất uy nghiêm.
Con sói già nghiêm nghị hỏi han sói đội trưởng đội tuần biên, dường như đang chất vấn nó tại sao lại dẫn những kẻ không liên can này về vương quốc. Con sói đội trưởng trả lời với thái độ hết sức cung kính, lại không ngừng liếc mắt về phía Trác Mộc Cường Ba, Sói Út đứng bên cạnh gã liền khẽ cất tiếng đáp: “A U Chang, A U Chang.”
Con sói già ngoẹo đầu nhìn Sói Út, gọi nó đến bên cạnh hỏi thăm, Sói Út liền xổ ra một tràng, rủ rỉ thuật lại A U Chang thế này, A U Chang thế kia, rồi cả những chuyện bọn chúng từng trải qua, thế này thế này... thế kia thế kia...
Nghe Sói Út thuật lại mọi chuyện xong xuôi, con sói già dường như đắm chìm vào suy nghĩ, một con sói trung niên bên cạnh nói cái gì đó với Sói Út, nó liền chạy về bên Trác Mộc Cường Ba, nghe ý tứ, hình như muốn thứ gì đó của gã. Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ nửa thân trên lõa lồ cùa mình, xòe tay ra hỏi Sói Út muốn gì. Sói Út chẩu miệng lên thử phát âm, sau đó rít: “U... u... u...” Đó không phải là tiếng của loài sói, Trác Mộc Cường Ba cũng nghe ra được Sói Út đang mô phỏng âm thanh gì, gã vội lấy cây sáo bằng xương ra, Sót Út bèn gật đầu lia lịa.
Lúc này, con sói già kia bước đến, nói một câu gì đấy với Trác Mộc Cường Ba. Gã nghe hiểu loáng thoáng, biết đối phương muốn bảo mình thổi thử một tiếng xem sao, bèn đưa cây sáo lên miệng thổi ra âm thanh kia. Tiếng sáo lảnh lót vang khắp bầu không của vương quốc loài sói. Lũ sói đang tiến bước ở đằng xa không ngờ đều dừng hết cả lại, ngơ ngác ngước nhìn về phía này. Con sói đội trưởng đội tuần biên hướng về phía ấy gầm gừ một tiếng, như thể nói: “Nhìn cái gì mà nhìn! Đi làm việc đi!” Bấy giờ, lũ sói địa vị tương đối thấp ấy mới lại tiếp tục chầm chậm di chuyển.
Con sói già nói với sói đội trưởng đội tuần biên mấy câu, vẻ như lời khen ngợi, con sói đội trưởng lấy làm sung sướng, quay đầu chạy về với đội ngũ của nó. Sói già lại thương lượng một hồi với mấy con sói trung niên bên cạnh, cơ hồ quvết định việc gì đó quan trọng lắm, một con sói trung niên tất tả chạy đi rồi tất tả chạy lại, chừng như đã nhận được câu trả lời của cấp trên. Sau đấy, sói già quay sang nói với Trác Mộc Cường Ba, khẩu khí như đang ra lệnh. Trình độ lý gỉải tiếng sói của Trác Mộc Cường Ba rất có hạn, chỉ biết ngơ ngác đớ người ra. Sói Út liền giơ chân trước lên kéo kéo cái boomerang to tướng đeo trên lưng gã, luôn miệng thúc giục: “Bỏ đi, bỏ đi.” Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới hiểu, thì ra sói già bảo gã giải trừ vũ trang. Xem chừng, sắp sửa đi gặp nhân vật quan trọng rồi, à không, phải là đi gặp con sói quan trọng mới đúng.
Càng đi về phía trước, lũ sói tụ tập càng đông, tất cả đều nhìn “con sói” đặc biệt đi bằng hai chân là gã với ánh mắt tò mò soi mói. Trác Mộc Cường Ba cảm giác như mình đang đi vào vườn bách thú, có điều, con vật ở trong chuồng chính là gã. Xung quanh toàn những ánh mắt hưng phấn, hiếu kỳ, chỉ thiếu mỗi nước chúng đem thức ăn và cành cây ra trêu chọc gã nữa thôi.
Đi tiếp chặng nữa, lũ sói dần thưa thớt, những tiếng sói rì rầm bên cạnh dần biến mất, bầu không khí uy nghiêm trang trọng mỗi lúc một tăng, xung quanh toàn những con sói đực trưởng thành, thể hình tráng kiện dị thường đi tuần. Sói Hai và Sói Út thậm chí không dám thở mạnh, bước đi cũng phải nhón chân. Trác Mộc Cường Ba biết bọn gã đang tiến vào trung tâm của vương quốc sói, chỉ không biết kẻ nào muốn gặp gã, là bậc trí giả của vương quốc sói này, hay... vị lang vương thần bí kia?
Kiến trúc trông hơi giống kim tự tháp Maya dần dần hiện ra trước mắt. Tòa kim tự tháp ấy cao ngất, so với các kiến trúc xung quanh còn hùng vĩ hơn mấy phần, chiếm trọn vùng cao nhất trong khu rừng. Giữa quần thể kiến trúc tựa như trăm sao rải rác này, nó là một vầng trăng sáng, nguy nga sừng sững, nối liền hai cõi đất trời.
Ở mỗi bình đài trên thân kim tự tháp đều có một con sói hoặc chó ngao, hoặc đứng hoặc nằm, ánh mắt chăm chú nhìn kẻ mới đến bên dưới. Dẫu là người lần đầu tiên đặt chân đến nơi này, Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu, đây chính là trung tâm quyết sách của vương quốc sói. Những con sói, con ngao đứng trên đó đều có địa vị cực cao trong vương quốc. Còn trên đỉnh kim tự tháp... từ chỗ Trác Mộc Cường Ba đang đứng, không thể nhìn thấy bình đài ở nơi cao nhất đó.
Giữa kim tự tháp có một cầu thang thông thẳng lên đỉnh, con sói già bước lên bậc thang, còn bọn Trác Mộc Cường Ba đều lưu lại bên dưới. Một lúc sau, con sói già lại chạy xuống, vị trí của nó ở phần giữa kim tự tháp. Sau đó, không khí xung quanh như trầm xuống, yên tĩnh đến lạ thường. Phía cuối cầu thang xuất hiện hai cái bóng sói hoặc chó ngao, hướng về phía dưới gầm lớn, âm thanh vang vọng khắp tứ phương.
Sói Hai và Sói Út cúi đầu, rạp mình bò lên cầu thang, Trác Mộc Cường Ba đi giữa hai con sói, hứng lấy những ánh mắt sáng rực như ngọn đuốc ở xung quanh chiếu tới. Bầu không khí trở nên nghiêm túc lạ thường, gã có thể cảm nhận đc một áp lực vô hình đang đè nặng lên mình.
Còn cách đỉnh kim tự tháp chừng mười mấy bậc cầu thang, Sói Hai và Sói Út đều dừng lại, nằm rạp xuống bất động, thậm chí không dám ngước mắt nhìn lên. Trác Mộc Cường Ba vẫn đứng thẳng người, với chiều cao của gã, vừa khéo có thể trông thấy trên đỉnh kim tự tháp có một bình đài nho nhỏ. Bình đài ấy giống như vương tọa, bên trên có một thân hình to lớn đang nằm, bộ dạng biếng nhác ung dung.
Nó lim dim mắt, hơi hé miệng, thè lưỡi ra ngoài phơi nắng, từ chót đuôi đến đỉnh đầu phác lên một đường nét hoàn mỹ tuyệt đối trong mắt các nhà điêu khác, phần eo hông khẽ rung đều đặn nhịp thở, cơ hồ đó chính là trái tim của cả vương quốc sói này. Nhờ nhịp tim ấy mà cả vương quốc tràn trề sinh lực.
Thật ra là, thứ đầu tiên đập vào mắt Trác Mộc Cường Ba khiến gã phải nín thở, tim cũng tạm thời ngừng đập, chính là “vị” ở trên vương tọa kia. Lớp lông đen tuyền ấy, dưới ánh dương lấp lóa ánh lên sắc tím nhàn nhạt. Cặp mắt ấy, cái miệng ấy, bốn chân ấy, thân thể ấy, không gì là Trác Mộc Cường Ba không quen thuộc, tất cả đều đã xuất hiện trong những giấc mộng của gã hàng trăm nghìn lần. Bóng dáng oai hùng uy phong lẫm liệt lao đi trên thảo nguyên ấy, từng được gã hình dung ra vô số lần trong tâm trí, giờ đây đột nhiên lại sừng sững hiện ra trước mắt, nó thực sự tồn tại. Bởi vậy, Trác Mộc Cường Ba mới ngây ngẩn cả người, như si như dại, thậm chí quên hết mọi thứ xung quanh, trong mắt gã, chỉ còn có nó, chỉ còn... Tử kỳ lân trong truyền thuyết!
LANG VƯƠNG TỬ KỲ LÂN
Trác Mộc Cường Ba quả thực đã quên đi hết thảy, quên bẵng thân phận của mình, quên cả đây là nơi nào, chỉ nghe bốn phía vang lên những tiếng gầm giận dữ, Sói Hai và Sói Út không dám ngẩng đầu lên, chỉ thận trọng lấy chân chạm khẽ vào mu bàn chân Trác Mộc Cường Ba. Hết thảy mọi thứ xung quanh đều đang nhắc nhở gã: “Đó là Vương! Đó là đại vương chí cao vô thượng! Thân phận ngươi là gì chứ? Còn không mau quỳ xuống, không mau thần phục đi.” Vị ở trên vương tọa kia, mở to cặp mắt đang lim dim, ánh mắt sắc như đao kiếm xuyên suốt cả thời không. Đó là gì chứ? Đó chính là vương đạo, là bá khí! Khi bốn chân nó duỗi thẳng, đứng lên, tất thảy mọi sinh vật trên kim tự tháp đều cúi rạp mình xuống. Trác Mộc Cường Ba không thể nào ngờ, mình lại giáp mặt với Tử kỳ lân trong tình huống như vậy, với thân phận như vậy.
Sau một thoáng ngạc nhiên ngây ngẩn tuy ngắn ngủi nhưng lại cũng dài tựa vĩnh cửu thiên thu, Trác Mộc Cường Ba giật mình tỉnh ngộ. Gã sực nhớ ra thân phận của mình, gã xuất hiện ở nơi này với thân phận một con sói, địa vị một con sói. Với bộ dạng quái dị như gã, ở trong đàn, chỉ sợ địa vị còn không bằng được Sói Hai và Sói Út. Mà đối mặt với gã lúc này, lại là vị vương của cả vương quốc sói, vị vương duy nhất! Nhìn những ánh mắt xung quanh, nếu gã còn không bày tỏ gì đó, e rằng sẽ lập tức bị xé nát thành một đống thịt vụn. Gã đành chấp nhận thân phận và địa vị của mình, chầm chậm cúi rạp xuống, tứ chi chạm đất, nhưng gã lại có dũng khí ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào Tử kỳ lân với ánh mắt thâm tình đắm đuối.
Trác Mộc Cường Ba không khỏi chua chát thầm nghĩ, sao toàn bộ sự việc lại hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ ban đầu của mình thế này? Mới đây không lâu, gã còn nghĩ mình có thể dẫn theo Tử kỳ lân chậm rãi thả bước giữa đô thị phồn hoa của loài người, tựa như dắt theo một chú chó săn, hoặc đứng trên sân khấu ánh đèn chói lòa, giới thiệu loài vật tôn quý nhất này với cả thế giới. Nhưng khi sự thực xuất hiện trước mắt, gã mới kinh ngạc nhận ra, đó là vương, là vua của một nước, là đấng chí tôn ngự ở tít trên cao, còn bản thân, chẳng qua chỉ là một con sói nhỏ địa vị thấp đến mức không thể nào thấp hơn được nữa, điểm khác biệt duy nhất chính là gã có thể đứng lên đi lại bằng hai chân. Bản thân gã, chỉ có thể dùng ánh mắt kính ngưỡng khôn cùng nhìn nó từ đằng xa, muốn tiếp cận cũng không thể được. Sự tương phản giữa ảo tưởng và sự thật sao mà lớn đến thế! Gã dường như đã lý giải được nụ cười pha nét giễu cợt ấy của cha mình. Gã vốn không hiểu gì về sói, không hiểu gì về thế giới của sói, xưa nay gã vẫn luôn đứng ở góc độ loài người để nhận thức và quan sát loài sói, không hề thực sự hiểu rõ sói muốn gì, tồn tại vì điều gì; giống như gã cũng không hiểu bản thân mình muốn gì, con người tồn tại vì điều gì vậy.
Trên vương tọa, vị vương chí cao vô thượng này không hề hiểu được tâm trạng Trác Mộc Cường Ba hiện giờ, nhưng dường như nó tỏ ra thân thiết khác thường với sinh vật có thể đi lại trên hai chân này. Nó duỗi mình nhẹ nhàng nhảy xuống vương tọa, đến bên mép cầu thang, cúi nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba vội vàng đón lấy ánh mắt nó, thậm chí gã còn nghĩ không hiểu bộ dạng này của mình có hơi hốt hoảng e dè như lão nông chưa bao giờ vào đô thành đột nhiên gặp được quốc vương hay không nữa! Bốn phía xung quanh vang lên những tiếng xôn xao, đám đại thần vương quốc sói đều cực kỳ kinh ngạc, vương của chúng làm sao vậy? Sao lại đích thân nhảy xuống khỏi vương tọa chỉ vì con sói quái dị đi bằng hai chân này chứ? Lại còn đích thân đến bên mép cầu thang, chăm chú nhìn nó nữa. Niềm vinh hạnh tột bậc này, sao lại có thể dành cho một tên dị tộc dị loại như vậy được?
Một người một chó ngao, hai giống loài khác biệt, nghiêng đầu nhìn nhau, tiến hành một cuộc giao lưu không lời bằng ánh mắt.
Tử kỳ lân hít sâu một hơi, lỗ mũi thu nhỏ lại, chầm chậm hít ngửi, nghiền ngẫm, phân tích thông tin đến từ sinh vật hai chân dưới bậc thang, ánh mắt thâm trầm lộ ra vẻ nghi hoặc phức tạp: “Ngươi từ đâu tới? Loài dị tộc kia!”
“Từ thế giới bên ngoài rất xa nơi này, một quốc gia của nhân loại.” Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba dần bình tĩnh lại, đôi mắt trong veo phản chiếu trời xanh mây trắng. “Mục đích của ngươi là gì?” Ánh mắt của vị vương giả thân thiết hiền hòa, tựa như đã tìm lại được cảm giác một thuở xa xăm. “Đến để hoàn thành một ước định nghìn năm, đến để chiêm ngưỡng ngươi. Vì tìm kiếm ngươi, ta đã bỏ lại tất thảy.” Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba hết sức thành khẩn, gã chờ đợi câu trả lời của đối phương trong tâm trạng thấp thỏm bất an. Vương nhắm mắt lại, rồi lập tức mở bừng ra, chừng như đã phân tích xong xuôi, ánh mắt thoáng lộ vẻ thất vọng: “Ngươi đi đi, ngươi không phải người ta đang chờ đợi, trở về đi, từ đâu đến, thì trở về nơi đó.”
“Không...” một tia bất an nhanh chóng lan rộng trong mắt Trác Mộc Cường Ba, gã vừa nôn nóng vừa lo lắng, vội dùng động tác biểu lộ: “Xin hãy để ta ở lại, ta muốn tìm hiểu đất nước này thêm nữa.”
Ánh mắt của vị vương bỗng trở nên sắc lạnh dữ dằn, Tử kỳ lân đổi sang vẻ trang nghiêm, truyền đạt thông tin: “Ta ban cho ngươi, thân phận hợp pháp ở nơi này! ... Ngươi ... lùi xuống đi!” Sau đó, Tử kỳ lân không tiếp tục trao đổi ánh mắt với Trác Mộc Cường Ba nữa, nó xoay mình lại, lạnh lùng ra lệnh, lập tức một con sói lớn tiếng gầm vang mệnh lệnh ấy. Trác Mộc Cường Ba không hiểu chúng nói gì, chỉ thấy nét mặt Sói Hai và Sói Út đều lộ vẻ mừng vui, khóe mắt thoáng ánh lệ lấp lánh, rõ ràng là vương giả Tử kỳ lân đã cho chúng ở lại.
Lúc này, một con sói đột ngột lao vút tới, chạy thẳng một mạch lên bình đài cao nhất, trao đổi gì đó với Tử kỳ lân. Tử kỳ lân gầm gừ mấy tiếng đáp lại, Trác Mộc Cường Ba chỉ nghe được hình như có chữ “vây bắt“. Con sói ấy bèn nhận lệnh chạy đi, bên dưới kim tự tháp liền có một đàn sói lớn, tựa như bộ đội tập kết ra trận, không biết là định đi đâu nữa.
Nhìn sắc xanh trải dài ngút mắt, Max không để lỡ thời cơ, lên tiếng hỏi: “Ông Kahn này, các chủng loại sinh vật ở đây, hẳn phải phong phú lắm đúng không?” Soares gật đầu công nhận: “Đúng vậy, môi trường này thích hợp cho các sinh vật nhỏ sinh sôi nảy nở, động vật lớn thì không được, có lẽ đây là thiên hạ của lũ sói rồi.” Khafu nói: “Tiếp tục men theo mép bình đài tiến lên, chắc không lâu nữa là có thể trông thấy Bạc Ba La thần miếu được rồi.”
“Không,“ Merkin nói. “Vượt qua bức tường thành này, chúng ta phải thuận theo tường thành tiến sâu vào trong, đi men theo chân núi tuyết, vậy mới mong tìm được Bạc Ba La thần miếu.” Y trầm ngâm hồi tưởng lại nội dung chép trong nửa bộ Cổ Cách kim thư: “Vượt qua Bức Tường Than Thở, men theo chân núi tuyết, đi qua mười lăm ánh sáng và bóng tối... những thành thị dọc đường, đều chết cả rồi...” Thành thị, sao lại chết nhỉ? Merkin lắc đầu khó hiểu.
Đội ngũ dài dằng dặc của bọn chúng biến thành một chuỗi chấm đen nhỏ xíu bên dưới tường thành khổng lồ, chầm chậm dịch chuyển giữa trời đất theo một tuyến đường ngoằn ngoèo uốn lượn. Khi lớp sương mỏng trên đầu dần tan đi, lộ ra trời xanh mây trắng trong veo, cả bọn đều không kìm nén được mà reo hò ầm ĩ! Bọn chúng rổt cuộc không phải chịu đựng màn sương mù mờ mịt ấy nữa rồi. Chiều hôm đó, không hiểu Soares đã dùng cách gì, chỉ thấy y lấy ra một đống chai lọ, chẳng bao lâu sau đã dụ được một đàn rất đông những sinh vật trông khá giống chuột lang chạy đến, vậy là cả bọn khỏi phải ăn thứ thực phẩm vũ trụ khô khan không mùi không vị kia nữa. Hôm sau, bọn chúng lại tiếp tục lên đường, tớì chiều tối, Merkin và đồng bọn đã trông thấy di tích tòa thành đầu tiên nằm rải rác ở vùng tịnh thổ của đất trời này. Bảo nó là một tòa thành, thực ra, nói là một vòi phun nước khổng lồ xem chừng còn hợp lý hơn. Tòa thành trông hơi giống Thiên đàn ở Bắc Kinh(2), do nhiều chiếc “đĩa tròn” khổng lồ chất lên nhau, trên những đĩa tròn ở các tầng khác nhau là các kiến trúc khác nhau. Sau khi khảo sát, Soares và Metkin đưa ra kết luận, chỗ tiếp xúc giữa các “đĩa tròn” này đều có khe hở và kết cấu đường ray. Theo suy đoán cửa bọn y, trước khi tòa thành này bị bỏ hoang, những “đĩa tròn hẳn có thể độc lập xoay chuyển, giống như một bông hoa hướng dương chuyển động theo mặt trời vậy. Còn mục đích làm vậy là gì, cảnh tượng khi các “đĩa tròn” chuyển động sẽ như thế nào, thì mấy kẻ hậu nhân sống ở thời điểm mấy trăm mấy nghìn năm sau như bọn y làm sao tưởng tượng được.
Bữa tối không được phong phú lắm, lần này, Soares chẳng dụ được con chuột nào đến cả, chắc hôm qua bọn y đã xơi sạch chúng rồi. Hôm nay, chỉ có mấy con vật trông như con thỏ có túi. Sau bữa cơm, đám lính đánh thuê lần lượt chui vào nhà dân tìm kháng đá(3), đã lâu lắm rồi bọn chúng không được ngủ trên thứ gì giông giống cái giường. Những chiếc kháng đá mát lạnh, lại thiết kế gợn sóng theo độ cong của sống lưng người, nằm bên trên hết sức dễ chịu. Nhưng đêm ấy, lưng chúng lại không được ngủ yên. Đội tuần đêm do Merkin cẩn thận bố trí đã phát hiện ra có điều dị thường, dưới ánh trăng mông lung mờ ảo, vô số quái thú với những xúc tu dài đang nhung nhúc chuyển động, lao vun vút qua các con phố trên những tầng “đĩa tròn” với tốc độ kinh người. Bản năng sợ hãi quái thú khiến bọn lính đánh thuê tuần đệm lập tức phát tín hiệu cảnh báo, đồng thời nổ súng bắn. Suốt đêm hôm ấy, cả tòa thành đạn bay lửa cháy, thân thể và chất dịch của thứ quái thú chân đốt kia bung bét khắp chốn, nhưng số lượng bọn chúng vẫn không hề giảm sút. Mãi đến khi Soares quan sát rồi đưa ra kết luận, miệng của loài động vật chân đốt này không có bộ phận để xé và nhai thịt, chúng chỉ có thể ăn vật thể dạng lỏng, chắc là muốn đến chỗ kênh dẫn nước trong thành uống nước, chẳng thể gây hại gì cho người, tiếng súng mới từ từ lắng xuống.
Merkin hỏi Soares lai lịch của đám động vật chân đốt này, nhưng Soares cũng không biết, phán đoán là một loại sinh vật tiền sử nào đó, hoặc một nhánh rẽ trên con đường tiến hóa, là giống loài đặc hữu chỉ vùng đất này mới có.
Bọn động vật chân đốt ấy thực sự trông rất ghê rợn, đầu to tướng như quả bóng rổ, đặc biệt là dịch thể dang keo màu xanh lục bắn tóe ra từ cơ thể chúng sau khi trúng đạn lại càng tởm lợm, bốc lên một thứ mùi khiến nguởi ta chỉ muốn nôn ọe, rất nhiều lính đánh thuê phải gập người nôn thốc nôn tháo. Nhưng chúng vẫn chưa biết, đó mới chỉ là khởi đầu của cơn ác mộng. Hai ngày sau, trong đám lính đánh thuê đã có năm tên sốt cao, không chữa trị được mà chết. Soares suy đoán, chắc là khi giết lũ động vật chân đốt, những tên này đã bị dịch thể bắn vào đường hô hấp gây nhiễm trùng.
Ngày thứ tư từ khi bước chân vào khu rừng. Buổi sáng, cả đoàn bị một đám sinh vật bay không rõ lai lịch tập kích, bảy người chết, mười ba người bị thương. Merkin hạ lệnh toàn bộ đám lính đánh thuê phải nghiêm chỉnh mặc áo giáp, đội mũ bảo hiểm, không được để bất cứ bộ phận nào lộ ra ngoài. Buổi chiều, gặp phải thằn lằn khổng lồ Shangri-la, ba người chết, ba người trọng thương, con thằn lằn bỏ trốn mất. Bấy giờ, bọn lính đánh thuê mới nhận ra, nơi này không phải thiên đường, mà là một thế giới đầy rẫy quái thú, mỗi bước đều nguy hiểm khôn cùng.
Merkin thắc mắc với Soares, hỏi tại sao không gọi sói đến, Soares cười khổ đáp: “Ngày nào tôi chẳng gọi, nhưng không hề có phản ứng, chắc tại hang sói cách nơi này vẫn còn xa quá.” Ngoài miệng đáp vậy, song trong lòng y cũng dấy lên nghi hoặc, nếu nói môi trường ở đây thích hợp cho lũ sói sinh sống như vậy, tại sao ở vùng đất lạnh giá bên ngoài kia vẫn có sói? Lẽ nào, vì sinh sôi quá nhiều, không đủ không gian sinh tồn nên chúng bị buộc phải rời khỏi đây? Nhưng dọc đường đến đây, rõ ràng là vẫn còn rất nhiều không gian trống mà!
Buổi tối hôm đó, bọn lính đánh thuê bị thương nhất loạt mất tích! Bọn chúng biến mất ngay trong trại của mình, mà trong khu lều trại không hề có dấu vết bị phá hoại, chỉ phát hiện thất mặt đất xốp hơi bị đùn lên. Soares đành suy đoán rằng, những tên đó đã bị một loại động vật gặm nhấm giỏi đào hang tấn công. Chỉ có điều, không hề phát hiện ra dấu vết cắn xé ở hiện trường, mà bọn lính đánh thuê kia cũng không hề phát ra âm thanh gì, tất cả như bị phủ lên một tấm màn kỳ bí. Soares nói: “Có lẽ mùi máu trên người đám bị thương kia đã dụ loài sinh vật đó đến.”
Từ đó trở đi, ngay cả lúc ngủ, đám lính đánh thuê cũng đội mũ trùm kín đầu.
Thế nhưng, chỉ yên được một ngày. Sáng hôm thứ sáu, một số tên bắt đầu sốt, kế đó xuất hiện triệu chứng bệnh dại, có tên ra sức uống nước, có tên thì cắm đầu cắm cố đào đất, cơ hồ muốn vùi mình xuống đất lạnh cho dễ chịu.
Rồi lại có người đến báo cáo, dường như trên thân thể một tên lính đánh thuê mọc ra thứ gì đó. Soares và Merkin đến xem, chỉ thấy tên lính đánh thuê đã bị gỡ mũ bảo hộ, đang hết sức nóng nảy bồn chồn, phải mấy người cùng hợp sức mới giữ chặt được hắn, dưới lớp da mặt của hắn tựa như có con giun đang vặn vẹo bò qua bò lại, bên mang tai cũng có. Merkin giật mình kinh hãi, đưa mắt nhìn Soares hỏi: “Cái gì thế?”
Soares thản nhiên nói: “Không biết, phải rạch ra xem xem, có điều ký sinh trùng rất hiếm khi có thể trực tiếp nhìn thấy dưới da thế này, vả lại hai ngày nay không phải tất cả đều mặc kín mít hay sao? Sao lại có ký sinh trùng được?”
Khi da mặt tên lính đánh thuê bị rạch ra, cả bọn mới phát hiện thứ vặn vẹo bên trong là một đám trông như thực vật thân củ xâu chuỗi lại với nhau, hai bên có những sợi trắng li ti cắm sâu xuống dưới da, lúc kéo ra, độ dài phải gấp đôi phần có thể nhìn thấy được. Sau khi bị rứt ra, thứ ấy nhanh chóng ngừng nhúc nhích, những sợi gân trắng bị nhiệt độ trên lòng bàn tay tên lính đánh thuê làm cho khô héo, thoáng cái đã vàng quắt. Soares đón lấy, khẽ vặn. Thứ đó không mềm nhũn như tưởng tượng của mọi người, chỉ hơi vặn nhẹ đã gãy làm đôi. Soares cẩn thận quan sát một lúc, rồi đưa cho Merkin, nói bằng giọng ngờ vực: “Hình như là... một loại thực vật ký sinh.”
Merkin nhận lấy xem thử, quả nhiên là khá giống, thân củ và những đường gân li ti màu trắng rất giống với bộ rễ của thực vật. Y lấy làm khó hiểu: “Sao lại bị ký sinh vậy nhỉ?”
Soares lắc đầu đáp: “Đối với thực vật, hiểu biết của tôi không nhiều lắm, chỉ biết có rất nhiều loại thực vật có quả được các loài chim ăn vào, rồi mang hạt giống của chúng đi xa; một số thực vật thậm chí còn trực tiếp chiếm cứ luôn cơ thể động vật, biến máu thịt của động vật thành nguồn dinh dưỡng để phát triển, trong quá trình xâm chiếm ấy, chúng sẽ “huấn luyện” vật chủ. Những động vật bị ký sinh sẽ trở nên thất thường, rốt cuộc biến thành công cụ vận chuyển cho thực vật ký sinh, sau khi tìm được hoàn cảnh phù hợp thực vật ký sinh sinh trưởng và phát triển, vật chủ sẽ chết ở đó, thi thể làm phân bón cho đất, hoặc trực tiếp bị hút sạch dinh dưỡng. Giá như trong chúng ta có một tên thực ngữ giả thì tốt quá rồi.”
Đi được hai ba bước, y lại như sực nhớ ra điều gì đó: “Tôi nhớ ra rồi, hôm đầu tiên tiến vào khu rừng này, gặp phải lũ côn trùng không rõ lai lịch tập kích, tán cây trên đầu rơi xuống rất nhiều bột như phấn hoa, chắc là bị ký sinh từ lúc đó rồi!”
Merkin nói: “Dứt ra rồi, chắc không để lại di chứng gì chứ?”
Soares chỉ biết lắc lắc đầu. Vậy là mười ba tên lính đánh thuê xuất hiện triệu chứng rõ rệt liền bị rạch da mặt lấy thứ sinh vật ký sinh kỳ quái ấy ra. Lạ một điều là, thứ ấy dường như ký sinh bên dưới lớp da mặt vật chủ. Soares suy đoán, chắc rằng loại thực vật ký sinh ấy trục tiếp bám vào khoang mũi nạn nhân, sau đó theo xương lá mía (xương khoang mũi) chui vào não, như vậy mới có thể khống chế vật chủ trong thời gian ngắn nhất. Còn tại sao chúng lại hiện hình dưới lớp da như thế, Soares cũng không giải thích được.
Tối hôm đó, Max có ý tốt nhắc nhở Merkin: “Ông chủ, thứ này là động vật hay thực vật, không phải chỉ đựa vào một câu của Soares mà đã nhận định được đâu.”
Merkin thờ ơ hỏi: “Ý mày là sao?”
Max vội đáp: “Từ khi phát hiện có động vật đến giờ, ngày nào ta cũng bị động vật tấn công, Soares lợi hại như thế, sao lại bó tay được chứ? Nếu như...”
Merkin mỉm cười nói: “Về mặt này thì không cồn phải lo, Soares chỉ là một học giả thôi.”
Max lẩm bẩm như đang than thở với chính mình: “Nhưng càng đến gần Bạc Ba La thần miếu, người của chúng ta lại càng ít hơn.”
Thấy Merkin trầm mặc không lên tiếng, lòng Max lại le lói một tia hy vọng, bèn nói tiếp: “Bọn lính trinh sát trông thấy xung quanh chúng ta có đàn sói lượn lờ rình rập.
“Thật không?” Ánh mắt Merkin hơi biến đổi. Max vội thề thốt: “Ông chủ, những chuyện này mà tôi dám nói bừa sao?”
Đêm hôm ấy, có mấy tên linh đánh thuê bị tiếng động xì xì xạt xạt đánh thức, sau đó liền phát hiện một cảnh tượng kinh hồn bạt vía: một tên đồng bọn của chúng đã bị thực vật phủ kín, toàn thân từ trên xuống dưới đều là những dây leo như dải lụa đen, chúng vươn từ dưới đất lên, quấn chặt lấy kẻ xấu số rồi kéo xuống lòng đất. Trong màn đêm, phiến lá xanh phát ra ánh sáng xanh lét nhàn nhạt đầy yêu dị. Tên lính đánh thuê bị kéo đi ấy, không hiểu sao, lại không hề có chút phản ứng nào. Tất cả đều đã tỉnh ngủ hẳn, khi những tên lính đánh thuê khác vạch được đám đây leo đó ra, chúng phát hiện đồng bọn của mình đã chết từ đời nào rồi. Tình hình tương tự cũng xảy ra với bốn tên lính đánh thuê ở ba trại khác, tất cả đều là những người bị thực vật ký sinh phải rạch mặt ra hồi sáng!
Soares kiểm tra xong, nói: “Là mùi máu tanh dẫn dụ chúng đến.” Y nhón tay nhật một sợi dày leo lên, phát hiện ra chúng vẫn có kết cấu thực vật. Những sợi dây leo nay vặn vẹo, chui luồn dưới đất, tốc độ di chuyến rất chậm, một phút chí nhích được chừng mười xăng ti mét, song lại lẳng lặng không hề phát ra một tiếng động nào. Merkin ra lệnh đặt một cái xác xuống đất, y muốn xem xem những dây leo này rốt cuộc đã lẳng lẽ kéo cả một người đi như thế nào.
Dây leo vươn ra những xúc tu nhỏ xíu, không ngừng bò lên, cuối cùng nó tìm thấy một khe hở nhỏ ở chỗ tiếp giáp giữa mũ bảo hộ và bộ quần áo liền thân, bèn luồn qua chui vào khoang mũi nạn nhân, trực tiếp làm tê liệt trung khu thần kinh. Đầu mút sợi dây leo có đầu nhọn dạng lông, hiệu quả gây tê rất rõ rệt. Soares lấy đầu nhọn đó đâm vào ngón tay, hoàn toàn không cảm thấy đau đớn gì, song lại có máu rỉ ra.
Sau đó, bọn Merkin lần theo dấu vết di dộng dưới đất, tìm thấy nơi xuất phát của những dây leo đó. Chúng quấn trên một thân cây khổng lồ, xác mấy tên lính đánh thuê xấu số đều bị treo ngược lên cây, dần dà sẽ thối rữa ra ở đấy, hóa thành chất dinh dưỡng để dây leo hấp thụ.
Merkin đanh mặt lại nói: “Chúng ta phải nghĩ ra mới đúng, Ba Tang từng nói đến thứ này rồi.” Max cũng sực nhớ ra, đây chính loài thực vật ban đêm siết chết người, treo tử thi lên cành cây trong câu chuyện của Ba Tang. Nếu đã biết ngọn nguồn và phương thức hành động của loài thực vật này rồi nghĩ cách đối phó cũng không khó. Đêm hôm ấy, không xảy ra sự kiện nào tương tự như vậy nữa.
Ngày hôm sau, Merkin và Soares chăm chú quan sát một khối nham thạch núi lửa cao chừng ba mét, hồi lâu vẫn lặng im không nói tiếng nào. Trên tầng bình đài này, những khốỉ nham thạch núi lửa giống như vậy có ở khắp nơi, sở dĩ khối đá này có thể khiến hai người bọn y trầm mặc không nói, là bởi bọn lính trinh sát phát hiện bên trên đó có khắc ký hiệu văn tự. Soares nói: “Đây... cái này... hình như hơi giống chữ Latin thì phải?”
Merkin đáp: “Chữ Rune ở Bắc u, thời Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Đức từng sử dụng nó làm minh mã(4).”
Y ngây người nhìn hàng chữ ấy, nét mặt dở khóc dở cười. Max đứng bên cạnh không bỏ lỡ dịp xun xoe: “Ông chủ hiểu biết uyên bác quá, bên trên này viết cái gì vậy?” Merkin chua chát nói: “Theo nghĩa bề nổi, thì có thể dịch thành: 'Ai đó đã từng đến đây du lãm'.” Lời này vừa mới thốt ra, toàn bộ những người đứng bên cạnh Merkin đều đần thối mặt, nơi này là nơi nào chứ, cả đám bọn họ không ai là không trải qua thập tử nhất sinh mới đặt chân đến được, thử hỏi ai lại có tâm thái đến đây du lịch? Còn để lại những lời lẽ buồn nôn đến vậy? Vả 1ại, những hàng chữ này còn rất mới, có thể khẳng định, trong vòng mấy năm trở lại đây đã có người đi qua nơi này! Vậy thì Bạc Ba La thần miếu mà bọn họ hằng mong mỏi, có phải cũng đã bị người ta ghé qua rồi hay chăng? Chẳng trách Merkin hụt hẫng đến vậy, trong ánh mắt tràn đầy vẻ đắng cay tự giễu.
NỖI BI AI CỦA THAO THÚ SƯ
Soares nói: “Những dấu vết này còn rất mới.”
“Ừm,“ Merkin dường như đã thoát ra khỏi tâm trạng khó chịu, tự an ủi mình: “Đã tới đây rồi, không tận mắt nhìn một lần, chết cũng không cam tâm được.”
Khafu đứng bên cạnh quan sát, thần tình phức tạp, thầm nhủ: “Người kia không hề nhắc đến, lẽ nào hắn gạt ta? Hay là cả hắn cũng không biết sự việc này? Nếu Bạc Ba La thần miếu đã bị dọn sạch, vậy thì ta trả giá lớn như vậy, rốt cuộc là vì cái gì đây?”
Max dè dặt lên tiếng: “Ông chủ, kẻ đó là ai vậy?”
Merkin ảo não lắc đầu: “Không biết, hắn không để lại tên, chỉ có một ký hiệu. Chắc là biệt hiệu gì đó.”
Y đổi giọng, nói với Soares: “Nhắc đến tên mới nhớ thứ gì đã để lại dấu vết bên cạnh đó vậy? Sói à?” Merkin muốn nói đến vết móng vuốt bên cạnh những văn tự ấy. Vết tích ấy nằm ở một bên của hàng chữ, trông như ký tên vào vậy. Soares lắc đầu khẳng định chắc chắn: “Không phải, bàn chân sói không to thế được, liệu có phải là... hổ hay sư tử không nhỉ?”
Trên trán Merkin xuất hiện những nếp nhăn sâu hõm, những văn tự kia tựa như được vũ khí sắc nhọn đục đi đục lại, còn dấu vết do móng vuốt để lại thì chỉ là một đường bén ngót, xem ra con dã thú ấy có bàn chân vừa to vừa khỏe, móng vuốt còn sắc bén dị thuờng. Nhìn vị trí của chữ viết có thể đoán rằng, người để lại hàng chữ này phải cao ngang với y, hoặc thậm chí còn cao hơn một chút. Còn con quái thú kìa hẳn cũng không thấp. Trong đầu Merkin phảng phất hiện lên một hình ảnh, mấy năm trước, một người cao lớn dẫn theo một con quái thú cũng cao lớn chẳng kém, đi lang thang không mục đích trong cánh rừng này, đến lúc mệt nhoài, họ bèn dừng lại nghỉ chân dưới tảng đá lớn. Người kia bảo: “Chán quá, đánh dấu một cái ở đây nhé!” Con quái thú gật gật đầu, giơ móng vuốt lên.
Những ngày này, Trác Mộc Cường Ba ở lại trong vương quốc sói. Nơi đó là một thế giới hoàn toàn mới lạ, tất cả đều phải nhận thức lại từ đầu. Từ khi trở về vương quốc, không rõ Sói Hai đã được sắp xếp đi đâu. Sói Út không tìm được đàn của mình, được xếp cùng Trác Mộc Cường Ba nhập vào một đàn sói khác. Đàn sói ấy có mười mấy con, thủ lĩnh là một con sói xám trán có đốm trắng. Sói Út luôn đi bên Trác Mộc Cường Ba, hơi giống hướng dẫn viên du lịch kèm phiên dịch viên, bởi dẫu sao thứ tiếng sói sường sượng nửa sống nửa chín và kiểu khua chân múa tay kỳ lạ của A U Chang cũng chỉ có nó là nghe nhiều thấy nhiều nhất mà thôi.
Được Sói Út và một con sói đen khác do Trán Trắng sắp xếp hướng dẫn, Trác Mộc Cường Ba đã dần hiểu được hình thái xã hội của cả vương quốc, trong đó trường huấn luyện của loài sói đã để lại cho gã ấn tượng sâu sắc nhất. Mé Tây trường huấn luyện là một bức tường có vô số lỗ nhỏ, hai mé Nam Bắc thì có vô vàn bức tượng, mỗi con sói tham gia huấn luyện đứng bên dưới một bức tượng, như đang ngắm nghía bức tượng, rồi thực hiện các động tác phản ứng khác nhau, bổ tới công kích, len lén áp sát, hay vòng ra sau đánh bọc hậu.
Trác Mộc Cường Ba quan sát thần thái và ánh mắt những con sói, cảm thấy mình hình dung nơi này là trường huấn luyện dường như có hơi sai lầm, có lẽ gọi đây là một khu vui chơi giải trí của lũ sói thì thích hợp hơn. Nhìn bọn sói làm đi làm lại các động tác không biết chán, lại nhìn sang cảnh những con sói đang chen chúc muốn vào và cả những con sói làm nhiệm vụ duy trì trật tự, rất dễ khiến người ta nghĩ đến công viên chật cứng người trong ngày nghỉ lễ. Khi Trác Mộc Cưởng Ba quan sát kỹ những bức tượng Phật, gã lại bất giác ngây ra trong giây lát. Các bức tượng này khá giống nhau, điểm khác biệt duy nhất chính là cánh tay. Cánh tay của các pho tượng đang làm những động tác khác nhau, rõ ràng là lũ sói phản ứng dựa theo những động tác ấy. Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các động tác tay bọn gã từng đề cập đến khi thu thập những tư liệu cuối cùng. Gã còn dựa theo cách lý giải và trí tưởng tượng của mình để luyện tập nhiều lần, song rốt cuộc vẫn không đạt được hiệu quả như mong đợi.
Lúc này, trông thấy lũ sói luyện tập với động tác tay của tượng Phật, đem so sánh ra, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện sự thực không ngờ lại khác xa những gì mình tưởng tượng, Thủ thế của tượng Phật, có lẽ là một loại động tác được gọi là “thủ ấn“. Vào thời kỳ đầu, có lẽ chỉ riêng Tạng truyền Phật giáo mới có. Khi Trác Mộc Cường Ba mô phỏng theo các “thủ ấn” ấy, gã lập tức bị lũ sói xung quanh bao vây, rõ ràng là đã coi gã như một pho tượng Phật rồi. Có lẽ, trong mắt lũ sói ở đây, những tượng Phật này chẳng khác nào chiếc tàu lượn siêu tốc trong công viên dưới mắt lũ trẻ con vậy, mới lạ, kích thích, lại vui nữa.
Trác Mộc Cường Ba bị ép làm huấn luyện viên mất nửa ngày, bản thân gã cũng đã luyện thuần thục từng động tác thủ ấn một. Vì “pho tượng” này có thể làm nhiều động tác khác nhau, nên bọn sói lại càng bám nhẵng lấy gã, nhất quyết không chịu buông tha.
Khó khăn lắm mới đến được chân bức tường ở mé Tây, Sói Út ra hiệu bảo Trác Mộc Cường Ba lắng tai nghe thật kỹ, không lâu sau, gã đã nhận ra ngay. Thì ra, cứ cách một khoảng thời gian gió lại thổi qua những lỗ nhỏ trên tường, phát ra một âm thanh nào đó, khi giống tiếng sót tru, khi lại không giống lắm. Những con sói tập trung gần đấy, nghe theo âm thanh mà thực hiện các động tác khác nhau. Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng đã hiểu ra, đây là một hình thức người Qua Ba sử dụng để huấn luyện, trao đổi với sói. Có một trường huấn luyện thế này thì dẫu bộ tộc Qua Ba có biến mất, những âm thanh và động tác tay ra lệnh cho sói hành động vẫn còn hiệu quả, bởi chúng đã hằn sâu vào trong ký ức của bọn sói ngay từ thuở nhỏ rồi.
Trác Mộc Cường Ba lần lượt lắng nghe, dù không thể phát ra những âm thanh ấy, gã cũng muốn hỉểu từng âm thanh có ý nghĩa như thế nào. Dần dà gã phát hiện ra, dù động tác tay hay âm thanh, thì cùng đều là chỉ lệnh chiến đấu, ngoài ra, cây sáo xương của gã vừa khéo có thể phát ra một loại trong những âm thanh nghe được ở đây; trên tường còn có ba bốn lỗ vuông không phát ra tiếng gì, nhưng lũ sói vẫn liên tiếp thực hiện các động tác, hiển nhiên là âm thanh phát ra từ những lỗ đó nằm ngoài tâm nghe được của tai người, có lẽ sáo xương cũng phát ra được, hoặc giả người Qua Ba vẫn còn dụng cụ phát âm gi khác nữa.
Ngoài ra, Trác Mộc Cuờng Ba còn phát hiện được một đường biên giới khác của vương quốc sói. Đó là một tảng đá lớn thoạt trông hết sức bình thường. Sói Út dẫn gã đến đây, nói một tràng dài rất nghiêm túc, tóm lại là, bất luận thế nào, bọn chúng cũng sẽ không vượt qua ranh giới vô hình này. Còn về Tử kỳ lân, Trác Mộc Cường Ba đã dần dần từ bỏ y định ban đầu của mình. Với địa vị trước mắt của gã, đừng nói là gặp được Tử kỳ lân, cho dù muốn đến gần tòa kim tự tháp kia gã cũng không đủ tư cách nữa. Ở vương quốc của loài sói này, mỗi ngày đều có những con sói tò mò quan sát gã, chỉ là, nhũng ánh nhìn ấy không đem đến cho gã cảm giác ưu việt giống như khi mọi ánh mắt của con người đều hướng về phía mình. Chủng tộc khác nhau, xã hội khác nhau, cuộc sống khác nhau, chỉ mang đến một áp lực khổng lồ chẳng thể gọi tên. Trác Mộc Cường Ba thầm nghĩ: “Cha nói đùng thật, ngay từ đầu, mình đã đứng ở lập trường của nhân loại, xuất phát từ lợi ích của bản thân, chứ chưa từng một lần nghĩ đến cảm nhận của Tử kỳ lân bao giờ.”
Sau khi nhóm người của Merkin đi qua khối đá khắc hàng chữ vô vị kia, đêm hôm ấy đã xảy ra sự việc đáng sợ nhất từ khi chúng đến vùng đất này. Buổi tối, toàn bộ đám lính đánh thuê đều chuyển sang chế độ nhìn đêm, bởi ở trong rừng rậm mù mịt hơi nóng, nếu để chế độ quan sát bằng hồng ngoại, toàn bộ những gì nhìn thấy đều sẽ biến thành màu đỏ cả. Không rõ đợt tấn công bắt đầu từ lúc nào, hoặc giả, bọn lính đi tuần sớm đã bị triệt hạ, không kịp thông báo. Thứ tấn công bọn họ, là một đàn sói.
Một đàn sói lớn, phủ cỏ rác và cành cây lên mình ngụy trang, đột nhiên bao vây cả doanh trại, tấn công bọn lính đánh thuê. Cũng may, đám người này đều đã trải qua thử thách hiểm nguy trùng trùng của mấy ngày trước, giờ đây đi ngủ cũng đội mũ bảo hộ, mới không đến nỗi toàn quân bị tiêu diệt. Có điều, bị tập kích bất thình lình, nhất thời không thể tổ chức phản kích một cách hiệu quả, đám lính đánh thuê chỉ biết người nào lo thân kẻ ấy, rối loạn như ong vỡ tổ. Đàn sói cực kỳ hung mãnh, vừa bổ tới là lập tức cào cấu cắn xé. Có điều, chiếc mũ bảo hộ trên đầu đám lính đánh thuê khiến lũ sói không tìm đâu ra nơi để đớp vào, còn áo chống đạn thì khó lòng bị móng vuốt xé rách.
Nhưng đàn sói cũng nhanh chóng phát hiện ra điểm chí mạng của bọn lính đánh thuê. Mấy con cùng hợp tác, để một tên ngã lăn ra đất, rồi ra sức vừa lay vừa giật chỗ gần điểm tiếp giáp giữa mũ bảo hộ và cổ áo, chẳng mấy chốc đã giật tung được cái mũ chắc chắn đó ra. Liền sau đó, là một tiếng kêu thảm thiết khiến người ta rợn hết tóc gáy. Gặp phải trận đột kích quá bất ngờ, bị ít nhất mấy trăm con sói vây công, Merkin và Khafu không tổ chức đánh trả được. Điều duy nhất bọn y có thể làm chỉ là tụ tập thủ hạ, tìm nơi an toàn để phòng ngự. Cứ thế, đội ngũ lính đánh thuê của Merkin đã bị xé nát thành mấy nhóm, từng người tự lo tìm đường chạy thoát thân, chẳng ai kịp để ý đến người khác nữa.
Theo lý, lẽ ra Soares phải phát huy được tác dụng rất lớn, những bình thuốc đuổi sói do y tự chế liên tiếp ném ra, nhưng ném một hồi y mới phát hiện, lũ sói này chẳng hề hấn gì trước thứ thuốc nước ấy, vẫn tiếp tục tấn công như thường, thậm chí còn hung hãn hơn cả lúc trước. Merkin khó khăn lắm mới tụ tập lại được khoảng hơn nửa nhân thủ, tổ chức lập lưới hỏa lực đan xen, bấy giờ mới tạm khống chế được cục diện. Trước màn lưới dày đặc được kết bằng súng đạn, dẫu đàn sói có ưu thế về tốc độ cũng không thể làm gì nổi, lập tức có những tiếng rú thảm vang lên, lũ sói bắt đầu liên tiếp trúng đạn.
Đợi khi đàn sói rút lui, lúc thu dọn chiến trường Merkin đếm được hơn ba mươi xác lính đánh thuê, hơn ba chục xác sói, không tìm thấy bất cứ con sói bị thương nào, chắc hẳn toàn bộ đều đã triệt thoái cả rồi. Ngoài ra, còn gần một trăm người bị đàn sói lùa cho phải rời khỏi đội ngũ, không biết đã đi đâu, không thể liên lạc được, bên cạnh Merkin giờ chỉ còn chừng bảy tám chục người.
Chuyện này rõ ràng đã giáng một đòn nặng nề vào tất cả bọn chúng. Nơi đây không hề giống vùng đất khắp nơi đều là vàng bạc châu bâu mà Merkin vẫn giao giảng. Ở một nơi dễ mất mạng thế này, ai muốn làm con tốt thí cho người khác chứ? Bọn lính đánh thuê đều thầm nghĩ, dù phải tan xác vì thuốc nổ gắn trên người cũng còn đỡ hơn bị bọn quái vật kia làm cho dở sống dở chết. Đúng vào thời điểm này, một tin tức kinh hoàng nhanh chóng lan truyền trong đám lính đánh thuê: lũ sói ấy là do Soares dụ đến. Hình như y muốn lợi dụng đại quân động vật của mình, tiêu diệt tất cả mọi người ở đây.
Xét lại những tình huống bọn lính đánh thuê gặp phải từ lúc vào rừng đến giờ, lũ động vật ấy đúng là chỉ tấn công bọn chúng, còn bọn Soares và Merkin hoàn toàn không hề hấn gì, đặc biệt là chuyện xảy ra đêm trước, nói thế nào thì Soares cũng không thể tránh khỏi có can hệ. Không phải y vẫn luôn gọi lũ sói đến đấy ư? Tại sao lại không gọi được con nào? Còn bảo cái gì mà hang sói vẫn còn xa, vậy lũ sói đêm trước ở trên trời rơi xuống chắc? Vả lại, hành vi của Soares đêm trước đã lọt vào mắt một số tên trong đám lính đánh thuê. Bình thuốc của y ném tới chỗ nào, chỗ đó liền bị tấn công dữ dội chưa từng thấy. Bọn sói ấy như thể bị uống thuốc kích thích vậy, bất chấp tất cả xông lên cắn xé! Đây chính là bằng chứng rành rành không thể chối cãi! Đám lính đánh thuê đa phần đều vào sinh ra tử cùng nhau, lăn lộn hết chiến trường này đến chiến trường khác, chiến hữu của mình đă bị lũ sói giết hại, chúng làm sao chịu để yên cho Soares! Còn Soares có mục đích gì, làm vậy có lợi gì cho y, bọn chúng không cần biết, cũng chẳng bao giờ nghĩ đến. Dù có bị Merkin cho nổ tan xác, thì cũng phải bắt tên quái nhân quanh năm suốt tháng che mặt ấy giải thích rõ ràng!
“Tại sao lại như vậy?” Soares ngồi trong lều bạt, bần thần nhìn đống bình thuốc, không tài nào hiểu nổi. Lũ sói đó không nghe theo lời triệu hoán của y thì thôi, sao ngay cả chất thuốc vốn dùng để xua đuổi chúng đi xa, lại khiến chúng tấn công càng điên cuồng hơn chứ? Stores xưa nay luôn hết sức tự tin với các loại thuốc mình chế ra, thứ mùi ấy có thể kích thích cực mạnh vào khứu giác của bọn sói. khiến chúng cảm thấy sợ hãi, bất an, trong khoảng chu vi mấy chục mét chắc chắn là có hiệu quả, nhưng đêm hôm qua...
Soares giơ một bình lên sát mũi hít thật mạnh, sau đó dùng các loại giấy sinh hóa kỉểm nghiệm lại, rốt cuộc cũng tìm ra đáp án... những bình thuốc ấy đã bị người ta thay nhãn! Toàn thân Soares lạnh buốt, trước khi gặp phải lũ sói, y không hề tùy tiện sử đụng những bình thuốc này, dẫu sao đây cũng là dạng vật chất bay hơi, mỗi lần mở ra hao hụt đi một chút. Ai đã đổi nhãn dán trên các bình thuốc? Nhất định là một kẻ thường xuyên tiếp cận được với y, người này vừa táo tợn lại vừa cẩn mật, có thể nhìn ra những sơ hở hết sức nhỏ, lại có hiểu biết nhất định đối với các loại thuốc nước mà y chế ra nữa.
Cuối cùng, Soares cũng nhớ ra một người... Nhạc Dương! Chỉ Nhạc Dương mới có thời gian và cơ hội làm như vậy, vả lại Nhạc Dương cũng hiểu biết về các loại thuốc nước này. Vì Nhạc Dương thường xuyên hỏi han, còn y thì đã coi người thanh niên ấy như một hạt giống có thể bồi dưỡng, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng cậu ta có thể làm vậy. Nhưng Nhạc Dương làm vậy có mục đích gì? Đến giờ Soares vẫn chưa rõ lắm. Không sai, đây chính là quả mìn thứ hai Nhạc Dương chôn lại trong đội ngũ của Merkin, từ khi phát hiện ra Merkin lợi dụng thiết bị dẫn nổ trên trang phục để khống chế đám lính đánh thuê, anh đã động tay động chân, khiến một tên lính đánh thuê bị nổ banh xác, kích động mâu thuẫn giữa Merkin và bọn thuộc hạ; còn Soares, hiển nhiên đây chính là người duy nhất có thể khống chế động vật trong nhóm Merkin, nếu nơi bọn họ đến có rất nhiều động vật, vậy thì năng lực của Soares tuyệt đối không thua gì uy lực của toàn bộ đám lính đánh thuê cộng lại. “Vĩnh viễn không thể đối đầu với Thao thú sư trong rừng rậm nguyên sinh đầy rẫy các loài động vật hoang dã.” Lời cảnh cáo ấy, Nhạc Dương chưa bao giờ quên, mà vùng đất trong lời kể của Ba Tang, sao có thể vắng bóng động vật hoang dã cho được?
Nhạc Dương vẫn luôn coi Soares là mối uy hiếp đáng sợ nhất, thậm chí mức độ nguy hiểm của con người này còn cao hơn cả đám lính đánh thuê kia nữa. Nhưng khác với bọn lính đánh thuê, quan hệ giữa Merkin và Soares không tầm thường, Nhạc Dương không thể gợi hiềm khích chia rẽ hai con người này được. Điều duy nhất anh có thể làm, chính là để Soares nhầm lẫn mà thất bại, đồng thời lợi dụng ác cảm củ bọn lính đánh thuê với Soares. Vả lại, anh còn có một trợ thủ rất đắc lực! Sự bất mãn của Max đối với Soares đã không còn chôn sau trong lòng nữa, mà lộ ra hết sức rõ rệt. Nhạc Dương tin rằng Max sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để khiến Soares phải khốn đốn, bởi nếu không có Soares, địa vị của hắn trước mặt ông chủ sẽ được nâng lên một bậc. Đây chính là nguyên nhân tại sao Nhạc Dương dặn Trác Mộc Cường nhất định phải chờ đợi.
Soares vừa đoán 1à Nhạc Dương làm việc đó, còn chưa kịp hiểu lý do tại sao, thì cửa lều đã bị giật tung. Merkin đứng bên ngoài, nét mặt đượm vẻ do dự pha lẫn nghi hoặc. Sau lưng y là đám lính đánh thuê ánh mắt đỏ ngầu, bộ dạng hung hăng như sắp nổi điên! Merkin cũng không biết phải làm sao, từ khi nhìn thấy mấy chục xác lính đánh thuê đêm qua, y đã biết chuyện này không thể nào kết thúc êm đẹp được nữa, y buộc phải đưa ra quyết định sớm hơn một bước, cần phải lựa chọn giữa Soares và bọn lính đánh thuê. Sau khi cân nhắc lợi hại, cuối cùng Merkin nhanh chóng đưa ra quyết định, Soares có thể đối phó với động vật, bọn lính đánh thuê cũng có thể, bọn lính đánh thuê có thể vận chuyển báu vật trong Bạc Ba La thần miếu ra ngoài (tuy chưa chắc đã còn báu vật gì ở đó), nhưng Soares thì không; Soares là chiến hữu của y, còn bọn lính đánh thuê là đám người bị y dùng thuốc nổ gắn trên áo chống đạn khống chế, có điều nếu cứ nhất quyết giữ Soares lại, rất có thể bọn chúng sẽ bất chấp bị nổ tung mà nhao lên tấn công y và Soares. Và còn một nguyên nhân quan trọng nhất là, Merkin bắt đầu nghi ngờ Soares rồi. Trong suy nghĩ của y, dường như Soares đã quá nôn nóng muốn loại trừ một bộ phận lính đánh thuê cho sớm, để ở nơi đầy rẫy sinh vật hoang dã hoành hành này, Merkin y chỉ có thể dựa dẫm vào một mình Soares mà thôi! Mà đêm trước, hành vi của Soares lại càng trắng trợn hơn nữa, bởi vậy, tuy trực giác mách bảo Merkin rằng hành vi của Soares vẫn còn có thể bàn thảo lại, nhưng y không có thời gian suy nghĩ quá nhiều, chuyện này cần phải giải quyết càng sớm càng tốt, trước khi lũ lính đánh thuê kia không kiềm chế được mà nổi loạn!
“Kahn, rốt cuộc anh muốn làm gì vậy?” Merkin chau mày nhìn Soares chằm chằm. Bọn lính đánh thuê sau lưng y đều giương súng nhằm vào tên Thao thú sư, chỉ cần y hơi có hành động khác lạ, chúng sẽ không hề do dự mà nã đạn ngay tức thì không cần đợi Merkin ra lệnh. Nghe thấy câu hỏi ấy của Merkin, Soares lập tức hiểu ra, tại sao Nhạc Dương lại làm như vậy. Song lúc này đã không còn cơ hội để vãn hồi thế cục nữa rồi. Merkin không hề yêu cầu y giải thích, mà nhận định luôn rằng hành vi ấy của y là có âm mưu, có kế hoạch từ trước, nghĩa là cái chết của tất cả bọn lính đánh thuê trong mấy ngày nay, y đều phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. “Nhạc Dương... quả nhiên không hổ là Nhạc Dương!” Soares chua chát thầm nghĩ, lúc này giải thích gì cũng vô dụng rồi, mà giải thích làm sao đây? Nhạc Dương đã biến mất một thời gian dài, những sự việc xảy ra sau khi vượt qua bức tường ấy chẳng còn can hệ gì đến cậu ta nữa. Điều khiến Soares chua chát hơn cả chính là Merkin chọn một đám lính đánh thuê không hề quen biết mà từ bỏ người bạn già nhiều năm cùng y kề vai tác chiến này!
Không phải vì lời mời thành khẩn của Merkin, đời nào y lại tới nơi này chứ? Không ngờ đối phương thậm chí còn không cho y cơ hội giải thích! Ngược lại còn tìm y làm con dê thế tội. Chuyện này nằm cả trong tính toán của anh rồi phải không? “Merkin, anh... anh giỏi lắm!” Soares rít mấy chữ qua kẽ răng nghiến chặt. “Cách cách cách...” xung quanh lập tức vang lên tiếng mở chốt an toàn. Đúng lúc ấy, Merkin thình lình đưa tay ngăn đám lính đánh thuê ở sau lưng lại.
“Ông chủ...” Max đứng bên cạnh nôn nóng nhắc nhở, nếu lúc này vẫn còn một mực bảo vệ Soares, thì đúng là ông chủ hẳn phát điên rồi, chính bản thân hắn cũng sẽ xúi quẩy theo hai người này luôn. Bạn đang đọc truyện tại Truyện FULL - www.Truyện FULL
“Để... anh ấy đi!” Merkin đột nhiên buông một câu khiến Max rùng mình sợ hãi. “Ông chủ!” Max cơ hồ đã cuống đến sắp bật khóc, vẻ mặt rầu rĩ hết sức.
“Ngay cả Trác Mộc Cường Ba tao còn thả đi được, chẳng lẽ Kahn lại không thể sao?” Merkin dường như đã hạ quyết tâm.
Bọn lính đánh thuê đứng xung quanh không nói gì, nhưng không tên nào buông súng xuống, áp lực vô hình từ bốn phía mỗi lúc một thêm nặng nề, tất cả căng ra như thể đã hóa đá. Tròng mắt Max đảo liên hồi kỳ trận, tựa như đang tìm đường bỏ chạy nếu chẳng may xảy ra nổ súng. Còn Khafu, y và đám lính đánh thuê thủ hạ đứng về cùng một chiến tuyến.
“Để anh ấy đi!” Merkin đột nhiên gầm lên một tiếng, sát khí hừng hực tỏa ra khắp châu thân, không ngờ lại đè nén được áp lực vô hình hình thành bởi cả đám người lăm lăm súng ống sau lưng xuống. Bọn lính đánh thuê dường như cũng ý thức được, người đàn ông đang đứng trước mắt này chính là kẻ nắm quyền sinh sát đối với mình!
Soares chầm chậm đứng lên, họng súng của bọn lính đánh thuê dịch chuyển theo y, song không ai nổ súng. Lúc này, Merkin lại buông một câu nữa: “Nhưng anh không được mang theo bất cứ thứ gì.” Y cũng nhượng bộ bọn lính đánh thuê sau lưng một chút, với sự hiểu biết của y về Soares, Merkin đương nhiên biết rõ, một Thao thú sư toàn thân trần trùng trục sẽ rơi vào tình cảnh như thế nào: tuy không đến nỗi chết ngay tại chỗ, song cũng chẳng cách cái chết 1à bao.
Câu nói của Merkin vừa dứt, Soares chầm chậm gỡ cái mũ đen luôn trùm trên đầu xuống, để lộ gương mặt ghê rợn, nát bươm như bị côn trùng cắn xé. Bọn lính đánh thuê bấy giờ mới biết, trước giờ bên cạnh mình vẫn có một con quái vật đáng sợ đến nhường này, cả bọn đều không kìm được khẽ lùi về sau nửa bước. Ngay cả Max, dẫu đã từng thấy gương mặt thật của Soares, cũng bị bầu không khí kỳ dị xung quanh ảnh hưởng, hắn cúi gằm mặt xuống, gắng hết sức nấp sau lưng Merkin, như muốn rụt đầu và tứ chi vào trong cơ thể, dẫu sao thì kẻ khích động đam lính đánh thuê này...
Cái miệng trên gương mặt quái vật đó khẽ nhếch lên, lộ hàm răng trắng và nhọn hoắt, gằn giọng nói từng chữ từng chữ một: “Anh sẽ hối hận đấy!”
Khafu đứng bên thì thầm bảo Merkin: “Làm vậy là thả hổ về rừng!” Song Merkin đã ngang cánh tay ngắt lời y, biểu thị quyết tâm của mình.
Soares chầm chậm cởi bỏ áo ngoài. Trong khu rừng rậm vừa ấm vừa nóng này, y cũng không mặc nhiều áo lắm, vì vậy lập tức lộ ra thân thể bên dưới lớp áo choàng rộng thùng thình! Đó đâu phải thân thể con người chứ, toàn thân chi chít những con giun ngoằn ngoèo màu đỏ thịt, từ trên xuống dưới, không có lấy một mảnh da lành lặn. Bọn lính đánh thuê trông thấy cảnh tượng ấy, lại lùi thêm nửa bước nữa. Max run lên, thầm nhủ: “Lẽ nào, đây là cái giá phải trả để trở thành Thao thú sư?” Y đứng khá gần, có thể thấy rõ những vết thương trên da đều là vết tích bị các loại động vật khác nhau cắn xé.
Soares cởi hết y phục trên người, cả quần lót cũng không để lại, cứ vậy đứng lõa lồ, sau đó liếc nhìn Merkin một cái đầy khinh miệt, sải chân bước về phía đám lính đánh thuê. Các người không xứng đáng kết bè với ta, Mãng Xà Xám này trở về rừng sâu thuộc về ta đây! Soares bước tới đâu, bọn lính đánh thuê tránh ra nhường đường tới đó, bọn chúng không hiểu nổi, tổn thương đến mức nào mới có thể biến một con người thành ra như thế. Có nổ súng hay không? Đi như vậy vào trong rừng rậm, có khác gì tự đâm đầu vào cõi chếtđâu? Bởi thế, bọn chúng chỉ trầm mặc.
Bóng dáng Soares nhanh chóng biến mất sau một thân cây cổ thụ khổng lồ, liền ngay sau đó, tiếng gầm giận giữ của y vẳng lại: “Merkin! Anh giỏi 1ắm!” Mặc dù Merkin rất trấn tĩnh, song không khỏi giật nảy mình vì tiếng gầm bao hàm cả phẫn nộ và oán hận ấy của Soares, cánh tay hơi run run, nhưng y nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, lạnh lùng hạ lệnh: “Tất cả, thu thập hành trang, xuất phát!” Khi y bỏ đi, không cần Merkin ra lệnh, bọn lính đánh thuê đã ào lên đập nát tất cả những gì Soares phảỉ vất vả mới thu thập được. Làm vậy vẫn chưa hả được cơn tức bọn chúng còn dồn đống chai lọ thủy tinh và các thứ khác lại, cho một mồi lửa, khói đen nồng nặc bốc cao ngất trời, tựa như đang kể lể nỗi oán hận vô cùng của những kẻ đã chết. Max không khỏi thầm hụt hẫng, không ngờ Soares lại có thể bỏ đi như vậy. Mà hắn cũng không hề có cảm giác sướng khoái lẽ ra phải có khi Soares bỏ đi, dù chỉ là một chút.